Kính gửi:
|
- Các Bộ: Ngoại giao; Tư pháp; Công
Thương; Công an (Cục An ninh kinh tế); Giao thông vận tải; Giáo dục và Đào tạo;
Khoa học và Công nghệ; Lao động - Thương binh và Xã hội; Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn; Tài chính; Tài nguyên và Môi trường; Thông tin và Truyền
thông; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Xây dựng; Y tế;
-
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
|
Nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập dịch
vụ trong ASEAN và cải thiện khả năng cạnh tranh của các ngành dịch vụ, cũng như
góp phần thực thi các nghĩa vụ quy định tại Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN,
Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân, Khuôn khổ tạo thuận lợi dịch vụ trong
ASEAN (ASEAN Services Facilitation Framework - ASFF) đã
được Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN (CCS) triển khai xây dựng và hoàn thiện
trong năm 2023.
Với vai trò là cơ quan đầu mối của Việt
Nam trong CCS, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp cùng các cơ quan liên quan
tham gia các phiên họp thường niên, phiên họp đặc biệt để thảo luận
các nội dung của dự thảo ASFF và phiên họp rà soát pháp lý để hoàn thiện lời
văn của ASFF. Thời điểm thông qua ASFF dự kiến tại Hội nghị Bộ trưởng
kinh tế hẹp ASEAN lần thứ 30 tổ chức từ ngày 07-08/3/2024 tại Luông Pra-bang,
Lào.
Để có cơ sở
pháp lý thông qua ASFF, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện trình tự, thủ tục theo
quy định tại Chương II Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi kèm công văn
này các tài liệu: i) Dự thảo văn bản trình Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
nội dung ASFF; ii) Khuôn khổ tạo thuận lợi dịch vụ ASEAN (bản tiếng Anh); iii)
bản dịch tiếng Việt của ASFF; iv) Tổng hợp, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành
đối với các nội dung của dự thảo ASFF.
Văn bản góp ý của Quý Cơ quan đề nghị
gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 30/12/2023 để tổng hợp, đề xuất
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt ASFF. Sau thời hạn này, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư không nhận được ý kiến của Quý Cơ quan xin được hiểu là nhất
trí hoàn toàn với hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ.
(Thông tin tiên hệ: đ/c Bùi Hồng Vinh,
điện thoại: 0902166085; email: bhvinh@mpi.gov.vn)
Trân trọng cảm ơn sự phối hợp của Quý
Cơ quan./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
-
Văn phòng Chính phủ (để biết);
-
Các đơn vị: ĐTNN, KTĐN, PC (để có ý kiến);
-
Lưu VT, KTCNDV.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Thành Trung
|
Kính gửi: Thủ tướng
Chính phủ
Trong khuôn khổ chương trình công tác
của Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN (CCS) năm 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
cùng đại diện các nước ASEAN xây dựng và hoàn thiện Khuôn khổ tạo thuận lợi dịch
vụ ASEAN (ASEAN Services Facilitation Framework - ASFF).
Căn cứ quy định tại Chương
II Luật Thỏa thuận quốc tế số 70/2020/QH14 ngày 13 tháng 11 năm 2020 của Quốc
hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
ASFF như sau:
1. Yêu cầu, mục đích
của ASFF
Tầm quan trọng của các quy định trong
nước trong việc tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ xuyên biên giới đã được
nhìn nhận trong quá trình đàm phán Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS)
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiện đang có những nỗ lực đa phương nhằm
cải thiện cơ chế thương mại dịch vụ, như tại các hiệp định thương mại tự do
(FTA) của ASEAN với các đối tác hay trong Sáng kiến Tuyên bố chung của WTO về
quy định trong nước mà một số quốc gia thành viên ASEAN tham gia. Tuy nhiên,
trong chính phạm vi của ASEAN, chưa có cách tiếp cận toàn diện và/hoặc độc lập
nào để tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ, ngoài việc chỉ điều chỉnh các quy
định trong nước từ tác động của các FTA.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN
(AEM) lần thứ 48 vào tháng 8 năm 2016, Kế hoạch hành động chiến lược về dịch vụ
giai đoạn 2016-2025 đã được thông qua. Nhằm triển khai Kế hoạch hành động cũng
như giải quyết bất cập nêu trên, nhiệm vụ “Thiết lập các nguyên tắc khả thi đối
với các quy định trong nước để đảm bảo khả năng cạnh tranh của khu vực dịch vụ”
đã được đề ra. Theo đó, tại các phiên họp của Ủy ban điều phối dịch vụ ASEAN
(CCS), các nguyên tắc, thỏa thuận dịch vụ khả thi nhằm giải quyết các vấn đề mới
đã được thảo luận và là một trong những nội dung ưu tiên hằng năm của CCS trong
giai
đoạn
2020-2023. CCS đã tiến hành xây dựng ý tưởng và triển khai thảo luận về ASFF và
đặt ưu tiên hoàn thành lời văn của ASFF trong năm 2023.
Khuôn khổ tạo thuận lợi dịch vụ trong
ASEAN được xác định như một bộ nguyên tắc chung và kế hoạch hành động nhằm thúc
đẩy tiến trình hội nhập dịch vụ trong ASEAN và cải thiện khả năng cạnh tranh của
các ngành dịch vụ, cũng như góp phần thực thi các nghĩa vụ quy định tại Hiệp định
thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA), Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP),
Sáng kiến Tuyên bố chung của WTO về quy định trong nước đối với lĩnh vực dịch vụ,
cũng như phù hợp với sự phát triển và thực tiễn hoạt động của khu vực trong những
năm gần đây.
Mục tiêu của ASFF: (i) cải thiện chính
sách và quy định hiện hành của các quốc gia trong khu vực ASEAN thông qua việc
hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch cho thương mại và đầu tư;
(ii) tăng cường lợi ích hiện có từ các cam kết mở cửa thị trường từ tiến trình
hội nhập dịch vụ trong khu vực.
Sau khi được thông qua, ASFF sẽ không
có tính chất ràng buộc về pháp lý giữa các nước thành viên ASEAN. Mỗi quốc gia
thành viên sẽ nỗ lực duy trì và thực hiện các nguyên tắc của ASFF trong phạm vi
có thể thực hiện được và phù hợp với luật pháp, quy định trong nước cũng như
tương ứng các nghĩa vụ quốc tế của mình.
Quá trình xây dựng ASFF:
Với mục tiêu nêu trên, tại CCS 100 (diễn
ra trực tuyến từ ngày 07-09/3/2022), CCS yêu cầu Ban thư ký ASEAN xây dựng và đệ
trình tài liệu về sự thích ứng của Khung tạo thuận lợi đầu tư ASEAN (AIFF) với
ASFF. Để cung cấp thông tin cho Ban thư ký ASEAN, CCS đề nghị các quốc gia
thành viên nghiên cứu, đề xuất các vấn đề có tính khả thi để đưa vào ASFF.
Tại CCS 101 (diễn ra trực tuyến từ
ngày 25-27/4/2022), CCS đã thảo luận về một số nội dung có thể có trong ASFF,
bao gồm: Tăng cường hơn nữa các cam kết của ATISA trong các quy định trong nước
dựa trên các cam kết theo RCEP và một số FTA cũng như Sáng kiến chung của WTO về
Quy định trong nước về dịch vụ được ký kết gần đây; Giải quyết các vấn đề mới
và mới nổi như số hóa và nền kinh tế tuần hoàn hoặc phát triển bền vững; Đưa ra
lộ trình hoặc danh sách các hoạt động hỗ trợ cần thực hiện được thực hiện trong
tương lai, trong đó có việc phát triển cổng thông tin về các cam kết của các quốc
gia ASEAN trong các FTA khác nhau.
Tại CCS 102 (diễn ra tại Phi-líp-pin từ
ngày 28-30/9/2022), CCS đã thảo luận về dự thảo ASFF ban đầu do Ban Thư ký
ASEAN đề xuất. Các nước thành viên đã bày tỏ quan điểm đối với bản dự thảo như
cần tập trung vào hợp tác trong khu vực, tăng tính kết nối, tăng cường hơn nữa hiệu
quả của hội nhập dịch vụ, giải quyết các vấn đề liên quan đến dịch vụ, ảnh hưởng
của ASFF tới cam kết trong ATISA.
Trong năm 2023, CCS đã tổ chức các cuộc
họp để tiếp tục thảo luận và hoàn thiện Dự thảo chi tiết của ASFF (02 phiên họp
thường niên: CCS 103 từ 28/02-02/3 tại Thái Lan; CCS 104 từ 15-19 tháng 5 tại
In-đô-nê-xi-a; và 03 phiên họp đặc biệt: CCS đặc biệt lần 1 theo hình thức trực
tuyến: từ 03-05/4; CCS đặc biệt lần 2 từ 05-07/7 tại Xinh-ga-po; CCS đặc biệt lần
3 từ 07-09/8 tại Lào). Phiên họp rà soát pháp lý đối với ASFF đã diễn ra trực
tuyến vào ngày 16/10/2023 với sự thống nhất cao giữa các nước thành viên ASEAN
đối với phần lời văn của ASFF.
2. Nội dung chính của
ASFF
- ASFF bao gồm 16 nguyên tắc, cụ thể:
(i) Ban hành và quản lý các biện pháp tác động tới thương mại dịch vụ; (ii) Thủ
tục nộp hồ sơ cung cấp dịch vụ; (iii) Đánh giá năng lực doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ; (iv) Minh bạch các biện pháp và thông tin; (v) Sự độc lập của các cơ quan
có thẩm quyền; (vi) Chi phí; (vii) Tên doanh nghiệp; (viii) Hợp tác; (ix) Nhập
cảnh và lưu trú của nhà cung cấp dịch vụ; (x) Tăng cường tận dụng Thỏa thuận thừa
nhận lẫn nhau; (xi) Việc sử dụng công nghệ số và internet; (xii) Nền tảng số duy
nhất; (xiii) Hoạt động triển khai sắp tới; (xiv) Kinh tế tuần hoàn; (xv) Sự
tham gia của các bên liên quan; (xvi) Tổ chức thực hiện.
- Về tổ chức thực
hiện: Trong khuôn khổ làm việc của CCS, đại diện các nước ASEAN sẽ thường xuyên
cập nhật với Ban Thư ký ASEAN về quá trình triển khai các nguyên tắc của ASFF.
