BỘ
THƯƠNG MẠI
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
|
Số 4387 TM/CSTNTN
Thị trường trong nước Tháng 9 và 9 tháng
2003
|
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2003
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Ngày 24 tháng 9 năm 2003, Tổ điều
hành thị trường trong nước dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ Thương mại Phan Thế
Ruệ đã họp đánh giá tình hình thị trường trong nước tháng 9 và 9 tháng năm
2003; đồng thời dự báo tình hình thị trường quý IV/2003 đối với các mặt hàng trọng
yếu; Bộ Thương mại xin báo cáo nội dung cụ thể như sau:
I. NHẬN ĐỊNH CHUNG
Do thời tiết diễn biến thất thường,
mưa lớn diễn ra tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ, gây ngập úng tại một số địa bàn, ảnh
hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân; tại các tỉnh ĐBSCL năm nay nước lũ
về muộn hơn mọi năm, nên vụ Hè Thu không bị ảnh hưởng do lũ. Thị trường và lưu
thông hàng hoá sôi động hơn, hàng hoá phong phú, đa dạng đáp ứng kịp thời nhu cầu
mua sắm tăng ở một số nhóm hàng vào các ngày lễ, tết như: Quốc khánh 2/9; rằm
Trung thư; khai giảng năm học mới... sức mua xã hội tăng đáng kể. Tổng mức lưu
chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 9 năm 2003 ước đạt 26.434 tỷ đồng, tăng
1,2% so với tháng 8 năm 2003. Giá cả hàng hoá trên thị trường không có biến động
lớn, chỉ số giá tiêu dùng cả nước tháng 9 năm 2003 so với tháng 8 năm 2003 bắt
đầu tăng 0,1%, trong đó nhóm dược phẩm - y tế có mắc tăng cao nhất là 2,7%;
nhóm giáo dục tăng 2%; các nhóm khác có mức tăng từ 0,1 - 0,2%; trừ có nhóm thực
phẩm và văn hoá thể thao giảm 0,1 - 0,2%; 2 nhóm: thực phẩm và phương tiện đi lại
ổn định; giá vàng tăng 2,9%; giá đô la Mỹ tăng 0,1%.
Nhìn tổng quát thị trường 9 tháng đầu
năm 2003 cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện gặp không ít
khó khăn; diễn biến của thời tiết năm nay tuy gây tổn thất thấp hơn mọi năm,
song cũng tác động không nhỏ tới sản xuất và đời sống của nhân dân (hạn hán kéo
dài trên diện rộng, mưa lớn xảy ra tại một số tỉnh gây ngập úng), chiến tranh
Irắc, dịch SARS... Chiến tranh Irắc xảy ra đã làm cho cung - cầu, giá cả thế giới
và trong nước diễn biến phức tạp, giá cả nhiều loại hàng hoá, vật tư và sản phẩm
thép, phân bón, hoá chất, thuốc chữa bệnh...), đã tác động tới giá bán trong nước.
Bắt đầu từ 1/7/2003 nhiều mặt hàng nhập khẩu giảm thuế theo tiến trình hội nhập.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn, cạnh
tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở lên gay gắt, các rào cản thương mại
giữa các nước ngày càng gia tăng... nhưng cung - cầu các mặt hàng quan trọng,
thiết yếu trong nước vẫn được đảm bảo, đáp ứng mọi nhu cầu của sản xuất và đời
sống của dân cư. Thu nhập của người nông dân tiếp tục được cải thiện, do giá
nông sản được duy trì ở mức cao. Ước tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch
vụ 9 tháng đầu năm 2003 đạt 227.281 tỉ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ 2003; ước
tính cả năm 2003 đạt khoảng 305.596 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2002. Giá cả
hàng hoá trên thị trường trong 9 tháng đầu năm (đặc biệt trong những ngày lễ, tết),
nhìn chung không có biến động giá trên phạm vi rộng, tuy nhiên một số mặt hàng
do tác động của các yếu tố nên có mức tăng, giảm khác nhau.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2003
do có 5 tháng chỉ số giá giảm (T3: - 0,6%; T5: - 0,1%; T6: - 0,3%; T7: - 0,3%;
T8: - 0,1%) và chỉ có 3 tháng chỉ số gia tăng (T1: + 0,9%; T2: + 2,2%; T9: -
0,1%); 1 tháng chỉ số giá ổn định (T4), nên chỉ số giá dùng 9 tháng năm 2003 chỉ
tăng có 1,8% (9 tháng năm 2002 tăng 3,1%), trong đó lương thực giảm 2,3%; thực
phẩm tăng 2% (9 tháng năm 2002: LT: - 0,3%; TP: + 9%). Chỉ số giá vàng và đô la
Mỹ 9 tháng năm 2002: LT: - 0,3%; TP: 9%). Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ 9 tháng đầu
năm: vàng tăng 13,2%; đô la Mỹ tăng 1%. Theo quy luật hàng năm, chỉ số giá tiêu
dùng sẽ bắt đầu tăng vào những tháng cuối năm, do sức mua xã hội tăng, khả năng
tháng 10 chỉ số giá tiếp tục tăng, nhưng mức tăng không cao.
