Kính
gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Ngày 29-7-2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao đã tổ chức phiên họp trực tuyến để giải đáp một số vướng mắc
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự và kinh doanh,
thương mại. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng
Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như
sau:
I. Về hình sự
1. Vướng mắc
về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (quy định tại Điều 201 của Bộ luật Hình sự).
- Khoản tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi thu được từ việc cho vay hay là khoản tiền lãi thu được sau khi
trừ đi tiền lãi theo quy định của Bộ luật Dân sự?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường
hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được
vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay...”. Do đó, khoản tiền thu lợi bất chính để
xác định trách nhiệm hình sự là số tiền lãi thu được sau khi trừ đi số tiền lãi
tương ứng với mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự.
- Khoản tiền thu lợi bất chính để
xác định trách nhiệm hình sự trong vụ án là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay
hay số tiền lãi thu được của từng người vay?
Khoản tiền thu lợi bất chính để xác
định trách nhiệm hình sự là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất
cả những người vay, nếu hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên
tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần
hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội
từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị
áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản
chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội
02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật
Hình sự.
- Khoản tiền thu lợi bất chính mà
người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng bị tịch thu sung công hay trả
lại cho người vay?
Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự thì: “Trường hợp lãi
suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì
mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Do đó, khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm là
khoản tiền mà người phạm tội thu lợi bất chính của người vay nên được trả lại
cho người vay tiền, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất
hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...) thì khoản tiền thu
lợi bất chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- Khoản tiền người phạm tội dùng
để cho vay và khoản lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm có xác định là phương
tiện phạm tội để tịch thu sung quỹ nhà nước hay trả cho người phạm tội?
Đối với khoản tiền cho vay (tiền gốc)
được xác định là phương tiện phạm tội, nên bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức
lãi suất 20%/năm tuy không bị tính khi xác định trách nhiệm hình sự, nhưng đây
cũng là khoản tiền phát sinh từ tội phạm, đồng thời hoạt động cho vay lãi nặng thường
gắn với các băng nhóm tội phạm. Do đó, để bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm thì Tòa án phải tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước khoản tiền
này.
- Người vay tiền trong vụ án cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự tham gia tố tụng với tư cách là bị hại hay
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan?
Theo quy định tại Điều
65 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người vay tiền trong trường hợp này tham
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
- Trong vụ án cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự có bắt buộc phải trưng cầu giám định về tiền lãi không?
Tại Điều 4 của Thông tư
liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP ngày 13-12-2017 quy định những
trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong giải quyết vụ án,
vụ việc về tham nhũng, kinh tế thì việc xác định tiền lãi,
tiền lãi nặng trong vụ án này không thuộc trường hợp bắt
buộc phải trưng cầu giám định tư pháp.
2. Trường hợp người
chấp hành án mới được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù (trong thời hạn 01
năm) thì có được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện hay không?
Theo các quy định của pháp luật về tha
tù trước thời hạn có điều kiện thì không giới hạn thời gian từ khi được giảm thời
hạn chấp hành án phạt tù đến khi xét tha tù trước thời hạn
có điều kiện. Do đó, nếu người đang chấp hành án phạt tù có đủ các điều kiện
theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn
tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ
luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện thì có thể tha tù trước
thời hạn có điều kiện.
3. Tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” có
tương tự như tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”
không?
Tình tiết "Người phạm tội tích
cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong
quá trình giải quyết vụ án" và tình tiết "Người
phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” là hai tình tiết độc lập quy định
tại điểm t và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tình tiết “Người phạm tội tích cực
hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá
trình giải quyết vụ án” được hiểu là trường hợp người phạm
tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có
trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát
hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Tình tiết “Người phạm tội thành khẩn
khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn
khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra.
4. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự thì tội cướp tài sản có mức hình phạt tù từ 07
năm đến 15 năm. Vậy có được xử bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mức hình
phạt là 04 năm tù không?
Theo quy định tại Điều
101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mức phạt tù có thời hạn cao nhất được áp
dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không
quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, luật
chỉ khống chế mức phạt cao nhất áp dụng đối với đối tượng này mà không khống
chế mức thấp nhất. Do đó, trong trường hợp nêu trên, Tòa án có thể áp dụng mức
phạt 04 năm tù đối với bị cáo, nếu việc áp dụng hình phạt đó bảo đảm được mục
đích của hình phạt và các nguyên tắc trong việc xử lý hình sự người chưa thành
niên phạm tội.
5. Khi quyết
định hình phạt, Tòa án có được coi các tình tiết về nhân thân của bị cáo như
trình độ học vấn thấp, là lao động chính, có con nhỏ, có ông bà là người có
công Cách mạng... là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự hay không?
Hiện nay quy định tại khoản
2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Tòa án có thể
tham khảo quy định tại điểm c mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999
để xác định tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự
năm 2015, cụ thể như sau:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em
ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích
xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao
động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy
thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của
Nhà nước:
- Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai
nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi
thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp
của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn
hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục
vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có
thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản
án.
6. Bị cáo có đơn
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo xin giảm nhẹ
hình phạt và lại xin giảm mức bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp phúc thẩm có xem
xét yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 342 của của Bộ luật Tố tụng hình sự thì: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm,
người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung
kháng cáo...”. Đồng thời, theo quy định tại Điều
345 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo,
kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị
kháng cáo, kháng nghị”.