3. Sự phù hợp của
ASFF với quy định của pháp luật Việt Nam
Nội dung của ASFF không có tính ràng
buộc pháp về mặt pháp lý giữa các bên tham gia. Vì vậy, ASFF không xung đột với
quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam như Luật Xuất, nhập cảnh của công
dân Việt Nam năm 2019, Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)..., cũng như các điều ước
quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
4. Tác động của ASFF
Việc tham gia triển khai ASFF khi được
thông qua cũng thể hiện sự tích cực tham gia hợp tác toàn diện của Việt Nam
trong khu vực, bảo đảm cùng với các nước thành viên khác hoàn thành các mục
tiêu chung về hội nhập dịch vụ trong ASEAN.
Các điều khoản trong ASFF nhằm tạo thuận
lợi cho hoạt động cung cấp dịch vụ giữa các nước trong khu vực, thúc đẩy mở cửa
thị trường dịch vụ, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp của các nước, không tạo
ra các rủi ro về quốc phòng, an ninh.
5. Việc tuân thủ các
nguyên tắc quy định tại Điều 3 Luật Thỏa thuận quốc tế
năm 2020
Nội dung của ASFF đảm bảo tuân thủ Điều 3 của Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020.
6. Tính khả thi, hiệu
quả của ASFF
ASFF là một khuôn khổ chính sách nhằm
cải thiện khả năng tiếp cận và tính minh bạch của các biện pháp, quy định trong
từng nước thành viên ASEAN. Bên cạnh đó, ASFF cũng thúc đẩy việc thực hiện thủ
tục hành chính trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà cung cấp dịch vụ của mỗi nước tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng dịch vụ của
khu vực ASEAN, từ đó góp phần vào tăng trưởng thương mại chung của khu vực.
7. Ý kiến của các Bộ
ngành liên quan
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã gửi văn bản triển khai kết
quả các phiên họp đặc biệt về ASFF trong năm 2023 (văn bản số:
2965/BKHĐT-KTCNDV ngày 18/4/2023, 4275/BKHĐT-KTCNDV ngày
07/6/2023, 5714/BKHĐT-KTCNDV ngày 19/7/2023 để các Bộ, ngành có ý kiến về dự thảo
ASFF. 07 cơ quan có ý kiến bằng văn bản (các Bộ: Công Thương, Tài chính, Công
an, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Giao thông vận
tải). Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp và giải trình ý kiến của các Bộ, ngành
tại Phụ lục kèm theo.
Ngày 18/8/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
gửi văn bản số 6737/BKHĐT-KTCNDV về việc triển khai kết quả phiên họp đặc biệt
lần thứ 3 về ASFF, trong đó có đề nghị các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu dự thảo
ASFF và có ý kiến đối với các nội dung khác biệt lớn của dự thảo ASFF so với
pháp luật hiện hành trong nước của Việt Nam, chuẩn bị cho phiên họp rà soát
pháp lý đối với ASFF vào ngày 16/10/2023. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được 01 ý
kiến của Bộ Công Thương và đã có giải trình tại Phụ lục kèm theo.
Ngày 16/10/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
tham gia phiên họp rà soát pháp lý đối với ASFF. Về cơ bản, nội
dung các tiêu đề, lời văn của ASFF không thay đổi so với dự thảo ASFF sau phiên
họp đặc biệt lần thứ 3, chỉ chỉnh lý lại một số đoạn lời văn về vị trí câu từ,
lựa chọn loại từ cho phù hợp.
Để có cơ sở
pháp lý nhằm thông qua ASFF tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế hẹp ASEAN lần thứ 30
tổ chức từ ngày 07-08/3/2024 tại Luông Pra-bang, Lào, ngày .../.../2023, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã gửi công văn số ..../BKHĐT-KTCNDV lấy ý kiến các Bộ, ngành
liên quan đối với hồ sơ đề xuất thông qua ASFF theo quy định tại Chương
II Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020. (Ý kiến của Bộ,
ngành liên quan đối với dự thảo văn bản xin ý kiến Thủ
tướng Chính phủ sẽ được bổ sung sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được ý kiến
bằng văn bản của các cơ quan).
8. Kiến nghị
Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị Thủ tướng
Chính phủ xem xét:
- Phê duyệt nội dung Khuôn khổ tạo thuận
lợi dịch vụ ASEAN.
- Giao Bộ Công Thương thông báo với
Ban Thư ký ASEAN về việc Việt Nam thông qua Khuôn khổ tạo thuận lợi dịch vụ
ASEAN dự kiến tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế hẹp ASEAN lần thứ 30 tổ chức từ
ngày 07-08/3/2023 tại Luông Pra-bang, Lào.
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện các nội dung của Khuôn khổ
tạo thuận lợi dịch vụ ASEAN; thông báo tới các nước thành viên ASEAN về quá
trình triển khai của Việt Nam tại các cuộc họp của Ủy ban điều phối dịch vụ
ASEAN.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư kính trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.
Nơi nhận:
-
Như trên;
-
Văn phòng Chính phủ;
-
Các Bộ: Ngoại giao, Tư pháp, Công Thương; Công an,
Giao thông vận tải, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và
Công nghệ, Lao động, Thương binh và Xã hội, Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn,
Tài
chính, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và truyền thông, Văn hóa, thể thao
và Du lịch, Xây dựng, Y tế;
-
Lưu VT, KTCNDV.
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn
Chí Dũng
|
PHỤ
LỤC
TỔNG
HỢP VÀ GIẢI TRÌNH, TIẾP THU Ý KIẾN CÁC BỘ, NGÀNH ĐỐI VỚI DỰ THẢO KHUÔN KHỔ TẠO THUẬN LỢI
DỊCH VỤ ASEAN (ASFF)
CƠ QUAN,
ĐƠN VỊ
|
NỘI DUNG Ý
KIẾN
|
GIẢI TRÌNH,
TIẾP THU CỦA BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
|
Bộ Công Thương (văn bản số
4362/BCT-ĐB, ngày 05/7/2023)
|
- Đối với lời văn tại điểm 4.5 và
5.1: Hiện nay, Việt Nam chưa tham gia WTO JISDR, do vậy Bộ Công Thương cho rằng
ta nên ưu tiên sử dụng lời văn của Khung thuận lợi hóa đầu từ (AIFF)
và Hiệp định thương mại dịch vụ ASEAN (ATISA) do đây là những Hiệp định mà ta
đã là thành viên.
|
Việt Nam có cơ quan chuyên trách về
đầu tư, nhưng không có cơ quan chuyên trách về dịch vụ. Các ngành/phân ngành
dịch vụ do các cơ quan khác nhau quản lý, do vậy việc duy trì một đầu mối
(contact point) là khó khả thi.
Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã lựa
chọn lời văn của WTO JIDR trên cơ sở CCS bổ sung từ “encourage” vào lời văn
các đoạn này.
|
- Nhất trí với đề xuất của Thái Lan
về việc bổ sung từ “applicable” tại mục 11.2
|
Trước đó, lời văn 11.2 theo đề xuất
của Thái Lan là “11.2. Establish or maintain online platforms for the
administration of applications, renewals and aftercare needs for the supply
of applicable services”. Sau đó, CCS đã lược bỏ đi “applicable” và bổ sung
“encourage” để không mang tính bắt buộc.
|
- Nhằm duy trì sự nhất quán về nghĩa
vụ thực thi của các điều khoản tại Mục C, Bộ Công
Thương đề xuất thay thế từ "promote" thành "encourgage"
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu và
có ý kiến tại phiên họp CCS. CCS đã tiếp thu ý kiến của Việt Nam tại phiên họp
CCS đặc biệt lần thứ 2.
|
- Đối với nội dung về kinh tế tuần
hoàn: Bộ Công Thương cho rằng ta có thể linh hoạt theo đồng thuận của ASEAN đối
với nội dung này, tuy nhiên các nội dung chỉ nên mang tính hợp tác.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu.
CCS đã bổ sung từ “encourage” vào các nội dung của điều này.
|
Bộ Tài chính (văn bản số 7533/BTC- HTQT, ngày
21/7/2023)
|
(a) Ý kiến chung
- Hiện nay dự thảo ASFF đang được
xây dựng trên cơ sở các hiệp định ASEAN đã ký kết, một số nội dung được lấy từ
các các tài liệu của WTO như Sáng kiến chung về nguyên tắc
trong nước đối với lĩnh vực dịch vụ (WTO-JISDR) và Sáng kiến chung về tạo thuận
lợi đầu tư cho phát triển (WTO-IFD). Trong bối cảnh tiến độ đàm phán ASFF
theo kế hoạch sẽ kết thúc trong năm 2023, hiện nay các nước đã đồng ý nguyên
tắc cam kết tại ASFF là mỗi Quốc gia Thành viên sẽ nỗ lực duy trì và thực hiện
ở mức độ có thể và đảm bảo phù hợp với luật pháp và quy định trong nước của
mình (đoạn 8 - 9 dự thảo Phần mở đầu), đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng
phương án đàm phán, đảm bảo lợi ích của Việt Nam, đặc biệt là các nội dung được
lấy từ WTO-JISDR và WTO-IFD là các sáng kiến mà Việt Nam không phải là thành
viên, báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt.
|
ASFF được xác định là khuôn khổ
chính sách không mang tính chất ràng buộc pháp lý (non- legally binding) và
các nước thành viên ASEAN sẽ nỗ lực thực hiện các biện pháp đề ra
trong CCS phù hợp với luật pháp, quy định mỗi nước và các nguyên tắc quốc tế
quy định tại ATISA và các hiệp định khác của ASEAN. Do vậy, các nội dung được
tham khảo từ các tài liệu mà Việt Nam không tham gia (như WTO-JISDR) đều đã
được bổ sung từ “encourage” để không mang tính bắt buộc thực hiện. Hơn nữa,
các nội dung này phần lớn đều được các nước thành viên khác nhất trí cao. Vì
vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cơ bản nhất trí với các nội dung này nhằm đảm bảo
sự đồng thuận cao của ASEAN, nhưng cũng đảm bảo lợi ích của Việt Nam.
|
(b) Ý kiến cụ thể
- Tại các mục 1.3 - 1.4 về yêu cầu
xây dựng báo cáo đánh giá tác động đối với các biện pháp quản lý ban hành:
đây là cam kết tương tự Sáng kiến WTO-IFD (Việt Nam chưa phải là thành viên).
Để đảm bảo việc đánh giá tác động không tạo thêm gánh nặng cho cơ quan quản
lý, đề nghị bổ sung cụm từ “to the extent practicable” vào đoạn 1.3.