II. MỘT SỐ MẶT HÀNG TRỌNG YẾU
1. Lương thực
- Theo Bộ Nông nghiệp, đến ngày 15
tháng 9, các tỉnh phía Nam đã thu hoạch được 1,7 triệu ha lúa Hè Thu với năng
suất tương đối khá (chiếm gần 80% diện tích gieo cấy) và đang tập trung gieo cấy
vụ Mùa. Các tỉnh miền Bắc đang tập trung chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch
lúa Mùa sớm và triển khai sản xuất cây vụ Đông. Mưa lớn gây ngập úng tại một số
tỉnh miền Bắc như Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình; trong đó Thái Bình có
diện tích ngập úng lớn nhất là 64.000 ha, chiếm hơn 70% diện tích gieo cấy...
- Ước 9 tháng năm 2003 đã xuất khẩu
được 3,28 triệu tấn gạo. Năm nay thị trường xuất khẩu gạo được cải thiện đã hỗ
trợ giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong 9 tháng tăng: gạo 5% tấm từ 177 USD/tấn
(đầu năm) tăng lên 185 - 186 USD/Tấn (15/9), loại 25% tấm tăng trừ 162 USD/T (đầu
năm) tăng lên 168 USD (15/9). Do giá gạo xuất khẩu tăng đã tác động tới giá
lương thực trong nước luôn ở mức có lợi cho người nông dân.
- Tại các tỉnh Phía Bắc do ảnh hưởng
của mưa lớn nên giá thóc gạo bắt đầu từ giữa tháng 9 tăng từ 100 - 150đ/kg, các
tỉnh phổ biến ở mức: thóc tẻ từ 1.900 - 2.200 đ/kg, gạo tẻ thường từ 2.950 -
3.400 đ/kg.
- Các tỉnh Duyên hải miền Trung và
Đông Nam Bộ giá lúa ổn định từ 1.700 - 1.900 đ/kg; gạo tẻ thường 2.800 - 3.300
đ/kg. Thời gian tới khả năng giá lương thực sẽ nhích lên, do ảnh hưởng của mưa
bão.
- Các tỉnh ĐBSCL lúa Hè Thu cơ bản đã
thu hoạch xong, sản lượng lúa Hè Thu năm nay nhìn chung không bị ảnh hưởng, do
lũ năm nay về muộn, nên nông dân có xu hướng hạn chế bán ra, trong khi nhu cầu
xuất khẩu gạo sang Trung Đông và Châu Á tăng là nhân tố nâng đỡ giá xuất khẩu gạo
và giá lương thực trong nước tiếp tục xu hướng vững giá, một vài tỉnh ĐBSCL giá
lúa, gạo tăng từ 50-100 đ/kg, phổ biến ở mức: lúc Hè Thu từ 1.650 đ/kg - 1.700
đ/kg; lúa Đông xuân từ 2.000 - 2.050 đ/kg; gạo tẻ thường từ 2.600 - 3.000 đ/kg.
Dự báo giá lương thực tiếp tục nhích lên, do nguồn cung giảm, trong khi nhu cầu
xuất khẩu gạo tăng vững.
