Kính gửi: Cục
Thuế tỉnh Vĩnh Long
Trả lời công văn số 160/CT-TTr ngày 27/6/2001 của
Cục Thuế hỏi về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, Tổng cục Thuế
có ý kiến như sau:
1- Về thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
Khoản 2, Điều 55 Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính quy định: “2. Người có thẩm quyền xử phạt có quyền ra
quyết định cưỡng chế và có trách nhiệm tổ chức cưỡng chế.
3. Lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm
thi hành quyết định cưỡng chế của Uỷ ban Nhân dân cùng cấp và phải phối hợp với
các cơ quan Nhà nước khác tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế của các cơ quan
đó khi được yêu cầu.”
Căn cứ quy định trên cơ quan thuế có thẩm quyền
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì có quyền quyết định cưỡng ché thi
hành. Để đảm bảo thực hiện được việc cưỡng chế, nhất là trường hợp phải kê biên
tài sản, cơ quan thuế báo cáo xin ý kiến UBND cùng cấp để UBND chỉ đạo lực lượng
công an, Viện kiểm sát nhân dân phối hợp, hỗ trợ cơ quan thuế tổ chức thực hiện
theo quy định tại điểm 2.3, mục III Thông tư số 128/1998/TT-BTC
ngày 22/9/1998 của Bộ Tài chính.
2- Về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
kế toán và lĩnh vực thuế:
Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định
“Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính”, Khoản 1 ghi: “1. Việc xử phạt vi phạm
hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.”;
Khoản 4 có ghi: “4. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.”
Điều 94 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính quy định: “Những quy định về xử lý vi phạm hành chính trước đây
trái với Pháp lệnh này đều bị bãi bỏ, trong trường hợp luật có quy định khác
thì áp dụng theo quy định của luật.”.
Căn cứ điểm 2.4, Mục II Thông tư
số 30/2001/TT-BTC ngày 16/5/2001 của Bộ Tài chính.
Căn cứ các quy định trên, Cơ quan thuế kiểm tra
phát hiện cơ sở kinh doanh có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán
quy định tại Nghị định số 49/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ, đồng thời
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì cơ quan thuế có quyền báo cáo, chuyển
hồ sơ cho UBND địa phương thực hiện xử phạt hành chính về hành vi vi phạm trong
lĩnh vực kế toán theo thẩm quyền.
Đối với hành vi vi phạm về kế toán dẫn đến trốn
thuế thì ngoài việc báo cáo UBND xử phạt vi phạm hành chính về kế toán, cơ quan
thuế tiến hành tính thuế truy thu số thuế trốn lậu (nếu có) theo quy định tại Khoản 1.a, Điều 18 Luật thuế giá trị gia tăng, khoản
1.a, Điều 16 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và tiến hành xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế theo thẩm quyền quy định tại Điều
20 Luật thuế giá trị gia tăng Điều 25 Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, Thông tư số 128/1998/TT-BTC ngày 22/9/1998 và Thông tư số
30/2001/TT-BTC.
Trường hợp, họ kinh doanh đăng ký, nộp thuế theo
kê khai nhưng có tháng không chấp hành đầy đủ chế độ lập hoá đơn, chứng từ khi
bán hàng hoá, thì cơ quan thuế căn cứ tình hình thực tế kinh doanh của hộ và
các hộ kinh doanh khác có cùng quy mô, ngành hàng kinh doanh để tổ chức ấn định
lớn hơn số thuế của họ kê khai, thì số thuế chênh lệch coi là số thuế trốn lậu,
bị truy thu và xử phạt hành chính theo quy định.
Thời điểm để xác định cơ sở nộp thuế theo kê
khai bị xử phạt theo số lần thuế trốn lậu về hành vi khai man, trốn thuế nếu bị
phát hiện sau ngày phải nộp quyết toán thuế hay phải nộp đủ số hồ sơ theo quy định
tại điểm 2.1, Mục II Thông tư số 30/2001/TT-BTC nêu trên, cụ
thể như sau:
- Đối với thuế GTGT Thời điểm để xác định hành
vi khai man trốn thuế của tháng này là ngày 26 của tháng tiếp sau hoặc kể từ
ngày thứ 46 tính từ ngày có quyết định sát nhập, giải thể...
- Đối với thuế TNDN Thời điểm để xác định hành
vi khai man trốn thuế của năm này là ngày thứ 61 của năm tiếp sau hoặc kể từ
ngày thứ 46 tính từ ngày có quyết định sát nhập, giải thể...
3- Về hàng hoá vận chuyển trên đường không có đầy
đủ hồ sơ:
- Điều 2.2.1, Mục 1 Thông tư số
30/2001/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định: “ Hàng hoá vận chuyển không có đầy
đủ hồ sơ chứng minh hàng đã nộp thuế hoặc hàng đã được cơ quan thuế quản lý
theo quy định cho từng đối tượng kinh doanh.
Hành vi vi phạm nêu tại điểm này chỉ coi là hành
vi khai man, trốn thuế nếu sau thời hạn tối đa là 10 ngày làm việc kể từ ngày
cơ quan thuế kiểm tra thấy còn nghi vấn và cho phép đối tượng có hành vi vi phạm
thu thập đầy đủ hồ sơ hợp lệ chứng minh lô hàng đã nộp thuế (đối với hàng hoá
mua, bán, trao đổi) hoặc đã được cơ quan thu thuế quản lý (đối với hàng hoá
chuyển kho trong cùng một đơn vị), nhưng đối tượng vi phạm vẫn không xuất trình
đầy đủ hồ sơ hợp lệ...”.
Vì vậy, Cơ quan quản lý thị trường khi kiểm tra
phát hiện hàng hoá vận chuyển không có đủ hồ sơ chứng minh hàng đã nộp thuế, mà
chuyển hồ sơ sang cơ quan thuế để xử lý về thuế thì cơ quan thuế nhận hồ sơ và
thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế theo quy định.
Tổng cục Thuế thông báo để Cục Thuế biết thực hiện./.