Kính
gửi: Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Việc ứng dụng công nghệ tin học vào
công tác quản lý thuế là một trong những nội dung quan trọng trong việc thực hiện
cải cách quản lý hành chính thuế thời gian tới. Để đáp ứng được yêu cầu của việc
hiện đại hóa công tác quản lý thuế, Tổng cục Thuế đã thực hiện đánh giá công
tác tin học năm qua và đề ra các nhiệm vụ cho năm 2002 như sau:
Kiểm điểm công tác tin học ngành Thuế
năm 2001: căn cứ vào kế hoạch phát triển tin học ngành Thuế tại công văn số 528
TCT/MT ngày 20/2/2001, công tác tin học năm qua đã hoàn thành một số các phần
việc chính như:
- Thực hiện nâng cấp chương trình
Đăng ký cấp mã số thuế và Quản lý thuế và đã triển khai cho các Cục thuế. Hệ thống
ứng dụng mới nâng cấp đã đáp ứng được các yêu cầu nghiệp vụ mới, sửa lỗi ứng dụng
và cung cấp thông tin tra cứu cho các phòng nghiệp vụ, quản lý, thanh tra khai
thác.
- Tổ chức lại hệ thống mạng tại các Cục
thuế, nâng cao tính an toàn và thống nhất cho hệ thống mạng của địa phương cũng
như toàn ngành.
- Cấp bổ sung trang thiết bị tin học
cho các bộ phận quản lý thư, nghiệp vụ và thanh tra tại các Cục thuế để khai
thác thông tin phục vụ việc kiểm tra hoàn thuế, quyết toán thuế, đồng thời bổ
sung thiết bị cho các Chi cục thuế.
- Củng cố hệ thống tổ chức tin học và
xử lý thông tin về thuế. Năm 2001, Bộ Tài chính đã ra Quyết định thành lập
phòng Xử lý thông tin và Tin học (XLTT-TH) trực thuộc Cục thuế. Đến nay đã có
hơn 40 Cục thuế tổ chức phòng XLTT-TH. Việc tách phòng XLTT-TH là một trong những
nội dung thực hiện cải cách quản lý hành chính thuế của ngành, hướng dần tới cơ
cấu tổ chức theo cơ chế đối tượng nộp thuế “tự tính, tự khai và tự nộp thuế”.
- Công tác đào tạo tin học: Tổng cục
đã tổ chức các khóa học cơ bản và tập huấn các ứng dụng cho các Cục thuế theo
đúng kế hoạch. Đề nghị các Cục thuế báo cáo tình hình đào tạo sử dụng máy tính
và sử dụng các ứng dụng của ngành tại địa phương trong năm 2001 theo mẫu quy định
tại công văn số 1012 TCT/MT ngày 14/3/2000 về Tổng cục trước ngày 15/4 (kế hoạch
yêu cầu năm 2001 phải đào tạo sử dụng máy tính cho 5% số cán bộ thuế của địa
phương).
- Xây dựng Đề án tin học hóa ngành
thuế đến năm 2005: Tổng cục Thuế đã xây dựng xong Đề án tin học hóa ngành thuế
năm 2005. Tới đây, Tổng cục sẽ phổ biến cho các Cục thuế biết để nắm được kế hoạch
tin học hóa hệ thống quản lý thuế và các định hướng về công nghệ thông tin sẽ ứng
dụng trong ngành Thuế.
Các việc còn tồn đọng: so với kế hoạch
dự kiến, năm 2001 còn tồn đọng các việc sau: chưa thực hiện Dự án kết nối thông
tin với Kho bạc và Dự án đối chiếu chéo hóa đơn. Nguyên nhân: đầu năm 2002 Kho
bạc và Tổng cục Thuế mới hoàn chỉnh Dự án kết nối thông tin Thuế - Kho bạc để
trình Bộ duyệt. Tháng 2/2002 lãnh đạo Bộ Tài chính đã ký duyệt thực hiện Dự án.
Hiện nay, Tổng cục Thuế và Kho bạc đang khẩn trương triển khai. Dự kiến đến cuối
năm 2002 sẽ thực hiện kết nối thí điểm tại TP Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Dự án
đối chiếu chéo hóa đơn hiện nay Bộ đang hoàn chỉnh để trình lãnh đạo Bộ Tài
chính duyệt. Việc triển khai chương trình Quản lý thuế sử dụng đất nông nghiệp
và Nhà đất cũng bị chậm, do vừa kết hợp phát triển ứng dụng với việc thống nhất
quy trình quản lý thuế SD ĐNN và NĐ trên máy tính. Đến nay ứng dụng đã xây dựng
xong, Tổng cục đang kiểm tra chương trình và triển khai thí điểm. Dự kiến cuối
Quý II sẽ triển khai rộng cho các địa phương.