2. Phân bón:
Do có nhiều thông tin khác nhau về
cung cầu và giá cả phân ure cho vụ Đông Xuân năm 2003/2004, ngày 18 tháng 9 năm
2003 Tổ điều hành thị trường trong nước đã có cuộc họp với các Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính; Bộ Công nghiệp; Hiệp hội phân bón Việt
Nam và Tám doanh nghiệp nhập khẩu phân urê lớn trong cả nước; sau đó Tổ đã có
văn bản số 4340 TM/CSTNTN ngày 23 tháng 9 năm 2003 báo cáo Thủ tướng Chính phủ
với một số nội dung cụ thể như sau:
- Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn thì Vụ Đông Xuân 2003/2004 cả nước cần 1,1, triệu tấn urê, trong đó:
+ Miền Bắc: 360.000 tấn
+ Miền Trung: 150.000 tấn
+ Miền Nam: 600.000 tấn
và Bộ Nông nghiệp tính Cân đối cung -
cầu Urê cho vụ Đông Xuân 2003/2004:
+ Số phần tồn kho vụ Mùa chuyển sang:
150.000 tấn
+ Số phân đã ký hợp đồng và mở L/C:
300.000 tấn
+ Số phân dự kiến nhập khẩu từ tháng
10/2003 đến 2/2004: 860.000 tấn
Tổng cộng: 1.310.000 tấn
Các doanh nghiệp nhập khẩu lớn đều thống
nhất khả năng cung ứng đủ và khẳng định sẽ không thiếu Urê cho vụ Đông Xuân
2003/2004.
- Nhu cầu tiêu dùng phân Urê từ nay đến
cuối năm có đặc điểm khác với các năm trước là:
. Lượng tiêu dùng có thể cao hơn do
lũ ở ĐBSCL về chậm và thời gian lũ ngắn hơn, hoặc không có lũ nên lượng phù sa
ít, nhu cầu cần phân cao hơn (ước lượng Urê cần khoảng 500.000 - 600.000 tấn).
. Nếu lũ ở ĐBSCL không về thì thời
gian xạ lúa ĐX sẽ lớn hơn (khoảng cuối tháng 10) nên cần được cung ứng phân Urê
bón lót sớm hơn.
. Sau ngập úng ở miền Bắc thì khả
năng làm hoa màu vụ Đông cũng có thể sớm hơn nên cần cung ứng phân bón sớm hơn.
- Thực tế theo các số liệu của các
doanh nghiệp nhập khẩu phân bón lớn thì đến này (25/9/2003) đã ký được hợp đồng
nhập khẩu khoảng 500.000 tấn Urê và hàng đã về khoảng trên 150.000 tấn; đến cuối
tháng 9 và tháng 10, tháng 11/2003 hàng sẽ về hết số lượng trên. Như vậy, cộng
với lượng tồn kho (khoảng 150.000 tấn) và tiến độ sản xuất trong nước (khoảng
50.000 tấn Urê và đáp ứng đủ các loại phân khác) cũng như thực hiện kế hoạch nhập
khẩu tiếp, có thể khẳng định đủ nguồn phân bón cho Vụ Đông Xuân từ nay đến hết
năm 2003 và gối đầu 2004. Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn sẽ theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp để hàng về dúng tiến độ; Đồng thời
tăng cường kiểm tra kiểm soát thị trường chống đầu cơ nâng giá, chỉ đạo các đơn
vị nhập khẩu urê điều chuyển từ miền Bắc, miền Trung vào ĐBSCL trướng tháng 11
năm 2003.
- Về giá phân bón Urê: Hiện nay giá
phân urê nhập khẩu của các doanh nghiệp khoảng 150 - 160 USD/tấn, đây cũng là mức
giá đã ký hợp đồng và mở L/C. Từ đó giá bán buôn Urê đóng bao trong nước vẫn ở
mức giá 2.650 - 2.680 đ/kg (giao tại cảng), nên giá bán lẻ phổ biến ở mức 2.800
- 2.900 đ/kg (vài nơi xa ở mức 3.000 đ/kg).
Tuy nhiên, do nguồn phân urê chủ yếu
được nhập khẩu và nhập từ Đông Bắc Trung quốc do vận tải gặp khó khăn và khả
năng đột biến của giá thị trường thế giới là rất khó lường, cần được theo dõi
thường xuyên để chủ động trong việc ký hợp đồng nhập khẩu. Cuối tháng 9 năm
2003 giá phân bón trên thị trường thế giới có chiều hướng tăng: tại Trung Đông
urê giao tháng 10/2003 lên mức 165 USD/FOB, hiện Trung quốc đang chào giá bán từ
160 - 164 USD/T nhưng chưa doanh nghiệp Việt Nam nào ký hợp đồng nhập khẩu theo
giá đó.