Theo quy định nêu trên, bị cáo có
quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo trong quá trình xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên,
trường hợp trước khi bắt đầu phiên tòa vì bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt nên Tòa án đã không triệu tập bị hại, đương sự trong vụ án tham gia
phiên tòa do phần kháng cáo không liên quan đến họ. Cho nên đối với trường hợp
này, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có quyền xem xét, quyết định phần kháng cáo
bổ sung xin giảm mức bồi thường thiệt hại nhưng phải xem
xét một cách thận trọng bảo đảm không được gây bất lợi cho bị hại, đương sự
không có mặt tại phiên tòa.
7. Bị cáo bị Tòa
án cấp sơ thẩm buộc nộp lại số tiền thu lợi bất chính hoặc bị áp dụng hình phạt
bổ sung là phạt tiền. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt chính và đã nộp
tiền thu lợi bất chính hoặc nộp tiền phạt thì có được coi là tình tiết giảm nhẹ
mới ở Tòa án cấp phúc thẩm không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự thì việc bị cáo giao nộp tiền thu lợi bất
chính hoặc tiền phạt bổ sung không được xác định là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Trường hợp bị cáo tự nguyện giao nộp ít nhất 1/2 số tiền thu lợi bất chính hoặc tiền phạt bổ sung theo bản án, quyết
định của Tòa án thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm có thể xem xét, áp dụng tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.
Tuy nhiên, khi xem xét quyết định hình
phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết
định hình phạt chính nhẹ hơn so với trách nhiệm hình sự của bị cáo, thì khi xem
xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ này Tòa án cấp phúc thẩm không nhất thiết phải
giảm hình phạt chính, tuy nhiên, việc quyết định có giảm hay không giảm hình
phạt chính thì Hội đồng xét xử vẫn phải nhận định rõ ràng trong bản án.
8. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm được xác định như thế
nào?
Khi xem xét, quyết định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại Tòa án căn cứ vào Điều
48 của Bộ luật Hình sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án có đồng phạm được thực hiện theo
quy định tại Điều 587 của Bộ luật Dân
sự, theo đó thì “Trong trường hợp nhiều người cùng
gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng
gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không
xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”. Ngoài ra, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án
hình sự thì Tòa án có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08-7-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
9. Trường hợp sau
khi bị khởi tố bị cáo mới có thai thì Tòa án có áp dụng tình tiết “Người phạm tội
là phụ nữ có thai” không?
Quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là phụ nữ có
thai tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự.
Do đó, trường hợp sau khi bị khởi tố bị cáo mới có thai thì Tòa án vẫn áp dụng
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là
phụ nữ có thai” đối với bị cáo.
10. Người
thực hiện hành vi làm giả các giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay
tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức?
Hành vi làm giả giấy tờ tài liệu của cơ
quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm vào 02 khách thể khác
nhau được Bộ luật Hình sự bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều 341 của Bộ luật Hình sự),
nên nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự cả
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội làm giả con dấu, tài liệu
của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu
giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341).
II. Về tố tụng
hành chính
1. Thời hạn ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp phải xác minh làm rõ hành
vi vi phạm hành chính được xác định như thế nào?
- Trường hợp khi phát hiện hành vi có
dấu hiệu vi phạm hành chính, người có thẩm quyền mới chỉ lập biên bản để ghi
nhận vụ việc (như biên bản kiểm tra, biên bản làm việc...); sau đó, tiến hành
xác minh làm rõ tình tiết vụ việc vi phạm hành chính. Sau
khi có kết quả xác minh, người có thẩm quyền mới lập biên bản vi phạm hành
chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ
ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
- Trường hợp việc xác minh được thực hiện
sau khi lập biên bản vi phạm hành chính làm cơ sở để người có thẩm quyền xem
xét, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 66 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản
vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc
trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của
Luật Xử lý vi phạm hành chính thì
thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm
trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định
tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61
của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có
thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình
bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn
không được quá 30 ngày.
- Đối với trường hợp hồ sơ vụ vi phạm
để xử phạt hành chính do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chuyển đến mà người có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải xác minh thêm tình tiết làm căn cứ ra
quyết định xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tối đa không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt
hành chính theo quy định tại khoản 3
Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2. Khi ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền có được căn cứ vào biên
bản vi phạm hành chính bổ sung?
Luật Xử lý vi phạm hành chính không có
quy định về biên bản vi phạm hành chính bổ sung. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “3.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập
biên bản và ra quyết định xử phạt một lần...”. Do đó,
khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền chỉ căn cứ
vào biên bản vi phạm hành chính đã được lập.