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này quy định tại mục 1.5 và 1.6. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, việc đánh giá tác động chính sách là bắt buộc khi xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ một số trường hợp đặc biệt không phải
đánh giá tác động. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của Bộ Tài chính cũng như phù hợp
với quy định của Việt Nam và thống nhất với các nước thành viên khác, lời văn
đã được điều chỉnh, không mang tính bắt buộc. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
có đề xuất thay từ “interested person” thành “Service suppliers” và đã được
CCS ghi nhận và chỉnh sửa.
|
- Tại các mục 1.5 - 1.9 về cơ chế
bình luận và công khai thông tin trước khi các biện pháp có hiệu lực: Các cam
kết này tương tự trong Sáng kiến WTO-JISDR (Việt Nam chưa phải là thành
viên), mức độ quy định chi tiết hơn so với các điều khoản tương tự trong các
FTA ASEAN/ASEAN+. Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát để đảm bảo các cam kết
này
phù
hợp với quy định ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành và quy định về công khai thông tin, đặc biệt là mức độ chi tiết và việc
công bố thông tin cho các nước thành viên khác có thể đánh giá mức độ tác động
trước khi các biện pháp có hiệu lực (tại mục 1.5.2).
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này đã được xem xét và rút gọn lại ở mục 1.7, 1.8 và 1.9 và mang tính chất
không bắt buộc.
Đối với mục 1.9 về việc cần thời
gian hợp lý giữa
thời điểm ban hành biện pháp và ngày có hiệu lực của biện pháp đó: Trên thực
tế, thời điểm ban hành của văn bản và thời điểm có hiệu lực
của văn bản khác nhau, do vậy Bộ Kế hoạch và Đầu tư đồng thuận về việc cần một
khoảng thời gian hợp lý giữa hai thời điểm và đề xuất bổ sung cụm từ “except
in the urgent circumstances” tại mục này nhằm đảm bảo phù hợp với quy định của
Việt Nam đối với trường hợp văn bản có hiệu lực cùng thời điểm ban hành của
văn bản, cũng như thống nhất với nội dung tại mục 6.2.
|
- Tại mục 1.11 về việc định kỳ xem
xét phí cấp giấy phép với mục tiêu giảm số lượng và sự đa dạng: Việc điều chỉnh
các loại phí, lệ phí được quy định tại Luật Phí và lệ phí và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Đề nghị Bộ KH&ĐT rà soát, đảm bảo nội dung tại mục này phù
hợp với quy định trong nước.
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này đã được lược bỏ.
|
- Tại mục 2.1.7 quy định về thủ tục
quy trình cấp giấy phép: Đề nghị cân nhắc sử dụng nội dung theo
ATISA là Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết.
|
- Theo ý kiến của đa số các nước
thành viên, lời văn của mục này đã được bổ sung từ “if applicable”, thể hiện tính
chất không bắt buộc, do vậy Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhất trí với nội dung lời
văn.
|
- Tại các mục 13.1-13.3 về việc cấp
giấy phép dựa trên quản trị rủi ro nhằm giảm thời gian và chi phí: Hiện đối với
các lĩnh vực dịch vụ tài chính chưa áp dụng việc cấp giấy phép dựa trên quản
trị rủi ro. Vì vậy đề nghị loại trừ các lĩnh vực dịch vụ tài chính đối với nội
dung này.
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này đã được lược bỏ.
|
Bộ Công an (văn bản số 3823/ANKT-
ANTCĐT, ngày
19/5/2023)
|
- Tại mục C.11.2: Nhất
trí với đề xuất của Thái Lan về việc bổ sung “các dịch vụ thích hợp
(applicable services)” để đảm bảo tính phù hợp, khả thi.
|
- Lời văn 11.2 ban đầu theo đề xuất
của Thái Lan là “11.2. Establish or maintain online platforms for the
administration of applications, renewals and aftercare needs for the supply
of applicable services”. Sau đó, CCS đã lược bỏ đi “applicable” và bổ
sung “encourage” để không mang tính bắt buộc.
|
- Tại mục C.12.2: Đề
nghị xem xét tính khả
thi và năng lực kỹ thuật của việc thiết lập, duy trì một nền tảng số chung
duy nhất để nộp tất cả các tài liệu do cơ quan có thẩm quyền yêu cầu liên
quan đến việc cấp phép cung cấp dịch vụ, trong đó có việc bảo đảm an ninh, an
toàn và hệ thống bảo mật dữ liệu.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất bổ
sung nội dung “Maintain the openess, seccurity of platform by promoting the
importance of cyber security, collaboration and cooperation; create resilient
platform and facilitate a trusted environment for communications”.
|
Bộ Tài chính (văn bản số 9174/BTC-
HTQT, ngày 28/8/2023)
|
- Đối với mục 1.11 về việc định kỳ
xem xét phí cấp giấy phép với mục tiêu giảm số lượng và sự đa dạng: Việc điều
chỉnh các loại phí, lệ phí được quy định tại Luật Phí và lệ phí và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Đề nghị Bộ KHĐT rà soát, đảm bảo nội dung tại mục này phù
hợp với quy định trong nước.
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này đã được lược bỏ.
|
- Đối với mục 6 về phí:
|
|
+ Tại mục 6.2: cân nhắc việc thực hiện
trình tự thủ tục rút gọn như một trường hợp khẩn cấp để áp dụng ngoại lệ
“except in urgent circumstances” trong mục này.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu và
giữ nguyên nội dung này tại lời văn ASFF hoàn chỉnh.
|
+ Tại mục 6.3 quy định “Đảm bảo
không quy định thu phí tiếp cận thông tin đối với ác thông tin được công bố
theo mục 4”. Tại mục 3 dự thảo ASFF quy định công bố ngay tất cả các biện
pháp liên quan và tất cả các hiệp định quốc tế có liên quan hoặc ảnh hưởng đến
thương mại dịch vụ chậm nhất vào thời điểm có hiệu lực, trừ trường hợp khẩn cấp.
Pháp luật phí và lệ phí hiện không có quy định thu phí đối với việc tiếp cận
thông tin với các thông tin được công bố theo mục 4. Theo đó, đề nghị Bộ Kế
hoạch và Đầu tư rà soát, tổng hợp thêm thông tin từ các Bộ ngành quản lý các
lĩnh vực dịch vụ để có cơ sở xem xét chấp thuận nghĩa vụ này của Việt Nam.
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này đã được lược bỏ.
|
Bộ Thông tin và Truyền thông (văn bản
số
2317/BTTTT-
HTQT, ngày 19/6/2023
|
Dự thảo đề xuất đẩy mạnh sử dụng các
công nghệ số, sử dụng các văn bản điện tử, thanh toán điện tử cùng với xây dựng
một nền tảng số đơn nhất (a single digital platform). Tuy nhiên, ASEAN hiện vẫn
đang áp dụng Cơ chế một cửa ASEAN (ASW) để đẩy nhanh việc thông quan hàng hóa
trong bối cảnh tăng cường hội nhập kinh tế trong ASEAN. Việc đề xuất xây dựng
và duy trì một nền tảng số mới cần cân nhắc kỹ lưỡng về mặt kỹ thuật, an
ninh, tính tương thích với cơ chế cũ cũng như khung khổ các giấy tờ trao đổi
cụ thể khi áp dụng nền tảng này. Đối với vấn đề này, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu
tư tham khảo ý kiến của Bộ Tài chính.
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Thông tin và
Truyền thông và
Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất bổ sung nội dung “Maintain the
openess, seccurity of platform by promoting the importance of cyber security,
collaboration and cooperation; create resilient platform and facilitate a
trusted environment for communications”.
Theo đó, CCS đã đồng ý với nội dung
đề xuất của Việt Nam và đưa vào mục 11.5 và 12.6 trong lời văn ASFF hoàn chỉnh.
|
Bộ Công an (văn bản số 5785/ANKT-
ANTCĐT, ngày
05/7/2023)
|
Mục 12 - Single Digital Platform quy
định về một nền tảng số đơn nhất cho việc tập hợp toàn bộ các văn bản liên
quan đến cung ứng dịch vụ. Việc này đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến cách thức,
đầu mối thực hiện và quy định riêng của mỗi quốc gia về vấn đề này, do đó cần được nghiên
cứu, cân nhắc kỹ lưỡng nhằm đảm bảo tính khả thi, năng lực kỹ thuật triển
khai cũng như việc tính toán phương án bảo mật dữ liệu.
|
Bộ Công an (văn bản số 7149/ANKT-
ANTCĐT, ngày
14/8/2023)
|
- Tại mục 9 (Nhập cảnh tạm thời và
lưu trú của nhà cung cấp dịch vụ):
+ Đề nghị xác định rõ khái niệm
"nhà cung cấp dịch vụ" (service suppliers) trong dự thảo ASFF vì
theo các Hiệp định thương mại tự do (FTA), thường sử dụng khái niệm "nhà
cung cấp dịch vụ theo hợp đồng" (phù hợp với quy định tại khoản
8 Điều 3 Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ quy định
về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người
lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam); qua
đó rà soát thống nhất lại việc sử dụng cụm từ "service suppliers"
và "interested persons" tại mục 9 (lý do tương tự khi chỉnh sửa hai
cụm từ này tại mục 1.4).
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu
và đề xuất sửa “interested persons” thành “service suppliers” tại một số nội
dung liên quan đến nghĩa vụ của nhà cung ứng dịch vụ. Một số nội dung vẫn
mang tính chất mở rộng thì CCS vẫn sử dụng “interested persons”.
|
+ Đề nghị bỏ nội dung "giấy
phép lao động hoặc bất kỳ loại giấp phép tương tự nào liên quan đến việc nhập
cảnh và tạm trú" tại mục 9.4.1; giấy phép lao động” tại mục 9.4.6 để phù
hợp phạm vi cung cấp thông tin về việc xin thị thực của nhà cung cấp dịch vụ.
|
- Các nước thành viên khác đều nhất
trí với nội dung này tại mục 9.4.1 đến 9.4.9, do vậy để phù hợp với pháp luật
của Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị có chú thích riêng đối với quy định
của Việt Nam. CCS đã nhất trí với đề nghị của Việt Nam (chú thích số 12, 13
trong lời văn ASFF hoàn chỉnh).
|
+ Bổ sung một mục tiêu nêu rõ việc
tiếp nhận, xử lý các hồ sơ nêu tại mục 9 phải phù hợp với quy định nội luật của
mỗi nước thành viên ASEAN.
|
- Nội dung này đã được thể hiện
trong khổ cuối của phần mở đầu (Herby regonise...).
|
- Tại mục 12 về nền tảng số duy nhất:
+ Nền tảng số
duy nhất sẽ tạo thuận lợi cho quá trình cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, đây là nền
tảng trực tuyến, tích hợp kết nối giữa các nước ASEAN nên đề
nghị bổ sung nội dung này về yêu cầu đảm bảo an toàn, an ninh mạng và bảo mật
dữ liệu đối với nền tảng này.