Tổ đã có văn bản báo cáo và kiến nghị
với Thủ tướng Chính phủ một số vấn đề:
- Phân bón là vật tư chủ yếu của sản
xuất nông nghiệp, nên để hỗ trợ trực tiếp cho nông dân đề nghị thảm thuế VAT từ
5% như hiện nay xuống 0%. Trước mắt trong khi chờ đợi, đề nghị Bộ Tài chính cho
phép giãn thời gian nộp thuế VAT đối với phân bón nhập khẩu từ 30 ngày lên 60
ngày để các doanh nghiệp có điều kiện chủ động trong việc cung ứng phân bón.
- Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Thương mại xây dựng Quy chế điều hành kinh
doanh phân bón 2004 - 2005.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm nay do
giá thế giới tăng từ 125 - 130 USD/Tấn urê (cuối năm 2002) tăng lên 150 - 160
USD/Tấn urê (có thời điểm tăng lên 172 USD/Tấn urê) đã tác động tới gia phân
bón trong nước tăng từ 2.300 - 2.500 đ/kg Urê (đầu năm) tăng lên 2.750 - 3.000
đ/kg Urê (cùng thời điểm này năm 002 ở mức 2.200 - 2.4000 đ/kg Urê). Tuy nhiên,
với mức giá thóc như hiện nay thì giá phân bón chưa phải là cao( tỷ giá giữa
thóc và Urê thường là 2 thóc = 1 urê).
3. Xăng dầu
- Giá xăng dầu thế giới: So với tháng
8 năm 2003, giá thế giới tháng 9 đã giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức cao, cụ thể:
Đơn vị
tính: USD/thùng, Fo USD/tấn
Mặt hàng B/Quân T8 B/Q 20 ngày
T9
Xăng 92 35,95 31,50
Napta 29,67 28,04
Dầu hoả 33,58 29,51
Diesel 0,5%S 32,33 31,62
- Với mức thuế nhập khẩu hiện đang áp
dụng (xăng 10%, Do: 10%, mazut: 0%, dầu hoả: 15%) và tính theo giá thế giới
bình quân 20 ngày đầu tháng 9/2003 thì kinh doanh Xăng 92 lãi 422 đ/lít, Diezel
lỗ 243 đ/lít. Dầu hoả lỗ 76 đ/lít, mazut lãi 35 đ/kg.
- Mặc dầu giá xăng dầu thể giới ở mức
cao nhưng các doanh nghiệp đầu mỗi vẫn bảo đảm tiến độ nhập khẩu được giao.
Theo báo cáo sơ bộ của các doanh nghiệp đầu mối, ước nhập khẩu 9 tháng được
7,343 triệu tấn, đạt khoảng 70% kế hoạch được giao, do đó thị trường nội địa vẫn
giữ ổn định cả về nguồn và giá bán.
- Ngày 15 tháng 9 năm 2003, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy định số 187/QĐ-TTg về Quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu,
Bộ Thương mại đang chủ động dụ thảo các văn bản hướng dẫn Quyết định để từ ngày
01 tháng 01 năm 2004 thực hiện cơ chế mới được đồng bộ. Trong dài hạn giá xăng
dầu trên thị trường thế giới còn diễn biến phức tạp, khả năng tiếp tục vững
giá, do Tổ chức các nước sản xuất OPEC chưa có chủ trương tăng sản lượng khai
thác dầu mỏ để giảm giá; tình hình chính trị ở Trung Đông vẫn chưa ổn định;
nguy cơ khủng bố đang chiều hướng gia tăng ở nhiều nơi, cùng với nhu cầu tiêu
thụ xăng dầu tăng trong thời gian tới.
- Giá gas: Tuy Công ty Chế biến và
Kinh doanh các sản phẩm khí, nhà cung cấp chiếm 60% thị phần gas tại Việt Nam
ngừng sản xuất 4/9 - 14/s để thực hiện bảo dưỡng, nhưng giá gas trên thị trường
nhìn chung tương đối ổn định, một vài nơi chỉ tăng nhẹ do các doanh nghiệp đã
có kế hoạch dự trữ gas, nguồn cung ứng đảm bảo. Hiện giá gas tại Hà Nội dao động
trên dưới 122.000 đ/bình (13 kg).