Đánh giá chung, công tác tin học của
ngành năm 2001 đã tăng cường hiệu quả cho công tác quản lý tính thuế qua việc
nâng cấp hệ thống cấp mã số thuế và quản lý tính thuế. Hệ thống tổ chức và đội
ngũ cán bộ thuế đã được tăng cường chuẩn bị cho việc đẩy mạnh công cuộc hiện đại
hóa ngành Thuế. Tuy nhiên, các Dự án lớn để hỗ trợ công tác hoàn thuế, kiểm tra
thuế tiến độ triển khai còn quá chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý. Các Cục
thuế còn chưa thực hiện tốt quy định truyền số liệu kế toán số thu, đặc biệt là
số thu hàng ngày, nên Tổng cục thiếu thông tin để chỉ đạo thu kịp thời.
Năm 2002, công tác tin học ngành thuế
tập trung phục vụ cho công tác Dịch vụ đối tượng nộp thuế và cung cấp thông tin
chỉ đạo cho ngành, cụ thể như:
1- Dự án tin học
hóa Dịch vụ ĐTNT: Dự án sẽ hoạch định toàn bộ nội dung dịch vụ ĐTNT có
áp dụng công nghệ tin học. Riêng trong năm 2002, Dự án sẽ tập trung thực hiện
xây dựng hệ thống WEB để ĐTNT tra cứu được các văn bản pháp quy về thuế và các
hướng dẫn về thủ tục thu nộp thuế (trước hết cho thuế GTGT và TNDN), đồng thời
cung cấp một số thông tin tham khảo cho ĐTNT như danh sách các ĐTNT không còn
kinh doanh, không thực hiện nghĩa vụ thuế và danh sách các hóa đơn không hợp lệ
và không còn giá trị sử dụng.
2- Dự án kết nối
thông tin Thuế và Kho bạc: Trong năm 2002, sẽ thực hiện kết nối mạng giữa
hai ngành để thực hiện trao đổi thông tin về số thuế đã nộp vào Kho bạc của các
hộ kinh doanh cá thể. Cuối năm sẽ thực hiện áp dụng tại Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh. Sau đó sẽ mở rộng áp dụng cho các địa phương khác.
3- Dự án kiểm tra
chéo hóa đơn mua, bán hàng trên hệ thống máy tính ngành Thuế: sau khi
lãnh đạo Bộ duyệt Dự án, Tổng cục sẽ thực hiện xây dựng hệ thống đối chiếu chéo
hóa đơn và thực hiện thí điểm cho một vài Cục thuế trong năm 2002.
4- Dự án quản lý ấn
chỉ thuế trên mạng máy tính: Hiện nay, các địa phương đang sử dụng
chương trình quản lý ấn chỉ thuế thực hiện trên các máy đơn lẻ. Việc quản lý
trên máy đơn lẻ rất khó khăn trong việc kết nối dữ liệu để kiểm soát kịp thời
việc cấp phát, bán và sử dụng hóa đơn, biên lai thuế và việc điều tra hóa đơn rất
khó khăn. Tổng cục đang triển khai cải tiến quy trình quản lý ấn chỉ và xây dựng
lại chương trình quản lý thuế trên mạng theo hướng tập trung hóa dữ liệu, đảm bảo
đáp ứng yêu cầu kiểm soát việc sử dụng hóa đơn, biên lai chính xác, nhanh
chóng. Dự kiến đến cuối năm sẽ thực hiện thí điểm tại một số Cục thuế và năm
2003 sẽ triển khai rộng cả nước.
5- Triển khai hệ
thống sao lưu (Back up) tập trung cho hệ thống mạng Cục thuế: kết hợp
giải pháp sao lưu dữ liệu ra băng từ (tape), năm nay, Tổng cục sẽ triển khai
xây dựng hệ thống sao lưu tập trung trên mạng cho 24 Cục thuế có khối lượng dữ
liệu lớn để tăng cường tính an toàn dữ liệu và hệ thống.
6- Công tác tin học:
- Năm 2002, Tổng cục Thuế sẽ bổ sung
trang thiết bị tin học theo các Dự án tin học sẽ triển khai như nêu trên. Các cục
thuế cần dự kiến nhu cầu trang thiết bị phù hợp với các hệ thống ứng dụng sẽ
triển khai, bổ sung cho hệ thống quản lý thuế và thay thế các thiết bị bị hỏng
không có khả năng sửa chữa. Nhu cầu trang thiết bị cần gửi sớm về Tổng cục Thuế
để tổng hợp.
- Công tác đào tin học: để chuẩn bị
cho việc triển khai các hệ thống ứng dụng lớn (quản lý ấn chỉ trên mạng, đối
chiếu chéo hóa đơn,...) đòi hỏi đội ngũ cán bộ tin học Cục thuế phải nâng cao về
trình độ kỹ thuật. Đề nghị lãnh đạo Cục thuế tạo điều kiện cho các cán bộ tin học
đi học thêm để nâng cao trình độ kỹ thuật tin học (Cục hỗ trợ kinh phí). Đồng
thời, Cục thuế đảm bảo tập huấn cho từ 5% đến 7% số cán bộ thuế tại địa phương
về kỹ năng sử dụng máy tính và cách khai thác thông tin phục vụ công tác chuyên
môn.