+ Nội dung này được hiểu là thực hiện
các thủ tục hành chính liên quan đến cung ứng dịch vụ trên nền tảng số duy nhất,
do đó cần xem xét tính khả thi về hạ tầng kỹ thuật, phương án lưu trữ và bảo
mật dữ liệu, phương án đảm bảo an ninh mạng và tính tương thích của quy định
pháp luật các nước về thực hiện thủ tục hành chính.
+ Đề nghị làm rõ hơn về nền tảng
công nghệ số duy nhất (thành viên chủ trì, phương án triển khai...) và các loại
hình dịch vụ được áp dụng.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu
và có ý kiến bổ sung đã đề xuất bổ sung nội dung “Maintain the openess, seccurity
of platform by
promoting
the importance of cyber security, collaboration and cooperation; create
resilient platform and facilitate a trusted environment for communications”.
Theo đó, CCS đã đồng ý với nội dung
đề xuất của Việt Nam và đưa vào mục 11.5 và 12.6 trong lời văn ASFF hoàn chỉnh.
|
Bộ Khoa học và Công nghệ (văn bản số
2496/BKHCN- HTQT, ngày 31/07/2023
|
- Đối với mục 1.3, hiện nay, theo
quy định của Luật Ban hành VBQPPL, việc đánh giá tác động chính sách là bắt
buộc khi xây dựng, ban hành VBQPPL (Luật, Nghị định, Thông tư) trừ một số trường
hợp đặc biệt không phải đánh giá tác động (ví dụ trong trường hợp xây dựng,
ban hành văn bản theo thủ tục rút gọn). Bên cạnh đó, yêu cầu đánh giá tác động
đối với các biện pháp được ban hành trên cơ sở các văn bản pháp luật cũng có
lợi cho các nhà đầu tư của Việt Nam tại các nước. Do đó, đề xuất Bộ Kế hoạch
và Đầu tư xem xét cân nhắc tham gia đề xuất bổ sung "major
regulatory", không bổ sung "encourage to", đồng thời bổ sung lời
văn quy định ngoại lệ (trường hợp biện pháp được ban hành theo các thủ tục đặc
biệt mà pháp luật quốc gia không yêu cầu đánh giá tác động).
|
- Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội
dung này quy định tại khoản 1.5. Việc đánh giá tác động chính sách áp dụng đối
với các văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật và các Nghị định có liên quan. Tuy nhiên, không phải mọi
chính sách ban hành là các văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đồng thuận với quan điểm của các nước thành viên khác trong việc sử dụng
từ “encourage” trong nội dung này tại lời văn ASFF hoàn chỉnh. Việc đánh giá
tác động chính sách đối với mọi biện pháp, quy định có thể tạo thêm gánh nặng
đối với cơ quan quản lý nhà nước (theo ý kiến của Bộ Tài chính tại văn bản số
7533/BTC-HTQT, ngày 21/7/2023).
|
- Đối với các mục từ 1.5 đến mục 1.9
(thuộc nội dung “Opportunity to Provide Comments before entry into force) đề
xuất Bộ KHĐT xem xét cân nhắc đề xuất các nội dung phù hợp với Luật Ban hành
VBQPPL do những yêu cầu về minh bạch này cũng có lợi cho nhà đầu tư VN ở các
nước.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu.
Tại lời văn ASFF hoàn chỉnh, nội dung này quy định tại khoản 1.7, 1.8, 1.9.
|
- Đối với mục 4.4, đề xuất lựa chọn
lời văn theo lời văn của WTO JIDR.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu.
|
Bộ Thông tin và Truyền thông (văn bản
số
3111/BTTTT-
HTQT, ngày 02/8/2023)
|
- Tại Phần C, mục 11: Đề
nghị bổ sung việc đảm bảo an toàn an ninh mạng cũng như tăng cường các hoạt động,
chương trình hợp tác trong ASEAN, cụ thể:
+ 11.5: Tăng cường các hoạt động, chương
trình hợp tác trong khối ASEAN nhằm chia sẻ về chính sách, văn bản quy phạm
pháp luật, các thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao dịch điện tử,
xác thực điện tử và chữ ký số, các bên xem xét, nghiên cứu lộ trình công nhận
chéo về chữ ký số giữa các nước ASEAN.
+ 11.6: Đảm bảo an toàn, an ninh mạng
và bảo mật dữ liệu đối với các nền tảng số/trực tuyến trong ASEAN.
- Tại Phần C, mục 12 về
Nền tảng số một cửa:
Nội dung tại mục này nên được xây dựng
thống nhất với với nội dung tại mục 11.2 về "thiết lập hoặc duy trì các
nền tảng trực tuyến dành cho quản lý các ứng dụng, gia hạn và yêu cầu chăm
sóc hậu mãi dành cho cung cấp các dịch vụ".
Đề nghị làm rõ với các nước các đề
xuất về sự cần thiết của Nền tảng số một cửa này, mục đích, cách
thức triển khai kỹ thuật, an ninh và danh sách các lĩnh vực, nội dung có khả
năng triển khai dùng chung rộng khắp liên thông giữa các nước ASEAN
|
Tiếp thu ý kiến của Bộ Thông tin và
Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất bổ sung nội dung “Maintain the
openess, seccurity of platform by promoting the importance of cyber security,
collaboration and cooperation; create resilient platform and facilitate a
trusted environment for communications”.
Theo đó, CCS đã đồng ý với nội dung
đề xuất của Việt Nam và đưa vào mục 11.5 và 12.6 trong lời văn ASFF hoàn chỉnh.
|
Bộ Xây dựng (văn bản số 3347/BXD-
HTQT, 28/7/2023)
|
Sau khi nghiên cứu, Bộ Xây dựng
không có ý kiến đối với Dự thảo ASFF.
|
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận ý kiến.
|
Bộ Công Thương (văn bản số 5938/BCT-ĐB, ngày 29/8/2023)
|
- Đề nghị tham khảo góp ý của Bộ
Công Thương tại văn bản số 4362/BCT-ĐB ngày 05/7/2023, đảm bảo các nội
dung của Khung ASFF phù hợp với các cam kết quốc tế liên quan của Việt Nam.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có giải
trình các ý kiến của Bộ Công Thương tại phần đầu của Bảng tổng hợp, giải
trình này.
|
- Về dự kiến
thông qua Khung ASFF tại
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN hẹp năm 2024, đề nghị quý Bộ lưu ý chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai việc báo cáo Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt chủ trương cho phép thông qua Khung ASFF ở cấp Bộ trưởng theo
quy định của Luật Thỏa thuận quốc tế, tạo cơ sở cho việc thông qua Khung ASFF
tại Hội nghị Bộ trưởng
Kinh tế ASEAN hẹp năm 2024.
|
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp thu
ý kiến của Bộ Công Thương, tiến hành các thủ tục trong nước để thông qua ASFF
theo quy định của Luật Thỏa thuận quốc tế năm 2020.
|
Bản dịch tiếng Việt tham
khảo
KHUÔN
KHỔ TẠO THUẬN LỢI DỊCH VỤ ASEAN
Chính phủ các nước Bru-nây
Đa-ru-sa-lem, Vương quốc Cam-pu-chia, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Ma-lay-xi-a, Cộng hòa Liên bang Myanmar, Cộng hòa Phi-líp-pin, Cộng
hòa Singapore, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam,
là thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (“ASEAN”), sau đây gọi chung
là “Các Quốc gia Thành viên” hoặc “Quốc gia Thành viên”;
Xem lại/căn cứ vào Hiệp định Thương mại
Dịch vụ ASEAN (“ATISA”) được ký kết vào ngày 7 tháng 10 năm 2020 tại Ma-ni-la,
Phi-líp-pin, với mục tiêu tăng cường thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ,
đồng thời tạo ra các thị trường và quy mô kinh tế lớn hơn; và giảm bớt các rào
cản đối với thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ và tạo ra một môi trường
kinh doanh có thể dự đoán được;
Khẳng định tầm quan trọng của việc tạo
thuận lợi cho dịch vụ như một biện pháp chính sách thiết yếu để giảm thiểu và
loại bỏ các quy định và biện pháp quản lý và hành chính không cần thiết đối với
thương mại dịch vụ, góp phần giảm chi phí kinh doanh trong các lĩnh vực dịch vụ
và tạo ra một môi trường thuận lợi để tạo thuận lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ
tiến hành các hoạt động kinh doanh xuyên biên giới của họ một cách hiệu quả;
Cũng như khẳng định quyền của các Quốc
gia Thành viên trong việc điều chỉnh và đưa ra các quy định mới về việc cung cấp
dịch vụ trong lãnh thổ của mỗi quốc gia để đáp ứng các mục tiêu chính sách công
của quốc gia đó;
Cùng với mong muốn thực hiện nhiệm vụ
của Kế hoạch tổng thể Cộng đồng Kinh tế ASEAN (“AEC”) năm 2025 để thiết lập các
nguyên tắc khả thi đối với các quy định trong nước, đồng thời mong muốn thực hiện
khuyến nghị Đánh giá giữa kỳ Kế hoạch tổng thể này để ASEAN phát triển một
khuôn khổ và kế hoạch chiến lược nhằm đạt được hội nhập dịch vụ ASEAN và cải
thiện khả năng cạnh tranh của các ngành dịch vụ ngoài ATISA;
Bên cạnh đó cũng tham khảo Khung tạo
thuận lợi cho đầu tư ASEAN (“AIFF”) được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (“AEM”) và
Hội đồng Khu vực Đầu tư ASEAN (“AIA”) thông qua vào năm 2021, mỗi Quốc gia
Thành viên sẽ nỗ lực thực hiện để: (i) cải thiện khả năng tiếp cận và tính minh
bạch của các biện pháp áp dụng chung và thông tin liên quan đến đầu tư giúp
tăng cường đầu tư; (ii) đơn giản hóa và đẩy nhanh các thủ tục hành chính
và các yêu cầu đối với việc gia nhập, duy trì và mở rộng đầu tư; và (iii) tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh;
Cũng như tham khảo kết luận cuộc đàm
phán trong Sáng kiến chung về Quy định nội địa về dịch vụ tại Tổ chức Thương mại
Thế giới (“WTO”) được tuyên bố thông qua tài liệu WT/L/1129 ngày 2 tháng 12 năm
2021 của WTO, nhằm tăng cường tính minh bạch, khả năng dự báo và hiệu quả của
thủ tục hành chính cho các nhà cung cấp dịch vụ muốn kinh doanh ở thị trường nước
ngoài;
Với quyết tâm thiết lập Khuôn khổ Tạo
thuận lợi cho Dịch vụ ASEAN (“Khuôn khổ”) mang tính chất không ràng buộc pháp
lý, mỗi Quốc gia Thành viên sẽ nỗ lực thực hiện nhằm: (i) tăng cường thương mại
và đầu tư xuyên biên giới trong các lĩnh vực dịch vụ; (ii) giảm các rào cản
trong nước đối với thương mại và đầu tư vào dịch vụ; và (iii) thiết lập một môi
trường kinh doanh thuận lợi và có thể dự đoán được cho thương mại quốc tế và đầu
tư trong các lĩnh vực dịch vụ;
Sau đây công nhận các nguyên tắc và
hành động liên quan đến việc tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ quốc tế trong
ASEAN, qua đó mỗi Quốc gia Thành viên sẽ nỗ lực duy trì và thực hiện ở mức độ
có thể thực hiện được và phù hợp với luật pháp và quy định trong nước của mình,
cũng như các nghĩa vụ quốc tế tương ứng bao gồm các nghĩa vụ áp dụng theo ATISA
và các hiệp định khác của ASEAN như sau:
A. ĐỊNH HÌNH
MỘT NỀN KINH TẾ DỊCH VỤ ASEAN CÔNG BẰNG VÀ NỀN TẢNG
1. Ban hành
và quản lý các biện pháp[1] tác động đến thương mại dịch vụ
1.1. Đảm bảo rằng tất cả các biện pháp
ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ được đưa ra một cách hợp lý, khách quan và
công bằng.