4. Sắt thép
- Tháng 9 ước sản xuất thép cán của Tổng
Công ty Thép và Liên doanh được 150.000 tấn, tiêu thụ ước đạt 150.000 tấn, cao
hơn tháng trước nguyên nhân do mùa xây dựng đã bắt đầu. Toàn xã hội tháng 9 ước
tiêu thụ trên 210.000 tấn thép xây dựng, luỹ kế chín tháng toàn xã hội ước tiêu
thụ 1.715.000 tấn thép xây dựng. Thị trường thép nhìn chung vãn kém sôi động
bán ra giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Giá thép trên thị trường trong tháng
nhìn chung ổn định, từ một vài nơi giảm từ 50 - 100 đ/kg, các tỉnh phổ biến ở mức:
thép phi 6 Liên doanh từ 5.700 - 6.000 đ/kg. Giá bán thép xây dựng trong nước của
các đơn vị thuộc Tổng Công ty Thép hiện nay nhìn chung không tăng so với thời điểm
giữa tháng 8 năm 2003, cụ thể giá bán buôn thép xây dựng hiện hành (chưa có VAT
và đã trừ chiết khấu):
Phía Bắc Miền Trung Phía
Nam
* Thép cây: 5.424 đ/kg(-48) 5.180
đ/kg 5.250 đ/kg
* Thép cuộn 5.280 5.208 (+60) 5.300
- Giá nhập khẩu thép tấm, lá tăng nhẹ
so với cuối tháng 8/2003 từ 5 - 10 USD/tấn. Tuy nhiên, giá bán trong nước lại
giảm từ 100 - 200 đ/kg tại các khu vực (tại thời điểm 19/9/2003) từ 100 - 200
đ/kg tại các khu vực.
- Dự kiến trong những tháng cuối năm,
tình hình tiêu thụ có thể khá hơn do đã hết mùa mưa, nhu cầu xây dựng tăng lên.
Giá cả dự báo không biến động nhiều. Nhưng do hiện nay lượng thép tồn kho cả nước
lên tới 230.000 tấn và các doanh nghiệp, hiện vẫn bán theo mức giá thấp hơn giá
thành nên cần điều chỉnh kế hoạch sản xuất để giảm mức tồn kho (Hiệp hội Thép
đã họp với các doanh nghiệp phía Bắc để bàn về giải pháp này).
- Từ ngày 1 tháng 9 năm 2003 phụ thu
4% đối với thép tấm nhập khẩu được bãi bỏ, như vậy giá thép tấm nhập khẩu có thể
giảm 150 - 200đ/kg. Ngược lại các lọi thép cuộn cán nóng dày 3mm trở lên sẽ phải
chịu thuế nhập khẩu 5% (trước đây không chịu thuế nhập khẩu), do vậy giá nội địa
mặt hàng này có thể tăng 200 - 250 đ/kg. Điều này cũng sẽ làm tăng giá thành của
các đơn vị sản xuất ống thép.
- Ước sản lượng thép của Tổng Công ty
Thép Việt Nam cả năm 2003 khoảng 853.000 tấn, tăng 13,6% so với 2002. Các Liên
doanh đạt 933.000 tấn, tương đương năm 2002. Các Doanh nghiệp khác khoảng 1 triệu
tấn, tăng 100%. Như vậy, tổng lượng thép sản xuất trong nước năm 2003 ước khoảng
,786 triệu tấn. Ước nhập khẩu năm 2003 khoảng 2,3 triệu tấn phôi và 2,5 triệu tấn
thép thành phẩm. Ước tiêu thụ thép cả nước năm 2003 Khoảng 5,3 triệu tấn và dự
kiến nhu cầu tiêu thụ thép năm 2004 khoảng 6 triệu tấn.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2003
do gia phôi thép nhập khẩu tăng từ 245 USD/Tấn lên 275 - 278 USD/tấn (có thời điểm
tăng lên mức 285 - 300USD/Tấn) đã tác động tới giá thép trên thị trường trong
nước tăng từ 4.900 - 5.300 đ/kg lên 5.700 - 6.000 đ/kg thép XD phi 6. Tuy giá
bán thép tăng nhưng do vẫn thấp hơn giá thành (chủ yếu đối với các doanh nghiệp
sản xuất bằng 100% phôi nhập) nên nhiều doanh nghiệp bị lỗ và do giá cao nên
tiêu thụ khó khăn (theo Hiệp hội thép VN trong số 20 Công ty sản xuất thép thì
có 8 Công ty đã phải bán sản phẩm dưới giá thành).