- Công tác quản trị mạng: Cục thuế chỉ
đạo bộ phận tin học làm tổ công tác an toàn hệ thống và dữ liệu. Phòng XLTT-TH
trình lãnh đạo Cục duyệt phân quyền khai thác thông tin trên mạng để thông báo
cho tất cả các phòng trong Cục biết và thực hiện tốt công tác quản lý người
dùng, phân quyền sử dụng tài nguyên trên mạng. Cục thuế chỉ đạo bộ phận tin học
(VP Cục và Chi cục) nghiêm chỉnh chấp hành quy định về sao lưu dữ liệu (Backup)
của Tổng cục ban hành, định kỳ hàng ngày kiểm tra việc backup dữ liệu ra Tapes,
tình trạng hoạt động của UPS, của các ổ cứng, cập nhật chương trình diệt VIRUS
hàng tháng từ Tổng cục. Kiểm tra và đảm bảo môi trường phòng máy chủ về nhiệt độ,
độ ẩm và thường xuyên lau chùi làm vệ sinh thiết bị. Nghiêm cấm việc cập nhật trực
tiếp vào CSDL do Tổng cục quản lý để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về cấu trúc
dữ liệu trong toàn ngành, nhằm chuẩn bị tốt cho việc triển khai các Dự án tin học
mới (như kết nối dữ liệu với Kho bạc, Dịch vụ ĐTNT,...). Nếu Cục thuế có nhu cầu
đặc biệt liên quan đến cơ sở dữ liệu thì thông báo về Tổng cục để cùng trao đổi
để giải quyết.
7- Một số vấn đề
khác:
- Vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa
phòng KH-TH và phòng XLTT-TH Cục thuế: đến nay, đã có 40 Cục thuế thành lập
phòng XLTT-TH theo Quyết định của Bộ Tài chính. Việc thành lập phòng XLTT-TH là
một nội dung quan trọng trong chương trình cải cách quản lý hành chính thuế của
ngành và được thực hiện trước nhất để tạo điều kiện cho các bước thực hiện cải
cách tiếp theo. Do mới thành lập nên sẽ phát sinh những vướng mắc về chức năng,
nhiệm vụ và mối quan hệ giữa phòng XLTT-TH với các phòng KH-TH và các phòng Quản
lý thu. Đề nghị Cục thuế có văn bản nêu rõ các vướng mắc gửi về Tổng cục để Tổng
cục có cơ sở phân tích bổ sung, hiệu chỉnh cho hợp lý.
- Việc cung cấp thông tin: để cung cấp
thông tin về quản lý thuế có trên mạng máy tính kịp thời cho các phòng Quản lý
thu, Thanh tra, Nghiệp vụ và phòng KH-TH, hạn chế tối đa những phàn nàn về việc
“xin-cho” số liệu, đề nghị lãnh đạo Cục chỉ đạo phòng XLTT-TH tổ chức tập huấn
cách sử dụng máy tính và cách khai thác thông tin trên mạng máy tính cho tất cả
các cán bộ của các phòng trên. Cán bộ các phòng thuộc Cục thuế phải có trách
nhiệm tham gia tập huấn để có khả năng tự khai thác thông tin trên mạng.
- Việc truyền dữ liệu báo cáo kế
toán, thống kê thuế qua đường truyền tin: hầu hết các Cục thuế đã thực hiện tốt
chế độ báo cáo kế toán thuế định kỳ hàng tháng. Tuy nhiên, báo cáo số thu nhanh
hàng ngày mới có khoảng 40% Cục thuế thực hiện thường xuyên. Trong năm nay, Tổng
cục hoàn thiện các báo cáo thống kê thuế để Cục thuế thực hiện gửi báo cáo thống
kê thuế qua mạng máy tính. Tổng cục đề nghị lãnh đạo Cục quan tâm chỉ đạo thực
hiện tốt việc truyền thông tin số thu qua hệ thống mạng để kịp thời cung cấp
thông tin phục vụ công tác chỉ đạo thu và xây dựng chính sách thuế của Tổng cục.
- Về kinh phí: kinh phí cho việc sửa
chữa trang thiết bị tin học, đào tạo tin học và cước truyền dữ liệu được Tổng cục
cấp về Cục thuế trong kinh phí thường xuyên theo các mục tương ứng. Đề nghị
lãnh đạo Cục đảm bảo chi cho các công việc tin học theo đúng chế độ và nhu cầu
công việc.
Trong giai đoạn tới, việc ứng dụng
công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế ngày càng trở thành công tác quan
trọng và là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện cải cách quản lý thuế theo cơ chế
quản lý thuế hiện đại và hiệu quả. Vì vậy, đề nghị lãnh đạo Cục thuế quan tâm
chỉ đạo đơn vị thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch công tác phát triển tin học
của ngành.
|
KT.
TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC THUẾ
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Trương Chí Trung
|