1.1.1. Đảm bảo rằng các thủ tục hành
chính và các yêu cầu về tài liệu kèm theo không đóng vai trò là rào cản đối với
khả năng kinh doanh dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ, có tính đến quy mô
khác nhau của các nhà cung cấp dịch vụ.
1.1.2. Đảm bảo rằng các thủ tục hành
chính và các yêu cầu về tài liệu kèm theo được áp dụng theo cách không làm phát
sinh thêm thời gian và chi phí quá mức cần thiết để hoàn thành các mục tiêu
chính sách công.
1.2. Trong việc áp dụng hoặc duy trì
các biện pháp liên quan đến việc cấp phép[2]
cung cấp dịch vụ, đảm bảo rằng:
1.2.1. các biện pháp đó dựa trên các
tiêu chí[3]
khách quan và minh bạch;
1.2.2. các thủ tục là khách quan đầy đủ để người
nộp đơn chứng minh liệu họ có đáp ứng các yêu cầu hay không, nếu các yêu cầu đó
tồn tại;
1.2.3. các thủ tục đó không ngăn cản một
cách vô lý việc thực hiện các yêu cầu; và
1.2.4. các biện pháp đó không phân biệt
giới tính[4].
1.3. Khi chuẩn bị các biện pháp trong
phạm vi của Khuôn khổ này, khuyến khích thực hiện đánh giá tác động[5] của các biện
pháp đó.
1.4. Khi thực hiện các đánh giá tác động
như vậy, khuyến khích tạo cơ hội hợp lý cho các nhà cung cấp dịch vụ, trên cơ sở
không phân biệt đối xử, đưa ra nhận xét và xem xét tác động tiềm ẩn của quy định
được đề xuất đối với các nhà cung cấp dịch vụ bao gồm các doanh nghiệp siêu nhỏ,
nhỏ và vừa (MSMEs). ).
Cơ hội để đưa ra ý kiến
trước khi có hiệu lực
1.5. Khuyến khích công bố trước bất kỳ
luật và các quy định về hồ sơ cấp phép được đề xuất áp dụng (bao gồm các yêu cầu
và thủ tục cấp phép, yêu cầu và thủ tục về trình độ chuyên môn, và các tiêu chuẩn
kỹ thuật) cũng như công bố mục đích của luật và các quy định đó.
1.6. Tạo cơ hội hợp lý để những người
quan tâm của các quốc gia thành viên có cơ hội đưa ra ý kiến về bất kỳ quy định
liên quan đến hồ sơ cấp phép được đề xuất áp dụng, sửa đổi hoặc bãi bỏ, trước
khi thông qua và công bố.
1.7. Cho phép một khoảng thời gian hợp
lý giữa thời điểm công bố văn bản của một biện pháp được đề cập trong đoạn 1.5
và thời điểm mà các nhà cung cấp dịch vụ phải tuân thủ biện pháp đó, trừ những trường
hợp khẩn cấp.
Rà soát định kỳ
1.8. Trong phạm vi có thể thực hiện được
và phù hợp với hệ thống pháp luật của mỗi nước trong việc áp dụng các biện
pháp, tiến hành xem xét, ở những khoảng thời gian thích hợp, tất cả các biện
pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ để xác định liệu các biện pháp cụ thể có
nên được sửa đổi, sắp xếp lại, mở rộng hoặc bãi bỏ để các cơ chế dịch vụ thực
hiện hiệu quả hơn tiến tới đạt được các mục tiêu chính sách của mỗi quốc gia
thành viên.thuyvy
Kháng cáo hoặc xem
xét
1.9. Duy trì hoặc thiết lập thủ tục tố
tụng hoặc thủ tục pháp lý ngay khi có thể, theo yêu cầu của một nhà cung cấp dịch
vụ bị ảnh hưởng, để nhanh chóng rà soát và nếu có thể, đưa ra các biện
pháp phù hợp cho các quyết định hành chính có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ.
Khi các thủ tục đó không độc lập với cơ quan được ủy thác với các quyết định
hành chính có liên quan, phải đảm bảo tính khách quan và công bằng của các thủ
tục.
1.10. Các quy định của đoạn 1.9 sẽ
không được hiểu là yêu cầu một quốc gia thành viên thành lập các thủ tục nếu điều
này không phù hợp với cấu trúc hiến pháp hoặc bản chất của hệ thống pháp luật của
quốc gia đó.
1.11. Đảm bảo rằng các Bên được đề cập
trong đoạn 1.9 có quyền:
1.11.1. Một cơ hội hợp lý để hỗ trợ hoặc
bảo vệ các vị trí tương ứng của họ và gửi tất cả các thông tin liên quan; Và
1.11.2. Quyết định dựa trên bằng chứng
và hồ sơ đệ trình hoặc, khi luật pháp và các quy định yêu cầu, hồ sơ do cơ quan
hành chính tổng hợp.
1.12. Quyết định trong đoạn 1.11 phải
được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền thực thi hành chính, tùy thuộc vào
kháng cáo hoặc xem xét thêm theo quy định trong luật và quy định của mỗi Quốc
gia Thành viên.
2. Thủ tục nộp
hồ sơ xin cung cấp Dịch vụ
2.1. Trong trường hợp pháp luật
và quy định trong nước yêu cầu phải có sự cho phép đối với việc cung cấp dịch vụ,
trong một khoảng thời gian hợp lý:
2.1.1. Đưa ra một khung thời gian chỉ
định cho quá trình nộp hồ sơ.
2.1.2. Nỗ lực cho phép nộp hồ sơ vào bất
kỳ thời điểm nào trong năm[6].
Nếu có một khoảng thời gian cụ thể để nộp hồ sơ, đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm
quyền cho phép một khoảng thời gian hợp lý để nộp hồ sơ.
2.1.3. Cung cấp thông tin liên quan đến
trạng thái của việc nộp hồ sơ.
2.1.4. Xác định tính đầy đủ của một hồ
sơ.
2.1.5. Đối với hồ sơ được coi là hoàn
chỉnh theo luật và quy định trong nước, cần thông báo cho người nộp hồ sơ về
quyết định liên quan đến hồ sơ, trong phạm vi có thể bằng văn bản[7].
2.1.6. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ:
2.1.6.1. thông báo cho người nộp biết
việc hồ sơ không đầy đủ.
2.1.6.2. theo yêu cầu của người nộp hồ
sơ, xác định tất cả các thông tin bổ sung cần thiết để hoàn thành việc nộ hồ sơ
và cung cấp cơ hội để khắc phục những thiếu sót
2.1.7. Nếu hồ sơ bị chấm dứt hoặc bị từ
chối, trong phạm vi tối đa có thể, cần thông báo cho người nộp hồ sơ bằng văn bản
và không chậm trễ về lý do của hành động đó, và nếu có thể, các thủ tục nộp lại
hồ sơ. Người nộp hồ sơ sẽ có khả năng gửi lại, theo quyết định của mình, một hồ
sơ mới.
2.2. Đảm bảo rằng sự cho phép, sau khi
được cấp, sẽ có hiệu lực mà không bị trì hoãn quá mức, tuân theo các điều khoản
và điều kiện hiện hành.
3. Đánh giá
năng lực
3.1. Nếu các yêu cầu về giấy phép hoặc
trình độ chuyên môn bao gồm việc kiểm tra, cần đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm
quyền:
3.1.1. lên kế hoạch kiểm tra với khoảng
thời gian hợp lý; và
3.1.2. đưa một khoảng thời gian hợp lý
để cho phép những người quan tâm nộp hồ sơ.
3.1.3. khuyến khích chấp nhận các yêu
cầu ở định dạng điện tử để tiến hành kiểm tra và
3.1.4. xem xét trong phạm vi có thể,
việc sử dụng các phương tiện điện tử trong các khía cạnh khác của quy trình kiểm
tra
3.2. Khi áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật,
hãy áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật được phát triển thông qua các quy trình
công khai và minh bạch, đồng thời khuyến khích bất kỳ cơ quan nào, kể cả các tổ
chức quốc tế có liên quan[8],
được chỉ định phát triển các tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng các quy trình công
khai và minh bạch.
3.3. Đối với các dịch vụ chuyên môn[9], cung cấp các thủ
tục đầy đủ để xác minh năng lực của các chuyên gia.