Đối với trường hợp sau khi lập biên
bản vi phạm hành chính lại phát hiện thêm hành vi vi phạm hành chính khác thuộc
phạm vi quản lý của mình, người có thẩm quyền đã tiếp tục lập biên bản đối với
hành vi vi phạm hành chính này thì được căn cứ vào biên bản vi phạm hành chính
lập sau để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Theo
quy định tại khoản 1
Điều 122 của Luật Tố tụng hành chính thì trường hợp
đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật
này thì Thẩm phán yêu cầu đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Vậy trường
hợp đương sự đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng không nộp các tài liệu,
chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích bị xâm phạm thì Tòa án có trả lại đơn
khởi kiện theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 123 của
Luật Tố tụng hành chính không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành chính thì: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do
khách quan mà người khởi kiện không thể nộp
đầy đủ các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu,
chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi
kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính thì Thẩm phán chỉ được trả lại đơn khởi kiện
trong những trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm h khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính (gồm: a) Người khởi kiện không có quyền
khởi kiện; b) Người khởi kiện không có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy
đủ; c) Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi
kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu
một trong các điều kiện đó; d)Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; đ) Sự việc
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; e)
Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo
thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật này; g) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà không được người
khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều
122 của Luật này; h) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này mà người khởi kiện không
xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa
án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền
tạm ứng án phí, không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc
có lý do chính đáng). Như
vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 123
của Luật Tố tụng hành chính thì
không có quy định về trường hợp trả lại đơn khởi kiện nếu
người khởi kiện không gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm.
Đối với trường hợp người khởi kiện không
nộp hoặc nộp không đầy đủ kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm được xử lý theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Luật Tố tụng hành chính. Thẩm phán không được căn cứ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính để trả lại đơn khởi kiện. Bởi vì, điểm g khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành
chính quy định về trường hợp
Tòa án trả lại đơn khởi kiện, nếu: “Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy
định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này mà
không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 122 của Luật
này”.
Trường hợp người khởi kiện không cung
cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm kèm theo
đơn khởi kiện, thì Tòa án vẫn phải xem xét, thụ lý vụ án theo quy định. Trong
quá trình tố tụng, trên cơ sở yêu cầu của người khởi kiện thì Tòa án yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình tài liệu, chứng
cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 93
của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp không có tài
liệu, chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị
xâm phạm thì Tòa án bác yêu cầu khởi kiện.
4. Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính chỉ quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các quyết
định hành chính thuộc trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 116 của
Luật này mà không quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 116 của Luật này. Vậy trong trường hợp khiếu kiện quyết
định hành chính thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều
116 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án áp
dụng thời hạn xét xử như thế nào?
Theo quy định tại Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án hành
chính, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài và vụ
án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
“1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án
đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này.
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án
đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này....”.
Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 và điểm a, b khoản 3 Điều 116
của Luật Tố tụng hành chính về
thời hiệu khởi kiện thì:
“2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được
hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
b) 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo
đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như
sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được
hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai;
b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết
và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 103 của Luật Cạnh
tranh thì trong lĩnh vực cạnh
tranh chỉ có quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 130 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với khiếu kiện quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là 02 tháng kể từ ngày thụ lý
vụ án. Do đó, đối với các quyết định giải quyết khiếu nại còn lại thuộc đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính được nêu tại khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính thì thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 130 của Luật
Tố tụng hành chính là 04 tháng.
5. Điều 203 của Luật Đất đai quy định: “3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết
tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp
đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa
hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý
với quyết định
giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân
theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.
b) Trường hợp tranh chấp mà một
bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý
với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của
pháp luật về tố tụng hành chính;
Vậy trong trường hợp không đồng
ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện tại Tòa án hay không?
Theo quy định tại Điều 7 của Luật Khiếu nại thì:
“1....Trường hợp người
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết
thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ
án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
3... Trường hợp người khiếu nại
không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn
quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có
quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 (về
khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) của Luật Tố tụng hành chính
thì:
“1. Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành vi sau đây:
a) Quyết định hành chính, hành vi hành
chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật;
b) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản
trở hoạt động tố tụng;
c) Quyết định hành chính, hành vi
hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.”
Như vậy, theo quy định của Luật Khiếu
nại và Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì không
loại trừ quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trong lĩnh vực đất đai. Do đó,
nếu các quyết định này thỏa mãn quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính.
6. Khi
làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đối với
Luật sư và công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính
thì Tòa án phải yêu cầu những người này xuất trình
những giấy tờ gì?
Đối với Luật sư, khi làm thủ tục đăng
ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án yêu cầu Luật sư xuất
trình Thẻ luật sư và giấy yêu cầu Luật sư của khách hàng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Luật sư.
Đối với trường hợp công dân Việt Nam có
đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản
2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án yêu cầu người đề nghị xuất trình giấy tờ, tài liệu theo quy
định tại điểm c khoản 4 Điều 61 của
Luật Tố tụng hành chính.
7. Trường
hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định hành chính của người khởi
kiện, thì cơ quan hành chính có được cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
ngay hay phải chờ sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành án thì
mới được cưỡng chế thi hành quyết định hành chính?
Trong trường hợp này, theo quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 311 của Luật Tố
tụng hành chính thì người phải
thi hành án có thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được
bản án, quyết định của Tòa án; quá thời hạn này mà người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành thì người được thi hành án (cơ quan hành chính) có quyền gửi
đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án theo quy định tại khoản 1
Điều 312 của Luật Tố tụng hành chính; sau khi Tòa án
đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì
cơ quan hành chính có thẩm quyền mới
được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính theo quy
định của pháp luật.