5. Xi măng
- Đang mùa mưa bão, như cầu tiêu thụ
xi măng nhìn chung chưa tăng, giá xi măng trên thị trường khá ổn định trong phạm
vi cả nước: xi măng PC 30 từ 750 - 780 đ/kg (phía Bắc) và 780 - 920đ/kg (phía
Nam).
- Ước sản lượng sản xuất xi măng
tháng 9/2003 đạt 1,680 triệu tấn (trong đó TCTy xi măng là 772.000 tấn, các
Công ty liên doanh là 498.000 tấn), ước 9 tháng /2003 đạt 6,837 triệu tấn
(trong đó TCTy xi măng là 7,857 triệu tấn; các Công ty Liên doanh là 5,009 triệu
tấn). Ước tiêu thụ xi măng tháng 9 năm 2003 đạt 1,715 triệu tấn. Ước tiêu thụ 9
tháng/2004 tại 6,710 triệu tấn 9trong đó Tổng Công ty là 7,779 triệu tấn; các
Công ty Liên doanh là 4, 946 triệu tấn). Dự kiến nhu cầu tiêu thụ Quý IV/2003 đạt
6 - 6,3 triệu tấn.
- Hiện có hiện tượng phát triển các
trạm nghiền xi măng địa phương không đảm bảo chất lượng gây ô nhiễm môi trường,
cần được chấn chỉnh.
- Thời gian tới nhu cầu xây dựng sẽ
tăng cao (đặc biệt tại các tỉnh phía Bắc), nhưng nguồn cung ứng trên thị trường
tiếp tục tăng, giá xi măng sẽ không có biến động).
- Bộ Xây dựng đã có văn bản yêu cầu
các tỉnh Biên giới phía Bắc kiểm tra, báo cáo tình hình xi măng nhập lậu từ
Trung Quốc, nhưng cho đến nay vẫn chưa có hiện tượng nhập lậu xi măng từ TQ
sang.
6. Mía đường
- Vụ mía đường 2003/2004, hiện nay đã
có 4 nhà máy tại ĐBSCL đi vào sản xuất, lượng mía ép đạt 60.000 tấn, sản xuất
được 3.800 tấn đường. Lượng đường tiêu thụ tháng 9/2003 khoảng 90.000 tấn. Tồn
kho cuối tháng 9 năm 2003 khoảng 15 - 20.000 tấn đường. Tháng 10 sẽ cho thêm 2
nhà máy nữa đi vào sản xuất nên đủ nguồn cung ứng cho tiêu dùng tháng 10/2003.
- Trên thị trường giá đường nhìn
chung ổn định, trừ một vài tỉnh ĐBSCL giá đường tăng: Cần Thơ; Đồng Tháp đường
kết tinh loại 1 tăng 200 đ/kg lên mức 5.000 đ/kg, đường RE các tỉnh phố biến ở
mức từ 4.800 - 5.500 đ/kg.
7. Muối
- Tổng Công ty Muối đã chỉ đạo các
thành viên tích cực tiêu thụ muối cho diêm dân, 9 tháng đầu năm, lượng muối Tổng
Công ty mua vào ước đạt 237.700 tấn muối, bằng 59% KH; lượng muối bán ra ước đạt
196.000 tấn, bằng 55% KH (ước cả năm mua vào 300.000 tấn, bán ra 280.000 tấn).
- Theo Tổng Công ty Muối: Ước sản lượng
sản xuất cả nước 9 tháng năm 2003 đạt 696.158 tấn muối (cả năm khoảng 750.000 tấn);
nhập khẩu 9 tháng 80.000 tấn (cả năm khoảng 100.000 tấn). Tiêu thụ cả nước năm
2003 đạt khoảng 750.000 tấn, trong đó cho tiêu dùng dân cư 450.000 tấn, cho
công nghiệp 200.000 tấn và dự trữ lưu thông 100.000 tấn.