4. Tính minh
bạch của các biện pháp và thông tin
4.1. Công bố ngay tất cả các biện pháp
liên quan và tất cả các hiệp định quốc tế liên quan có ảnh hưởng đến thương mại
dịch vụ chậm nhất vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực, trừ trường hợp
khẩn cấp.
4.2. Cung cấp các biện pháp và hiệp định
quốc tế được đề cập trong đoạn 4.1 trên internet và, trong phạm vi có thể, bằng
tiếng Anh.
4.3. Bao gồm các yêu cầu để có được,
duy trì, sửa đổi và gia hạn thủ tục được đề cập trong đoạn 4.1 ở trên, ngoài những
điều khác, nếu nó tồn tại:
4.3.1. các yêu cầu và thủ tục;
4.3.2. thông tin liên hệ của các cơ
quan có thẩm quyền liên quan;
4.3.3. lệ phí;
4.3.4. tiêu chuẩn kỹ thuật;
4.3.5. thủ tục khiếu nại hoặc xem xét
lại các quyết định liên quan đến việc nộp hồ sơ;
4.3.6. thủ tục giám sát hoặc thực thi
việc tuân thủ các điều khoản và điều kiện của việc cấp giấy phép hoặc bằng cấp;
4.3.7. cơ hội cho sự tham gia của công
chúng, chẳng hạn như thông qua các buổi lắng nghe và cho ý kiến; và
4.3.8. khung thời gian chỉ định để xử
lý việc nộp hồ sơ.
4.4. Khuyến khích duy trì hoặc thiết lập
các cơ chế phù hợp để phản hồi các câu hỏi từ các nhà cung cấp dịch vụ hoặc những
người tìm kiếm việc cung cấp dịch vụ về các biện pháp liên quan đến các yêu cầu
và thủ tục cấp phép, các yêu cầu và thủ tục về trình độ chuyên môn và các tiêu
chuẩn kỹ thuật ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ.[10]
4.5. Khuôn khổ này không yêu cầu bất kỳ
quốc gia thành viên nào cung cấp thông tin bí mật, việc tiết lộ thông tin đó sẽ
cản trở các nỗ lực thực thi pháp luật hoặc trái ngược với lợi ích công hoặc ảnh
hưởng đến lợi ích thương mại hợp pháp của các pháp nhân cụ thể.
5. Tính độc lập
của Cơ quan có thẩm quyền
5.1. Khi tiến hành thủ tục hành chính
đối với việc cung cấp dịch vụ, cần đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền đưa
ra và thực hiện các quyết định của họ độc lập với bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ
nào.
6. Chi phí
6.1. Đảm bảo rằng chi phí hành chính[11] đưa ra bởi cơ
quan có thẩm quyền là hợp lý, minh bạch, được công bố theo cách dễ tiếp cận và
bản thân chúng không hạn chế việc cung cấp dịch vụ liên quan.
6.2. Thỏa thuận một khoảng thời gian
thích hợp giữa thời điểm công bố các khoản chi phí hành chính mới hoặc sửa đổi
và thời điểm có hiệu lực, trừ những trường hợp khẩn cấp. Các chi phí sẽ không
được áp dụng cho đến khi thông tin về chúng đã được công bố.
7. Tên doanh
nghiệp
7.1. Cho phép các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài sử dụng, không hạn chế quá mức, tên doanh nghiệp mà họ thường kinh
doanh trong lãnh thổ của các Bên khác và đảm bảo rằng việc sử dụng tên doanh
nghiệp không bị hạn chế quá mức.
8. Hợp tác
8.1. Tạo điều kiện giao tiếp và hợp
tác giữa các quốc gia thành viên ASEAN về các vấn đề liên quan đến tạo thuận lợi
cho dịch vụ, bao gồm thông qua trao đổi thông tin về các yêu cầu thủ tục, thực
tiễn tốt nhất, hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực.
B. HỖ TRỢ VIỆC
DI CHUYỂN VÀ NỀN KINH TẾ DỊCH VỤ KẾT NỐI ASEAN
9. Nhập cảnh và Lưu
trú Tạm thời của nhà cung cấp dịch vụ
9.1. Ban hành, trực tuyến nếu có thể,
thông tin về các yêu cầu hiện tại đối với việc nhập cảnh và lưu trú tạm thời của
các nhà cung cấp dịch vụ, bao gồm các tài liệu giải thích, các biểu mẫu và tài
liệu liên quan, cho phép những người quan tâm dễ dàng tiếp cận với các yêu cầu
đó.
9.2. Duy trì hoặc thiết lập các đầu mối
liên lạc hoặc các cơ chế khác để trả lời các câu hỏi của những người quan tâm về
các quy định ảnh hưởng đến việc nhập cảnh tạm thời hoặc lưu trú tạm thời của
các nhà cung cấp dịch vụ.
9.3. Cho phép khoảng thời gian hợp lý
giữa việc công bố các quy định mới ảnh hưởng đến việc tạm nhập cảnh hoặc tạm
trú của các nhà cung cấp dịch vụ và ngày có hiệu lực của chúng.
9.4. Thông tin được đề cập trong đoạn
9.1 nên bao gồm, nếu có thể, các thông tin sau, ngoài các thông tin khác:
9.4.1. Các loại thị thực và giấy phép
lao động[12]
hoặc bất kỳ loại giấy phép tương tự nào liên quan đến việc nhập cảnh và lưu trú
tạm thời;
9.4.2. Tài liệu, bằng chứng cần thiết
và các điều kiện cần đáp ứng;
9.4.3. Phương pháp nộp đơn và các tùy
chọn về nơi nộp đơn, chẳng hạn như cơ quan lãnh sự hoặc nộp trực tuyến;
9.4.4. Thời gian xử lý;
9.4.5. Lệ phí nộp đơn;
9.4.6. Thời hạn hiệu lực của thị thực
và giấy phép lao động[13];
9.4.7. Điều kiện gia hạn, xem xét lại;
9.4.8. Tham khảo luật nhập cư có liên
quan áp dụng chung; và
9.4.9. Các thủ tục xem xét và/hoặc
kháng cáo, nếu có.
9.5. Đảm bảo rằng các tài liệu cần thiết
cho các đơn xin cấp phép nhập cảnh và lưu trú tạm thời có liên quan và tương xứng với mục
đích mà chúng được thu thập.
9.6. Theo yêu cầu và trong một khoảng
thời gian hợp lý sau khi nhận được đơn đăng ký hoàn chỉnh về thủ tục nhập cư từ
một nhà cung cấp dịch vụ của một quốc gia thành viên khác, đề nghị thông báo
cho người nộp đơn về:
9.6.1. biên nhận hồ sơ;
9.6.2. tình trạng của ứng dụng; Và
9.6.3. quyết định liên quan đến việc
đăng ký bao gồm, nếu được chấp thuận, thời gian lưu trú và các điều kiện
khác.
9.7. Xử lý kịp thời các đơn xin nhập cảnh
tạm thời và tạm trú hoàn chỉnh, bao gồm cả các đơn xin gia hạn.
10. Tăng cường tận dụng
các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRAs)
10.1. Xác định các cách thức để nâng
cao việc sử dụng các MRAs hiện có.
10.2. Khuyến khích xem xét với các bên
có liên quan bất kỳ hình thức thỏa thuận nào để công nhận lẫn nhau về trình độ
chuyên môn, cấp phép hoặc đăng ký trong các lĩnh vực dịch vụ chuyên môn mà các
bên cùng quan tâm.
10.3. Khai thác khả năng các MRAs
trong các lĩnh vực mới để tạo điều kiện công nhận các kỹ năng cần thiết cho nền
kinh tế mới.
C. THÚC ĐẨY
KINH TẾ SỐ TRONG ASEAN[14]
11. Sử dụng Công nghệ
số và Internet
11.1. Khuyến khích áp dụng các công
nghệ số để cải thiện các quy trình đăng ký, phê duyệt, gia hạn và chăm sóc hậu
mãi đối với việc cung cấp dịch vụ.
11.2. Khuyến khích thiết lập hoặc duy
trì các nền tảng trực tuyến để quản lý các ứng dụng, gia hạn và các nhu cầu
chăm sóc sau khi cung cấp dịch vụ.
11.3. Khuyến khích sử dụng các bản sao
điện tử của các tài liệu được xác thực theo luật pháp và quy định trong nước của
quốc gia thành viên tương ứng, thay cho các tài liệu gốc.
11.4. Khuyến khích phương án sử dụng
phương thức thanh toán điện tử đối với các khoản phí, lệ phí do cơ quan có thẩm
quyền thu để quản lý việc cung cấp dịch vụ, bao gồm cả phí, lệ phí cấp phép
cung cấp dịch vụ.
11.5. Khuyến khích duy trì các cơ chế
hợp tác liên quan đến an ninh mạng, có thể bao gồm trao đổi các thông lệ tốt nhất.
12. Nền tảng kỹ thuật
số duy nhất
12.1. Khuyến khích giảm thiểu yêu cầu
đối với người nộp đơn phải tiếp cận nhiều hơn một cơ quan có thẩm quyền cho mỗi
đơn xin phép cung cấp dịch vụ.
12.2. Khuyến khích thiết lập hoặc duy
trì một nền tảng kỹ thuật số duy nhất để nộp tất cả các tài liệu theo yêu cầu của
các cơ quan hoặc cơ quan quản lý liên quan đến việc đăng ký cung cấp dịch vụ.
12.3. Khuyến khích công bố các biện
pháp được các quốc gia thành viên áp dụng hoặc duy trì liên quan đến việc cung
cấp dịch vụ thông qua một nền tảng kỹ thuật số duy nhất.
12.4. Khuyến khích cung cấp thông tin
trên nền tảng kỹ thuật số duy nhất đủ rõ ràng, chính xác và cập nhật để cho
phép nhà cung cấp dịch vụ được thông báo về:
12.4.1. các cơ quan hoặc cơ quan quản
lý liên quan đến hồ sơ cung cấp dịch vụ;
12.4.2. các tài liệu theo yêu cầu của
từng cơ quan có thẩm quyền đối với bất kỳ hồ sơ cung cấp dịch vụ cụ thể nào; Và
12.4.3. khoảng thời gian ước tính cần
thiết để xử lý một hồ sơ liên quan đến hồ sơ cung cấp dịch vụ cụ thể.
12.5. Khuyến khích cung cấp một nền tảng
kỹ thuật số duy nhất để các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán chi phí hành chính
và các loại thuế liên quan đến việc cung cấp dịch vụ.