8. Quyết
định hành chính bị khiếu nại. Hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại không giải quyết nên người bị ảnh hưởng quyền
và lợi ích hợp pháp đã khởi kiện cả quyết định hành chính và hành vi hành chính
không giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp này, Tòa án có thụ lý xem xét,
giải quyết đồng thời hai yêu cầu này của người khởi kiện hay không?
Về vấn đề này,
tại Mục 7 của Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 về một
số vấn đề về tố
tụng hành chính, tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn trường
hợp người khởi kiện vừa khởi kiện quyết định hành chính, vừa khởi kiện hành vi
không giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính đó, thì Tòa án cần
giải thích cho người khởi kiện lựa chọn một trong hai yêu cầu nêu trên. Trường hợp người khởi kiện lựa chọn khởi
kiện quyết định hành chính hoặc lựa chọn khởi kiện hành vi không giải quyết
khiếu nại thì Tòa án xem xét, thụ lý vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện
của đương sự. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong trường hợp này được xác
định theo quy định tại Điều 31 và Điều
32 của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp người khởi
kiện vẫn đề nghị Tòa án giải quyết đồng thời cả hai yêu cầu thì Tòa án chỉ thụ
lý, xem xét giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện quyết
định hành chính.
9. Tại mục 2
phần dân sự của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối
cao về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến hướng dẫn đối với tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất mà cơ quan có thẩm
quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đó cho người nhận
chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho quyền sử dụng đất thì Tòa án
không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không
cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Vậy, trong
trường hợp người khởi kiện chỉ khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì Tòa án có thụ lý giải quyết hay không?
Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng về
quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thì người khởi kiện
thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị
Tòa án tuyên hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào?
Tại mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC
ngày 19-9-2016 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự,
Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết
định hành chính nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Do đó, trong trường hợp này, nếu người khởi kiện chỉ khởi kiện yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án vẫn xem xét thụ lý
giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm
đang xem xét, giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất có
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người khởi kiện thay đổi yêu cầu
khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
Tòa án đang xem xét, giải quyết ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý theo quy định tại khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quyết định này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
10. Đối với
trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở hợp đồng
chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất, khi Tòa án xem xét giải
quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án có xem xét,
quyết định về giá trị pháp lý của hợp đồng về quyền sử dụng đất này hay không
và có đưa những người tham gia ký kết hợp đồng vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 191 của Luật Tố tụng hành chính thì đối với vụ án hành chính, Hội đồng xét xử chỉ xem xét, quyết định
về các vấn đề sau đây:
“a) Tính
hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
b) Tính
hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc
việc thực hiện hành vi hành chính;
c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết
định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;
d) Mối liên hệ giữa quyết định hành
chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và
những người có liên quan;
đ) Tính
hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính có
liên quan (nếu có);
e) Vấn
đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có)”.
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được cấp trên cơ sở hợp đồng về quyền sử dụng đất thì Hội đồng xét xử
xem xét, đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng về quyền sử
dụng đất để làm cơ sở xem xét, đánh giá về tính hợp pháp và có căn cứ của quyết
định hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đánh giá, nhận
định này, Hội đồng xét xử quyết định bác yêu cầu khởi kiện nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật, hoặc chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó trái pháp luật.
Trong trường hợp này, người tham gia ký
kết hợp đồng về quyền sử dụng đất tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo quy định tại khoản 10 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính.
III. Về dân sự
1. Thẩm phán
có quyền thu thập chứng cứ bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không?
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định
cụ thể về quyền thu thập chứng cứ bổ sung của Thẩm phán ở giai đoạn phúc thẩm mà
chỉ quy định về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử phúc thẩm tại Điều 287 của Bộ luật này.
Khoản 2 và khoản 4
Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về việc xác minh, thu thập chứng cứ như sau:
“2. Trong các trường hợp do Bộ
luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu,
chứng cứ:
a) Lấy
lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối
chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;
c) Trưng cầu giám định;
d) Định giá tài sản;
đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu,
chứng cứ;
g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan
đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
i) Các biện pháp khác theo quy
định của Bộ luật này.
…
4. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể
tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ quy định tại các điểm a, g
và h khoản 2 Điều này.”
Điều 304 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Việc
tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 259 của Bộ
luật này”.
Theo điểm c khoản 1 Điều 259 của Bộ luật
này thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng
phiên tòa khi “cần phải xác minh, thu thập bổ
sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa ”.
Khoản 2 Điều 97
của Bộ luật Tố tụng dân sự không
giới hạn việc thu thập chứng cứ của Tòa án ở giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm mà
chỉ giới hạn việc thu thập chứng cứ ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực
tế, nếu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì
Thẩm phán vẫn tiến hành thu thập bổ sung. Do vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên thì
Thẩm phán có quyền tiến hành thu thập chứng cứ bổ sung ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm.
2. Trường
hợp do tình thế khẩn cấp, người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ sáu. Theo quy
định tại khoản 2 Điều
111 và khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì
Tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào ngày nghỉ cuối tuần
hoặc ngày nghỉ lễ hay không?
Khoản 2 Điều 111
của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định: “Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp,
cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì
cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ
luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó”.