- Nếu năm 2002 giá mua muối tăng giảm
mạnh (đầu năm ở mức cao như miền Bắc 740 đ/kg, miền Trung 750 đ/kg, miền Nam
440đ/kg và thấp ở cuối năm như miền Bắc 400 đ/kg, miền Trung 440 đ/kg, miền năm
265 đ/kg) thì năm 2003, giá mua muối trên thị trường lại luôn ổn định ở mức thấp:
miền Bắc 380 đ/kg, miền Trung 260 đ/kg; miền Nam 300 đ/kg.
8. Thuốc chữa bệnh
Nhìn chung thị trường thuốc tân dược
những ngày cuối tháng 8 và 20 ngày đầu tháng 9 năm 2003 có biến động mạnh về
giá cả. Cụ thể:
- Đối với thuốc nội: Giá thuốc trong
nước sản xuất nhìn chung không biến động nhiều.
- Đối với thuốc nhập khẩu: Giá có xu
hướng tăng, chủ yếu là thuốc nhập của Mỹ. Pháp. Cụ thể, qua thống kê khoảng gần
100 mặt hàng thuốc tăng giá cho thấy:
+ Loại thuốc tăng 5% so với giá cũ
(như Diprospan inj, Mikrrolismi lớn, nhỏ...), Các loại biệt dược điều trị viêm
gan, tiểu đường như Glucopluze, Diamicron cũng tăng nhẹ từ 1.000 - 2.000 đ/vỉ...
+ Loại thuốc giá tăng trung bình từ
10 - 35% (điển hình như thuốc Tergynan trước có 46.000 đồng/hộp 10 viên nay lên
60.000 đồng/hộp, thuốc chích giảm đau Dectaneyl trước 34.000 đ/lọ thì nay tăng
lên 50.000 đ/lọ, thuốc Novalgin cũng tăng từ 3.000 - 4.000 đ/hộp và một số loại
thuốc kháng sinh...).
Trong thời điểm này việc tăng giá chủ
yếu do phản ứng của thị trường trước chủ trương niêm yết giá thuốc từ ngày 1
tháng 10 năm 2003 vì nếu niêm yết giá thấp thì sản phẩm sẽ gặp trở ngại trong vấn
đề lưu thông, không đến được thị trường trong cả nước. Theo ý kiến của một số
doanh nghiệp dược trong nước cho biết, giá nguyên liệu thuốc hiện nay đang tiếp
tục giảm, chẳng hạn giá nguyên liệu vitamin C đã giảm từ 15 USD/kg xuống còn 3
- 6 USD/kg, Bộ Khoa học và Công nghệ, Paracetamol... đều giảm. Nhưng để thuốc
lưu thông được đến cả nước theo tinh thần thông tư 08 của Liên Bộ, và dự phòng
các biến động tăng giá nhập nên bắt buộc phải niêm yết giá bán cao. Dự báo giá
thuốc trong tháng 10 sẽ còn tăng (Đặc biệt là thuốc nhập ngoại).
- Ngày 15 tháng 8 năm 2003, Hiệp hội
sản xuất và kinh doanh Dược Việt Nam đã có công văn số 182/HHD-VP yêu cầu “...
Các doanh nghiệp nhập khẩu và sản xuất cần nghiên cứu quy định giá bán lẻ thống
nhất trên toàn quốc và sản xuất cần nghiên cứu quy định giá bán lẻ thống nhất
trên toàn quốc cho từng sản phẩm theo quy định tại Khoản a, Điểm
3, Chương 2 của Thông tư, lưu ý phải đảm bảo cho sản phẩm được lưu hành
thông suốt trên thị trường toàn quốc nhưng không làm giá bán lẻ dược phẩm tăng
cao đột biến”.