12.6. Khuyến khích tạo nền tảng linh
hoạt và tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường trao đổi thông tin đáng tin cậy.
D. TẠO NỀN
KINH TẾ DỊCH VỤ ASEAN BỀN VỮNG VÀ SÁNG TẠO
13. Công việc trong
tương lai
Tìm hiểu các hoạt động nhằm tạo thuận
lợi hơn nữa cho thương mại dịch vụ trong ASEAN thông qua, ngoài những điều
khác, nhưng không giới hạn ở những điều sau:
13.1. Nghiên cứu các thông lệ tốt nhất
trên toàn cầu trong việc thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ.
13.2. Xác định các dịch vụ mới cần thiết
để hỗ trợ nền kinh tế dịch vụ bền vững và đổi mới, đồng thời thảo luận về cách
ASEAN có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các dịch vụ này trong
khu vực.
13.3. Khuyến khích các quốc gia thành
viên xem xét các chính sách trong nước liên quan đến dịch vụ tương ứng. Điều
này có thể bao gồm hợp lý hóa các quy trình ứng dụng hoặc xem xét lại các yêu cầu
truyền thống, có tính đến phản hồi của doanh nghiệp.
13.4. Phối hợp với các Nhóm công tác
ASEAN có liên quan khác để áp dụng cách tiếp cận toàn diện hơn đối với việc
cung cấp dịch vụ
13.5. Khuyến khích thực hiện các chính
sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng đổi mới dịch vụ.
13.6. Cân nhắc áp dụng cam kết chọn bỏ
cho các Hiệp định ASEAN để đảm bảo rằng các hiệp định được minh bạch, dễ tiếp cận
và thân thiện với doanh nghiệp.
14. Nền kinh tế tuần
hoàn
14.1. Khuyến khích sự phát triển và
liên kết của các ngành dịch vụ góp phần vào nền kinh tế tuần hoàn, bao gồm cả
việc loại bỏ các rào cản hiện hành.
14.2. Khuyến khích các ưu đãi chính
sách không phân biệt đối xử để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
tuần hoàn bao gồm nhưng không giới hạn ở các chính sách thiết kế sinh thái, yêu
cầu tái chế, mua sắm tuần hoàn và dán nhãn sinh thái.
14.3. Khuyến khích áp dụng các nguyên
tắc Môi trường, Xã hội và Quản trị Doanh nghiệp (ESG) trong việc cung cấp dịch
vụ và báo cáo tài chính của các nhà cung cấp dịch vụ.
14.4. Theo dõi và cập nhật các thông lệ
và phát triển quốc tế đang phát triển trong nền kinh tế tuần hoàn liên quan đến
thương mại dịch vụ.
E. HỢP TÁC VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP ĐỂ CÙNG NHAU ĐỊNH HÌNH TƯƠNG LAI CỦA NỀN KINH TẾ DỊCH VỤ ASEAN
15. Sự tham gia của
các bên liên quan
15.1. Khuyến khích xem xét các cơ chế
tham vấn và đối thoại thường xuyên với các bên liên quan, nhằm thu hút các
thông tin cập nhật và đầu vào về các nhu cầu và thách thức của việc tạo thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh và dịch vụ của họ.
15.2. Cân nhắc các kết quả của đoạn
15.1, khuyến khích các cơ chế đánh giá và cập nhật thường xuyên các biện pháp dịch
vụ, đồng thời cân nhắc sử dụng các chỉ số hiệu suất quốc tế có liên quan, nhằm
đảm bảo rằng môi trường thương mại dịch vụ vẫn thuận lợi và đáp ứng các thông lệ
kinh doanh đang phát triển và nhu cầu.
16. Thực hiện
16.1. Hướng tới việc thực hiện Khuôn
khổ này và thường xuyên cập nhật Ủy ban Điều phối ASEAN về Dịch vụ (“CCS”).
ASEAN
Services Facilitation Framework
The Governments of Brunei Darussalam,
Kingdom of Cambodia, the Republic of Indonesia, the Lao People’s Democratic
Republic, Malaysia, the Republic of the Union of Myanmar, the Republic of the
Philippines, the Republic of Singapore, the Kingdom of Thailand and the
Socialist Republic of Viet Nam, Member States of the Association of Southeast
Asian Nations (“ASEAN”), hereinafter collectively referred to as “Member
States” or singularly as “Member State”;
RECALLING the ASEAN Trade
in Services Agreement (“ATISA”) signed on 7 October 2020 in Manila, the
Philippines, which aims, inter alia, to increase trade and investment in
the area of services and create larger markets and greater economies of scale,
and to reduce barriers to trade and investment in services and to create a
predictable business environment;
RECOGNISING the importance of
services facilitation as an essential policy measure to reduce and eliminate
unnecessary regulatory and administrative measures on trade in services, which
contributes to reducing the cost of doing business in the services sectors, and
ultimately creates an enabling environment to facilitate service suppliers in
conducting their cross-border businesses in an efficient manner;
RECOGNISING the right of Member
States to regulate, and to introduce new regulations, on the supply of services
within their territories in order to meet their public policy objectives;
ASPIRING to fulfil the
mandate of the ASEAN Economic Community Blueprint 2025 to establish possible
disciplines on domestic regulations, while ALSO ASPIRING to implement
the recommendation of the Mid-Term Review of this Blueprint for ASEAN to
develop a framework and
strategic plan to achieve ASEAN services integration and to improve
competitiveness of services sectors beyond the ATISA;
NOTING the ASEAN
Investment Facilitation Framework adopted by
the ASEAN Economic Ministers and ASEAN Investment Area Council in 2021, that
each Member State will endeavour to put in place in order to: (i) improve
accessibility and transparency of measures of general application and
information related to investment conducive to increased investment; (ii)
streamline and expedite administrative procedures and requirements for the
entry, retention and expansion of investment; and (iii) create favourable
conditions for investment and doing business;
ALSO NOTING the successful
conclusion of the negotiations on the Joint Initiative on Services Domestic
Regulation at the World Trade Organisation (“WTO”) as declared in the WTO
document WT/L/1129 dated 2 December 2021, which aims, at increasing
transparency, predictability and efficiency of authorisation procedures for
service providers hoping to do business in foreign markets;
DESIRING to establish this
non-legally binding ASEAN Services Facilitation Framework (“Framework”) that each
Member State will endeavour to put in place in order to: (i) increase
cross-border trade and investment in the services sectors; (ii) reduce domestic
barriers to trade and investment in services; and (iii) establish a favourable
and predictable business environment for international trade and investment in
the services sectors;
HEREBY RECOGNISE the
following principles and actions regarding facilitation of international trade
in services in ASEAN, which each Member State will endeavour to uphold and implement
to the extent practicable and in accordance with its respective domestic laws
and regulations, as well as its respective international obligations including
applicable obligations under the ATISA and other ASEAN agreements:
A. SHAPING A
FAIR AND ENABLING ASEAN SERVICES ECONOMY
1.
Development and Administration of Measures1 Affecting Trade in Services
1.1. Ensure that all measures
affecting trade in services are administered in a reasonable, objective and
impartial manner.
1.2. Ensure that administrative
procedures and documentation requirements do not act as barriers to the
ability of service suppliers to provide their services, taking into account the
varying sizes of services suppliers.
1.3. Ensure that administrative
procedures and documentation requirements are applied in a manner that
does not unduly incur more time and costs than necessary to fulfil the
government’s policy objectives.
1.4. Ensure that in adopting or
maintaining measures relating to the authorisation2 for the
supply of a service:
1.4.1. such measures are based on objective
and transparent criteria3;
1.4.2. the procedures are impartial,
and that the procedures are adequate for applicants to demonstrate whether they
meet the requirements, if such requirements exist;
1.4.3. the procedures do not in
themselves unjustifiably prevent the fulfilment of requirements; and
1.4.4. such measures do not discriminate
between men and women4.
1.5. Encourage the carrying out of
impact assessments5 in preparing measures within the scope
of this Framework.
1.6. Encourage the offer of reasonable
opportunities for service suppliers, on a non-discriminatory basis, to provide
comments and take into consideration the potential impact of the proposed
measure on
service
suppliers, which may include micro, small and medium enterprises, when
conducting such impact assessments.
Opportunity to
Provide Comments before Entry into Force
1.7. Encourage the advance publication
of any laws and regulations of general application which may include licensing
requirements and procedures, qualification requirements and procedures, and
technical standards, relating to the supply of services that the Member State
proposes to adopt and the purpose of such law and regulations.
1.8. Provide a reasonable opportunity
for comments by interested persons from the Member States on any regulation of
general application affecting trade in services that a Member State proposes to
adopt, amend or repeal, before its adoption and publication.
1.9. Allow reasonable time between
publication of the text of a measure referred to in Paragraph 1.7 and the date
on which service suppliers must comply with the measure, except in urgent
circumstances.
Periodic Review
1.10. Review, at appropriate
intervals, to the extent practicable and in a manner consistent with its legal
system for adopting measures, all measures affecting trade in services, to
determine whether specific measures should be modified, streamlined, expanded
or repealed so as to make the trade in services regime more effective in
achieving each Member State’s policy objectives.
Appeal or Review
1.11. Maintain or institute judicial,
arbitral or administrative tribunals or procedures which provide, at the
request of an affected service supplier, for the prompt review of, and where
justified, appropriate remedies for, administrative decisions affecting trade
in services. Where such procedures are not independent of the agency entrusted
with the administrative decision concerned, ensure that the procedures in fact
provide for an objective and impartial review.
1.12. The provisions of Paragraph 1.11
will not be construed to require a Member State to institute such tribunals or
procedures where this would be inconsistent with its constitutional structure
or the nature of its legal system.
1.13. Ensure that the affected service
supplier referred to in Paragraph 1.11 is provided with:
1.13.1. a reasonable opportunity to
support or defend its position and submit all relevant information; and
1.13.2. a decision based on the
evidence and submissions by the affected service supplier or, where required by
the Member State’s laws and regulations, the record compiled by the
administrative authority.
1.14. The decision in Subparagraph Error!
Reference source not found. should be implemented by the authority
entrusted with administrative enforcement, subject to appeal or
further review as provided for in each Member State’s laws and
regulations.
2.