Khoản 3 Điều 133
của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định:
“Đối
với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì sau khi nhận được
đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm
theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một Thẩm phán
thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được
đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét và ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu
biết”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 133 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời hạn ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là 48
giờ. Do thời hạn tính bằng giờ nên thời điểm kết thúc thời hạn cũng tính bằng
giờ, không phụ thuộc thời điểm kết thúc thời hạn đó vào ngày nghỉ cuối tuần
hoặc ngày nghỉ lễ. Vì vậy, nếu Tòa án nhận đơn và yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào 04 giờ 30 phút chiều ngày thứ sáu thì Chánh
án Tòa án phải phân công Thẩm phán để xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đảm bảo đúng thời hạn 48 giờ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Trong
thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà một trong các bên đương sự có yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ án có được xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không?
Khoản 1 Điều 111
của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định:
“Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ
luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn
tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể
khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án”.
Khoản 4 Điều 215
của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định:
“Trong thời gian tạm đình chỉ giải
quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án vẫn phải có trách nhiệm về việc giải quyết vụ án.
Sau khi có quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án quy định tại khoản 1 Điều 214 của Bộ luật này, Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm khắc phục trong
thời gian ngắn nhất những lý do dẫn tới vụ án bị tạm đình chỉ để kịp thời đưa
vụ án ra giải quyết”.
Việc tạm đình chỉ là tạm ngừng giải quyết
vụ án trong một thời gian nhất định; trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ
án, nếu một trong các bên đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì vẫn là “trong quá trình giải quyết vụ án” theo quy định tại Điều 111 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
4. Người bị xâm
phạm về danh dự, uy tín do hành vi của Chủ tịch UBND huyện gây ra khi thi hành
công vụ khởi kiện yêu cầu Chủ tịch UBND huyện bồi thường tổn thất tinh thần do
danh dự, uy tín của người đó bị xâm phạm thì Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết
không?
Điều 598 của Bộ
luật Dân sự quy định: “Nhà
nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây
ra theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước thì người bị xâm phạm có quyền lựa chọn phương thức yêu cầu bồi thường là:
(1) Yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại bồi
thường hoặc (2) khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì trong thời hạn 3 năm kể từ ngày
nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, người yêu cầu bồi thường có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu bồi
thường trong các trường hợp sau đây: (1) Người yêu cầu bồi thường chưa yêu cầu
cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại giải quyết yêu
cầu bồi thường; (2) Người yêu cầu bồi thường rút yêu cầu bồi thường trước khi
cơ quan giải quyết bồi thường tiến hành xác minh thiệt hại và cơ quan giải
quyết bồi thường đã ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu bồi thường.
Như vậy, nếu người bị xâm phạm khởi kiện
trong thời hạn quy định và thuộc hai trường hợp nêu trên thì Tòa án phải thụ lý
và căn cứ vào các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để giải
quyết.
5. Trường
hợp hòa giải đoàn tụ không thành, theo quy định khoản 5 Điều 397 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án
ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận tình ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, xóa sổ thụ lý giải quyết việc dân
sự và thụ lý vụ án ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng thì tiền tạm ứng án phí
và lệ phí giải quyết việc dân sự đã nộp được giải quyết như thế nào?
Khoản 5 Điều 397
của Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định: “Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành
và các đương sự không thỏa thuận được về việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về
công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án
không phải thông báo về việc thụ lý vụ án, không phải phân công lại Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án được thực hiện theo thủ tục chung do Bộ luật
này quy định”.
Khoản 5 Điều 25
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Trường hợp đình chỉ việc dân sự và thụ lý vụ án để giải quyết theo quy
định tại khoản 5 Điều 397 của Bộ
luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải yêu cầu đương sự nộp tiền tạm ứng án phí dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung”.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, khi
giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định tư cách tố tụng của các đương sự, theo đó,
nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trường hợp đương sự phải nộp tiền tạm
ứng án phí thì được khấu trừ số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã
nộp; nếu chưa đủ thì phải nộp phần còn thiếu; trường hợp đương sự không phải
nộp tiền tạm ứng án phí thì số tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự đã
nộp sẽ được giải quyết khi Tòa án quyết định án phí.
6. Trong vụ án
có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, sau đó bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm
bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm thì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời có đương nhiên bị hủy không? Trường hợp Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không bị hủy thì khi thụ lý lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giải
quyết như thế nào?
Điều 112 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định
về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
như sau:
“1.
Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán xem xét, quyết định.
2. Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử xem xét, quyết định”.
Khoản 1 và khoản 3 Điều 138 của Bộ
luật này quy định:
“1.
Tòa án ra ngay quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ;
b) Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm
thi hành nghĩa vụ đối
với bên có yêu cầu;
c) Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy
định của Bộ luật dân sự;
d) Việc giải quyết vụ án được đình
chỉ theo quy định của Bộ luật này;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không đúng theo quy định của Bộ luật này;
e) Căn cứ của việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không còn;
g) Vụ việc đã được giải quyết bằng
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
h) Các trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện theo quy định của Bộ luật này.
…
3. Thủ tục ra quyết định hủy bỏ
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Điều
133 của Bộ luật này. Trường hợp đã có bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm
phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phân công giải quyết”.
Căn cứ các quy định nên trên thì việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thể hiện ở một quyết định của Tòa án hoặc
ghi nhận trong bản án và được thực hiện theo trình tự, thủ tục riêng biệt; quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và không bị
kháng cáo, kháng nghị. Do đó, việc bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy thì quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đương nhiên bị hủy.
