BỘ
TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1150/TCT-CS
V/v xác định tài sản cố định vô hình đối với
Bộ nhận diện thương hiệu.
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 04 năm 2012
|
Kính
gửi: Cục Thuế tỉnh Khánh Hòa.
Trả lời công văn số 5964/CT-TTHT
ngày 13/10/2011 của Cục Thuế tỉnh Khánh Hòa về xác định tài sản cố định vô hình
đối với Bộ nhận diện thương hiệu, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số
04-Tài sản cố định vô hình, ban hành kèm theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC
ngày 31/12/2001 của Bộ Tài chính quy định về tiêu chuẩn ghi nhận tài sản cố định
vô hình thì: “Để xác định nguồn lực vô hình thỏa mãn định nghĩa TSCĐ vô hình cần
phải xem xét các yếu tố: Tính có thể xác định được, khả năng kiểm soát nguồn lực
và tính chắc chắn của lợi ích kinh tế trong tương lai. Nếu một nguồn lực vô
hình không thỏa mãn định nghĩa TSCĐ vô hình thì chi phí phát sinh để tạo ra nguồn
lực vô hình đó phải ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ hoặc chi
phí trả trước”.
Tại điểm 2.13 Mục
IV Phần C Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính quy
định: “Trường hợp chi phí để có các tài sản không thuộc tài sản cố định: chi về
mua và sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, giấy phép chuyển giao công
nghệ, nhãn hiệu thương mại, lợi thế kinh doanh… được phân bổ dần vào chi phí
kinh doanh nhưng tối đa không quá 3 năm”.
Tại khoản 2 Điều 2
Phần A Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn
chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định quy định: “Tài sản cố
định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng
giá trị đã được đầu tư thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình,
tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới
đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền
tác giả…”.
Tại khoản 1 và khoản
2 Điều 3 Phần B Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính
quy định: “1. Tư liệu lao động là những tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc
là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực
hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào thì
cả hệ thống không thể hoạt động được, nếu thỏa mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn
dưới đây thì được coi là tài sản cố định:
a. Chắc chắn thu được lợi ích kinh
tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
b. Có thời gian sử dụng trên 1 năm
trở lên;
c. Nguyên giá tài sản phải được xác
định một cách tin cậy và có giá trị từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) trở
lên.
…
2. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản
cố định vô hình:
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh
nghiệp đã chi ra thỏa mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn quy định tại điểm 1 ở
trên, mà không hình thành TSCĐ hữu hình được coi là TSCĐ vô hình.
Những khoản chi phí không đồng thời
thỏa mãn cả ba tiêu chuẩn nêu tại khoản 1 Điều 3 Thông tư này thì được hạch
toán trực tiếp hoặc được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Riêng các chi phí phát sinh trong
giai đoạn triển khai được ghi nhận là TSCĐ vô hình tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp
nếu thỏa mãn đồng thời bảy điều kiện sau:
a. Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm
bảo cho việc hoàn thành và đưa tài sản vô hình vào sử dụng theo dự tính hoặc để
bán;
b. Doanh nghiệp dự định hoàn thành
tài sản vô hình để sử dụng hoặc để bán;
c. Doanh nghiệp có khả năng sử dụng
hoặc bán tài sản vô hình đó;
d. Tài sản vô hình đó phải tạo ra
được lợi ích kinh tế trong tương lai;
đ. Có đầy đủ các nguồn lực về kỹ
thuật, tài chính và các nguồn lực khác để hoàn tất các giai đoạn triển khai,
bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó;
e. Có khả năng xác định một cách chắc
chắn toàn bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó;
g. Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời
gian sử dụng và giá trị theo quy định cho tài sản cố định vô hình.
Chi phí thành lập doanh nghiệp, chi
phí đào tạo nhân viên, chi phí quảng cáo phát sinh trước khi thành lập doanh
nghiệp, chi phí cho giai đoạn nghiên cứu, chi phí chuyển dịch địa điểm, lợi thế
kinh doanh không phải là tài sản cố định vô hình mà được phân bổ dần vào chi
phí kinh doanh trong thời gian tối đa không quá 3 năm kể từ khi doanh nghiệp bắt
đầu hoạt động”.
Căn cứ các quy định nêu trên, trường
hợp Công ty cổ phần Đầu tư Dầu khí Nha Trang (Công ty) có chi trả một khoản chi
phí cụ thể mua tài sản là Bộ nhận diện thương hiệu không phải được tạo nên từ nội
bộ doanh nghiệp theo Hợp đồng kinh tế để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty, nếu tài sản này phù hợp với định nghĩa TSCĐ vô hình và thỏa
mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn quy định tại điểm khoản 1 và khoản
2 Điều 3 Phần B Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 của Bộ Tài
chính mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Để xác định
nguồn lực vô hình thỏa mãn định nghĩa TSCĐ vô hình cần phải xem xét các yếu tố:
Tính có thể xác định được, khả năng kiểm soát nguồn lực và tính chắc chắn của lợi
ích kinh tế trong tương lai.
Tuy nhiên, theo hồ sơ gửi kèm theo
của Cục Thuế cung cấp thì Bộ nhận diện thương hiệu được ký kết trên cơ sở Hợp đồng,
không nêu rõ căn cứ xác định giá trị của 02 Bộ nhận diện nên không đáp ứng quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 3 Thông tư số 203/2009/TT-BTC
ngày 20/10/2009 của Bộ Tài chính, do đó không được xác định là TSCĐ vô hình.
Trường hợp, Bộ nhận diện thương hiệu
không đáp ứng đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định vô hình thì khoản chi phí mà
Công ty cổ phần Đầu tư Dầu khí Nha Trang bỏ ra để có Bộ nhận diện thương hiệu
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được phân bổ dần vào chi
phí kinh doanh nhưng tối đa không quá 3 năm.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục Thuế
được biết và hướng dẫn đơn vị thực hiện theo quy định./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Vụ PC-BTC;
- Lưu: VT, PC, CS(2b).
|
KT.
TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Cao Anh Tuấn
|