Authorisation of Applications to Supply a Service
2.1. Where authorisation is required
by the domestic laws and regulations for the supply of a service, within a
reasonable period of time:
2.1.1. provide an indicative timeframe for
processing an application;
2.1.2. endeavour to permit submission
of an application at any time throughout the year.6 If a
specific time period for the submission of an application exists, ensure that
the competent authorities allow a reasonable period for the submission of an
application;
2.1.3. provide information concerning
the status of the application;
2.1.4. ascertain the completeness of an
application that is submitted by an applicant;
2.1.5. inform the applicant of the
decision concerning the application, to the extent possible in writing7,
for an application that is considered complete under domestic laws and
regulations.
2.1.6. in the case of an incomplete
application:
2.1.6.1. inform the applicant that the
application is incomplete; and
2.1.6.2. identify all the additional
information that is required to complete the application and provide the
opportunity to remedy deficiencies, upon request of the applicant; and
2.1.7. in the case of termination or
denial of an application, to the maximum extent possible, inform the applicant
in writing
and
without delay, the reasons why an application is terminated or denied, and if
applicable, the procedures for resubmission of an application. The applicant
will have the possibility of resubmitting, at its discretion, a new
application.
2.2. Ensure that authorisation, once
granted, enters into effect without undue delay, subject to applicable terms and
conditions.
3. Assessment
of Qualifications
3.1. If licensing or qualification
requirements include the completion of an examination, ensure that the
competent authorities:
3.1.1. schedule the examination at
reasonably frequent intervals;
3.1.2. provide a reasonable period of
time to enable interested persons to submit an application;
3.1.3. encourage to accept requests in
electronic format to take such examinations; and
3.1.4. consider, to the extent
practicable, the use of electronic means in other aspects of examination
processes.
3.2. Adopt the technical standards
developed through open and transparent processes, and encourage any body,
including relevant international organisations8, designated to develop
technical standards, to use open and transparent processes.
3.3. Provide adequate procedures to
verify the competence of the professionals, with respect to professional
services9.
4.
Transparency of Measures and Information
4.1. Publish promptly all relevant
measures and all international agreements which pertain to, or affect, trade in
services, at the latest by the time of their entry into force, except in
emergency situations.
4.2. Ensure the measures and
international agreements referred to in Paragraph 4.1 are available on the
internet and, to the extent possible, in the English language.
4.3. Include the requirements and
procedures for obtaining, maintaining, amending and renewing authorisation for
such information referred to in Paragraph 4.1 above, inter alia, where
it exists:
4.3.1. the requirements and
procedures;
4.3.2. contact information of relevant
competent authorities;
4.3.3. fees;
4.3.4. technical standards;
4.3.5. procedures for appeal or review
of decisions concerning applications;
4.3.6. procedures for monitoring or
enforcing compliance with the terms and conditions of licenses or
qualifications;
4.3.7. opportunities for public
involvement, such as through hearings or comments; and
4.3.8. indicative timeframes for
processing an application.
4.4. Encourage the maintenance or
establishment of appropriate mechanisms for responding to enquiries from
service suppliers or persons seeking to supply a service regarding the measures
relating to licensing requirements and procedures, qualification requirements
and procedures, and technical standards affecting trade in services.10
4.5. This Framework does
not require any Member State to provide confidential information, the
disclosure of which would impede law enforcement efforts, or would otherwise be
contrary to the public interest, or which would prejudice legitimate commercial
interests of particular public or private juridical persons, public or private.
5.
Independence of Competent Authorities
Ensure that the competent authorities
reach and administer their decisions in a manner independent of any supplier of
the service for which authorisation is required.
6. Fees
6.1. Ensure that applicable
authorisation fees11 charged by competent authorities are
reasonable, transparent, published in an easily accessible
manner and do not in themselves restrict the supply of the relevant service.
6.2. Accord an adequate period between
the publication of new or amended authorisation fees and their entry into
force, except in urgent circumstances. Such fees will not be applied until
information about them has been published.
7. Business
Names
Permit foreign service suppliers to
use, without undue restrictions, the business names under which they ordinarily
trade in the territories of the other Member States, and otherwise ensure that
the use of business names is not unduly restricted.
8.
Cooperation
Facilitate communication and
cooperation among Member States on matters relating to services facilitation,
including through the exchange of information on procedural requirements, best
practices, technical assistance and capacity building.
B. SUPPORTING
MOBILITY AND A CONNECTED ASEAN SERVICES ECONOMY
9. Temporary
Entry and Stay of Service Suppliers
9.1. Publish, online where possible,
information on the current requirements for temporary entry and stay of service
suppliers, including explanatory materials, relevant forms and documents, that
will enable interested persons to become acquainted with those requirements.
9.2. Maintain or establish contact
points or other mechanisms to respond to inquiries from interested persons
regarding regulations affecting the temporary entry or temporary stay of
service suppliers.
9.3. Allow reasonable time between the
publication of new regulations affecting the temporary entry or temporary stay
of service suppliers and their effective date.
9.4. The information referred to in
Paragraph 9.1 should include, where applicable, the following information, inter
alia:
9.4.1. categories of visas and work
permits12 or any similar type of authorisation
regarding entry and temporary stay;
9.4.2. documentation and evidence
required and conditions to be met;
9.4.3. method of filing and options on
where to file, such as consular offices or online;
9.4.4. processing time;
9.4.5. application fees;
9.4.6. period of validity of the visas
and work permits13;
9.4.7. conditions for extensions or
renewal;
9.4.8. reference to relevant
immigration laws of general application; and
9.4.9. review and/or appeal
procedures, where these exists.
9.5. Ensure that documents required
for applications for the granting of entry and temporary stay are relevant and
commensurate with the purpose for which they are collected.
9.6. Notify the applicant of the
following, upon request and within a reasonable period after receiving a
complete application for an immigration formality from a service supplier of
another Member State:
9.6.1. the receipt of the application;
9.6.2. the status of the application;
and
9.6.3. the decision concerning the
application including, if approved, the period of stay and other conditions.
9.7. Promptly process complete
applications concerning temporary entry and temporary stay, including extension
applications thereof.
10. Enhancing
Utilisation of Mutual Recognition Arrangements (“MRAs”)
10.1. Identify ways to enhance the
utilisation of existing MRAs.
10.2. Encourage the consideration, in
consultation with the relevant bodies, of any form of arrangements for the
mutual recognition of professional qualifications, licensing, or registration
in professional services sectors of mutual interest.
10.3. Explore the possibility of MRAs
in new areas to facilitate the recognition of skills needed for the new
economy.
C. ADVANCING
A DIGITAL ASEAN SERVICES ECONOMY14
11. Use of
Digital and Internet Technologies
11.1. Encourage the adoption of
digital technologies to improve application, approval, renewal and aftercare
processes for the supply of services.
11.2. Encourage the establishment or
maintenance of online platforms for the administration of applications,
renewals and aftercare needs for the supply of services.
11.3. Encourage the use of electronic
copies of documents that are authenticated in accordance with the respective
Member State’s domestic laws and regulations, in place of original documents.
11.4. Encourage the option of using an
electronic payment for fees and charges collected by competent authorities for
administering supply of services, including fees and charges for the
authorisation for supply of services.
11.5. Encourage the maintenance of
collaboration mechanisms related to cyber security which may include exchange
of best practices.
12. Single
Digital Platform
12.1. Encourage the minimisation of
the requirement for an applicant to approach more than one competent authority
for each application for authorisation to supply services.
12.2. Encourage the establishment or
maintenance of a single digital platform for the submission of all documents
required by the agencies or regulatory bodies involved in the application for
the supply of services.
12.3. Encourage the publication of
measures adopted or maintained by Member States related to the supply of
service through a single digital platform.
12.4. Encourage the provision of
information on the single digital platform in a manner that is sufficiently
clear, precise and up-to-date so as to enable a service supplier to be informed
of:
12.4.1. the agencies or regulatory
bodies involved in the applications for the supply of services;
12.4.2. the documents required by each
competent authority for any specific supply of services application; and
12.4.3. the estimated period of time
required to process an application associated with any specific supply of
service application.
12.5. Encourage the provision of a
single digital platform for service suppliers to pay authorisation fees and
taxes associated with the supply of service.
12.6. Encourage the creation of
resilient platforms and the facilitation of a trusted environment for
communications with service suppliers.
D. CREATING A
SUSTAINABLE AND INNOVATIVE ASEAN SERVICES ECONOMY
13. Future
Works
Explore activities to further
facilitate trade in services in ASEAN through, inter alia, but not
limited to the following:
13.1. study global best practices in
promoting the growth of the services sector;
13.2. identify new services that are
required to support a sustainable and innovative services economy and discuss
how ASEAN can facilitate the provision of these services in the region;
13.3. encourage Member States to
review their respective services-related domestic policies. This may include
the streamlining of application processes or rethinking of traditional
requirements, taking into account business feedback;
13.4. collaborate with other relevant
ASEAN Working Groups to adopt a more holistic approach to the provision of
service;
13.5. encourage the implementation of
policies that are targeted at promoting the growth of services innovation; and
13.6. consider the adoption of
negative list scheduling of services commitments for ASEAN Agreements to ensure
that they are transparent, accessible, and business friendly.
14. Circular
Economy
14.1. Encourage the development and
interlinkages of services industries that contribute to the circular economy,
including through removal of applicable barriers.
14.2. Encourage non-discriminatory
policy incentives to foster a transition to the circular economy including but
not limited to eco-design policies, recycling requirements, circular
procurement, and ecolabelling.
14.3. Encourage the adoption of
Environmental, Social, and Corporate Governance principles in supplying services
and financial reporting of service suppliers.
14.4. Monitor and keep up with
evolving international developments and practices in circular economy
pertaining to trade in services.
E. PARTNERING
WITH BUSINESSES TO SHAPE THE FUTURE OF ASEAN SERVICES ECONOMY TOGETHER
15.
Stakeholder Engagement
15.1. Encourage the consideration of
mechanisms for regular consultation and dialogue with relevant stakeholders,
with a view to soliciting updates and inputs on their business and services
facilitation needs and challenges.
15.2. Taking into account the outcomes
of Paragraph 15.1, encourage the adoption of mechanisms for the regular
evaluation and update of services measures, and consider making use of relevant
international performance indicators, with a view to ensuring that the services
trade environment remains conducive and responsive to evolving business
practices and needs.
16.
Implementation
Work towards the implementation of
this Framework and
regularly update the ASEAN Coordinating Committee on Services.
ADOPTED at the Thirtieth
ASEAN Economic Ministers Retreat Meeting, this [8th]
day of [March] in the Year Two Thousand and Twenty-Four, in a single original copy
in the English Language.