Trường hợp bản án bị hủy, giao hồ sơ cho
Tòa án cấp có thẩm quyền giải quyết lại vụ án thì việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Chương VIII, từ Điều 111 đến Điều 142 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
7. Trường
hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú
của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án nào có thẩm
quyền giải quyết?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân
và gia đình.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá
nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.
Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm
dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh
chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên căn
cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền
giải quyết.
8. Trường
hợp con riêng và bố dượng, mẹ kế không sống chung, nhưng vẫn đi lại thăm nom và
chi trả tiền để người khác nuôi dưỡng, chăm sóc người kia (ví dụ: trả chi phí
nuôi dưỡng, chăm sóc cho trại trẻ mồ côi, trại dưỡng lão) thì có được coi là có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con để được hưởng thừa kế di
sản của nhau theo quy định tại Điều 654 của Bộ luật Dân sự hay không?
Điều 654 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau và còn được chia thừa kế theo quy định tại Điều 652 và
Điều 653 của Bộ luật này”.
Việc xác định có quan hệ nuôi dưỡng, chăm
sóc nhau trên thực tế như cha con, mẹ con thì cần căn cứ vào các quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình về quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con (Điều 69, 70,
71, 72), trong đó, phải đánh giá một cách toàn diện các yếu tố như: bố dượng, mẹ
kế hàng tháng có trả tiền nuôi dưỡng, chăm sóc, chăm lo đến việc học tập, giáo
dục con, thương yêu con... hoặc nếu bố dượng, mẹ kế không đủ điều kiện sinh
sống ở mức độ trung bình ở địa phương thì con riêng đã chu cấp tiền nuôi dưỡng,
chăm sóc hàng tháng... Đồng thời, mức độ quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau trên
thực tế như cha con, mẹ con phải đảm bảo được cuộc sống của họ.
Do vậy, căn cứ quy định nêu trên thì con
riêng, bố dượng, mẹ kế chỉ cần có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế
như cha, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau, không bắt buộc những người này
phải sống chung.
IV. Về kinh doanh,
thương mại
1. Tại công ty
TNHH hai thành viên, thành viên A mua lại toàn bộ phần vốn góp của thành viên
B, nhưng chưa thanh toán giá trị chuyển nhượng phần vốn góp theo thỏa thuận. Sau
đó A làm thủ tục thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chuyển đổi từ công
ty TNHH hai thành viên thành công ty TNHH một thành viên. Việc B khởi kiện yêu
cầu hủy hợp đồng trả lại phần vốn góp đã chuyển nhượng, trả lại tư cách thành
viên công ty và hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi là tranh
chấp dân sự hay tranh chấp kinh doanh thương mại? Tòa án nhân dân cấp nào có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm? Khi giải quyết vụ án Tòa án có xem
xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi đó không?
- Việc A mua lại toàn bộ phần vốn góp
của thành viên B đã xác lập hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa A và B. B khởi kiện
yêu cầu hủy hợp đồng trả lại phần vốn
góp đã chuyển nhượng, là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng vốn góp
giữa A và B. Trường hợp này lí do hủy bỏ Hợp đồng do A chậm thực hiện nghĩa vụ (Điều 424 của Bộ luật Dân sự 2015).
Tại thời điểm B khởi kiện thì B không
còn là thành viên của công ty (do A đã chuyển đổi từ Công ty TNHH hai thành viên
sang Công ty TNHH một thành viên). Tuy nhiên, đây là tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng vốn góp giữa A và B và tại thời điểm giao kết hợp đồng thì A và B đều là
thành viên của Công ty TNHH hai thành viên. Vì vậy, Toà án căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
20151 để xác định tranh
chấp này là tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 20152 thì Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp này theo thủ tục sơ thẩm.
- Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Khi giải quyết vụ việc
dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có
nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về
một vấn đề cụ thể
và được áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối
tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì
phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân
sự đó.
…”
Căn cứ khoản 2 Điều 34 của Bộ luật này,
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là quyết định cá biệt; trường hợp vụ án
kinh doanh thương mại có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem
xét trong cùng một vụ án. Do vậy, trong vụ án tranh chấp
yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, (theo đó Hợp đồng không có
hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã
thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp; các bên trả
lại cho nhau những gì đã nhận (Điều 427
của Bộ luật Dân sự năm 2015); đồng thời có yêu cầu hủy
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi thì Tòa án có thẩm quyền xem
xét hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới thay đổi nếu văn bản đó trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Tòa án
có nhiệm vụ giải quyết.
2. Ông A và bà
B là thành viên của Công ty TNHH hai thành viên thành lập năm 2016. Ông A góp
vốn bằng nhà xưởng, Công ty đã nhận nhà xưởng và sử dụng để sản xuất, kinh doanh
nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng
đất cho Công ty. Năm 2018, Ông A chuyển nhượng vốn góp cho bà C, nhưng không
cho bà B biết. Trường hợp bà B khởi kiện ông A thì Tòa án xác định việc góp vốn
của ông A vào Công ty đã hoàn thành chưa và bà C có là thành viên Công ty TNHH
hai thành viên không?