Tháng 9/2003, nhóm dược phẩm - y tế
có mức tăng giá cao nhất là 2,7% (nhóm dược phẩm - y tế từ đầu năm đến nay là
nhóm hàng có chỉ số giá tăng liên tục - trừ tháng 6/2003 - cụ thể: tháng 1 tăng
0,7%; tháng 2 tăng 0,5%; tháng 3 tăng 8,1%; tháng 4 tăng 2,6%; tháng 5 tăng
1,3%; tháng 7 tăng 0,4%; tháng 8 tăng 0,3% và tháng 9 tăng 2,7%. Tổ điều hành
thị trường trong nước Đề nghị Bộ Y tế báo cáo cụ thể tình hình tăng giá Thuốc
hiện nay và các giải pháp nhằm bình ổn ngay giá thuốc, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa
bệnh với mức giá hợp lý cho người bệnh để Tổ làm tờ trình báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
9. Giấy
- Từ đầu tháng 7 năm 2003: Công ty Giấy
Bãi Bằng - đơn vị lớn nhất của Tổng Công ty Giấy Việt Nam - tạm ngừng sản xuất
để đầu tư nâng cấp nên lượng giấy sản xuất trong tháng 9 năm 2003 của TCT thấp
hơn so với các tháng trước, đạt khoảng 13.219 tấn giấy các loại (riêng giấy in,
giấy viết khoảng 7.080 tấn).
- Do đã bước vào năm học mới nên giấy
sản xuất trong nước tiêu thụ tốt, lượng tồn kho của TCT giảm xuống chỉ còn
24.000 tấn (tính đến 15/9) trong đó chủ yếu tồn ở khâu lưu thông.
- Hiện nay giá giấy thế giới đang ở mức
cao (khoảng 680 - 700 USD/T) nên lượng nhập tháng 9 năm 2003 chỉ khoảng 30.000
tấn (trong đó giấy in, viết chỉ 1.500 tấn, giấy in báo 1.800 tấn).
- Giá cả thị trường giấy tháng 9 năm
2003 có xu hướng tăng nhẹ, một phần do Công ty Giấy Bãi Bằng ngừng sản xuất, một
phần do giá thế giới cao. Để đáp ứng đủ nhu cầu giấy in (đặc biệt là giấy in
báo), giấy viết cho thị trường. TCT Giấy đã phân công cho các đơn vị Tân Mai, Đồng
Nai, Việt Trì, Bình An, Vạn điểm tăng cường sản xuất để bù đắp sự thiếu hụt,
đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất.
- Ước 9 tháng sản xuất giấy trong nước
đạt 457.000 tấn, nhập khẩu khoảng 330.000 tấn giấy các loại nhập khoảng 47.000
tấn bột giấy, xuất khoảng 60.000 tấn giấy các loại.
III. VỀ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG
TÁC CỦA TỔ.
1. Trong tháng tổ đã làm việc với Bộ
Công nghiệp về cân đối cung cầu và thị trường các mặt hàng thép, giấy, phân
bón; với Bộ Xây dựng về mặt hàng Xi măng. Theo kế hoạch Tổ đề nghị các Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Y tế bố trí lịch làm việc để Tổ làm việc tiếp
các mặt hàng Lương thực, Mía đường, Phân bón, Muối và thuốc chữa bệnh - Trong
tháng 10/2003 Tổ phải hoàn chỉnh Tờ trình Chính phủ về “Cân đối cung - cầu và
thị trường các mặt hàng trọng yếu năm 2004”.
2. Trước tình hình thị trường phân
bón có nhiều thông tin khác nhau. Tổ đã họp với các bộ ngành và 8 doanh nghiệp
nhập khẩu lớn để đánh giá chính xác tình hình. Tổ đã có văn bản báo cáo Chính
phủ.
3. Trước tình hình Giá thuốc chữa bệnh
tăng cao, Tổ đề nghị Bộ Y tế chủ trì phối hợp với các ngành liên quan mời Hiệp
hội Dược, các Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc lớn họp bàn tìm giải
pháp khắc phục ngay cuối tháng 9 năm 2003 để có Tờ trình báo cáo Chính phủ cụ
thể.
4. Các thành viên của Tổ và các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh đều cho rằng thị trường, giá cả các mặt hàng trọng
yếu rất nhạy cảm nên đề nghị Chính phủ có ý kiến chỉ đạo kịp thời việc đưa các
thông tin về vấn đề này cần thận trọng hơn, tránh gây các dư luận không tốt, ảnh
hưởng xuất tới hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế và đời sống nhân dân.
Kính trình Thủ tướng Chính phủ.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG
Phan Thế Ruệ
|