- Điều 36 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“1. Thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông
công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty
theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc
giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài
sản đó hoặc quyền sử
dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
…”
Căn cứ vào quy định nêu trên thì ông A
phải có nghĩa vụ làm thủ tục sang tên nhà xưởng cho Công ty TNHH hai thành viên
ngay từ khi góp vốn. Về pháp lý, thủ tục chuyển quyền chưa
được thực hiện, nhưng trên thực tế Công ty TNHH hai thành viên đã nhận và sử
dụng nhà xưởng do ông A góp vốn từ khi thành lập (năm 2016), được xác định vào
vốn Điều lệ của Công ty, được hạch toán là giá trị của Công ty trong báo cáo
tài chính hàng năm. Do đó, trong quá trình giải quyết Toà án phải căn cứ vào
quá trình hoạt động của Công ty, các tài liệu có liên quan (báo cáo tài chính
hàng năm, Giấy chứng nhận góp vốn...) để từ đó xác định việc góp vốn của ông A
đã hoàn thành.
Trong trường hợp ông A có Giấy chứng nhận
phần vốn góp theo quy định tại Điều 48
của Luật Doanh nghiệp năm 2014, có tên trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh với phần giá trị vốn góp tương ứng nhà xưởng đã
được định giá; có tên trong Sổ đăng ký thành viên theo quy định tại Điều 49 của Luật Doanh nghiệp năm 2014,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thành viên theo Điều 50, 51 của Luật Doanh nghiệp năm 2014,
nên mặc dù thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa được thực hiện, nhưng ông A đã là
thành viên trên thực tế của Công ty.
- Khoản 1 Điều 53 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“1.
Trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 52, khoản 5 và khoản 6 Điều 54 của
Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có
quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:
a) Phải chào bán phần vốn đó
cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty
với cùng điều kiện;
b) Chỉ được chuyển nhượng với cùng
điều kiện chào bán đối với các thành viên còn lại
quy định tại điểm a khoản này cho người không phải là thành viên nếu các thành
viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày chào bán.”
Căn cứ quy định nêu trên thì việc ông
A tự ý chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho bà C mà
không chào bán phần vốn góp cho bà B (bà B không biết) là không đúng quy định
của pháp luật nên Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông A và bà C bị vô hiệu do vi
phạm điều cấm của luật (Điều 123 của Bộ
luật Dân sự năm 2015), do đó các bên phải hoàn trả lại
cho nhau những gì đã nhận (Điều 131 của
Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo đó, bà C phải trả lại phần vốn góp đã nhận chuyển nhượng từ ông A; bà C không trở thành thành viên Công ty.
3. Thành viên
Công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần khởi kiện Giám đốc Công ty TNHH hoặc
Giám đốc Công ty cổ phần vì cho rằng Giám đốc không thực hiện đúng nghĩa vụ, gây
thiệt hại đến lợi ích của thành viên hoặc công ty TNHH; cổ đông hoặc Công ty cổ
phần. Khi phát sinh tranh chấp, Tòa án sẽ căn cứ quy định pháp luật nào để thụ
lý, giải quyết.
- Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như sau:
“…
4. Tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia,
tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”
- Điều 72 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về khởi kiện người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn
như sau:
“1. Thành viên công ty tự mình,
hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật và cán bộ quản lý khác vi phạm nghĩa vụ của người quản lý trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm quy định tại Điều 71
của Luật này;
b) Không thực hiện đúng và đầy đủ hoặc thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc Điều
lệ công ty về các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của Hội đồng thành viên;
c) Trường hợp khác theo quy định
của pháp luật và Điều lệ công ty.
2. Trình tự, thủ tục khởi kiện
thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”.
- Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về khởi kiện người quản lý trong công ty cổ phần như sau:
“1. Cổ đông, nhóm cổ đông
sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi
kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm
nghĩa vụ người quản lý công ty theo quy định tại Điều 160 của Luật này;
b) Không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của Hội đồng quản trị;
c) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ công ty hoặc nghị quyết của Đại
hội đồng cổ đông;
d) Sử dụng thông tin, bí quyết, cơ
hội kinh doanh của công ty để tư lợi riêng hoặc
phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
đ) Sử dụng địa vị, chức vụ và sử
dụng tài sản của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá
nhân khác;
e) Các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật và Điều lệ công ty.
2. Trình tự, thủ tục khởi kiện
thực hiện tương ứng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty, trừ
trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện.”
Theo quy định nêu trên thì khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định trường hợp tranh chấp giữa
thành viên công ty khởi kiện Giám đốc công ty nên trường hợp này Tòa án phải căn cứ quy định tại khoản
5 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự (các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại...)
và quy định tương ứng của Luật Doanh nghiệp để thụ lý, giải quyết.
Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn, trường
hợp Giám đốc gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên hoặc công ty thì Tòa án
căn cứ khoản 5 Điều 30 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 và Điều 72 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đồng thời lưu ý các quy định tại Điều 71 của Luật Doanh nghiệp 2014, nghị
quyết của Hội đồng thành viên và Điều lệ của công ty để thụ lý, giải quyết vụ
án.
Đối với Công ty cổ phần, trường hợp thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc gây thiệt hại đến lợi ích
của cổ đông hoặc công ty thì khi phát sinh tranh chấp Toà án căn cứ khoản 5 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 và Điều
161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 đồng thời lưu ý các quy định tại Điều 160 của Luật Doanh nghiệp năm 2014,
nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông và Điều lệ công ty để thụ lý, giải quyết vụ
án.
Căn cứ theo Điều 72, Điều 161 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì thành viên công ty TNHH hoặc cổ đông Công ty cổ phần có quyền nhân
danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với người quản lý. Trong trường
hợp này nếu việc nhân danh Công ty của thành viên Công ty TNHH hoặc cổ đông
Công ty cổ phần là hợp pháp (được Công ty ủy quyền) thì Toà án phải căn cứ khoản 4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý, giải quyết vụ án.
4. Hợp đồng tín
dụng giữa Ngân hàng A với Công ty B được giao kết và thực hiện giải ngân tiền vay
tại chi nhánh M của Ngân hàng. Khi ký kết hợp đồng, các bên không có thỏa thuận
lựa chọn Tòa án nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh chấp. Đến hạn trả
nợ, Công ty B không trả được nợ nên Ngân hàng A đã khởi kiện vụ án tranh chấp hợp
đồng tín dụng với Công ty B tại Tòa án nơi có chi nhánh M của Ngân hàng. Trường
hợp này, Tòa án nơi có chi nhánh của Ngân hàng có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp hay không?
Về nguyên tắc chung, thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Đối với tranh chấp thuộc một trong các trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 40 của Bộ luật này thì nguyên đơn
có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp.
Trường hợp này, do các đương sự không
có thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng nên không áp dụng điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để xác định thẩm quyền của Tòa án.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 thì: “Tòa
án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân
hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.
Điểm g khoản 1
Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Nếu tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.
Căn cứ các quy định nêu trên, Tòa án nơi
bị đơn có trụ sở và Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện đều có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trường hợp nguyên đơn lựa chọn Tòa án
nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết tranh chấp thì tôn trọng và thực hiện
theo quyền định đoạt của nguyên đơn.
Hợp đồng tín dụng này có hoạt động
giải ngân tiền vay tại chi nhánh M của Ngân hàng nên nơi có chi nhánh M của
Ngân hàng được xác định là nơi thực hiện hợp đồng. Do vậy, Tòa án nơi có chi
nhánh M của Ngân hàng có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp nêu trên.
5. Tranh
chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm về việc đóng phí bảo
hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ đã ký kết là tranh chấp dân sự hay
tranh chấp kinh doanh, thương mại?
Pháp luật quy định chủ thể ký Hợp
đồng bảo hiểm phi nhân thọ gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm.
Chủ thể ký là cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong trường hợp các bên ký Hợp đồng đều
là thương nhân (tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động thương mại) có đăng ký kinh
doanh, hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, nếu phát sinh tranh chấp, đó là tranh
chấp kinh doanh, thương mại; Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Trong trường hợp một bên ký Hợp đồng không
phải là thương nhân, Hợp đồng này là Hợp đồng dân sự và nếu phát sinh tranh chấp
thì đó là tranh chấp Hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Điều 6 của Luật
Thương mại năm 2005 quy định
thương nhân như sau: “1. Thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. 2. Thương nhân có quyền hoạt
động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và
theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
…”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 thì khái niệm hoạt động thương mại được quy định: “Hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích
lợi nhuận", trong trường hợp
tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm về việc đóng phí
bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi
nhân thọ thì: doanh nghiệp bảo hiểm đã có đăng ký kinh doanh, hai bên ký kết
hợp đồng đều vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, nếu người mua bảo hiểm có đăng ký
kinh doanh thì tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nếu người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp được
xác định là tranh chấp về dân sự.
6. Trường
hợp bên mua bảo hiểm có ý cung cấp thông tin không trung thực để giao kết hợp
đồng bảo hiểm và hưởng chế độ bảo hiểm thì bị coi là trường hợp hợp đồng bảo
hiểm vô hiệu do có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm theo điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo
hiểm hay là trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo điểm
a khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm?
Khoản 2 Điều 19
của Luật Kinh doanh bảo hiểm quy
định "2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện
hợp đồng bảo hiểm
và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực
hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có
một trong những hành vi sau đây:
a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường".
Như vậy, trường hợp bên mua bảo hiểm cố
ý cung cấp thông tin không trung thực để giao kết hợp đồng bảo hiểm và hưởng chế
độ bảo hiểm thì doanh nghiệm bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến
thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của việc đình
chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm được thực hiện theo các thỏa thuận của hợp đồng
phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, theo điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo
hiểm thì một trong các trường
hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu là "Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp
bảo hiểm có hành
vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm". Đồng thời, Điều 127 của Bộ
luật Dân sự quy định: "Lừa
dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của
một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó".
Như vậy, hành vi cố ý cung cấp thông tin không trung thực của bên
mua bảo hiểm có thể bị coi là hành vi lừa dối dẫn đến hợp đồng bảo hiểm vô hiệu.
Do đó, khi thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh bảo hiểm do có hành vi lừa dối Tòa án cần
lưu ý: Trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương chấm
dứt hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm có hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được
bồi thường thì Tòa án cần căn cứ tài liệu, chứng cứ, quá trình tranh tụng
(trong đó chú ý thỏa thuận của các bên tại hợp đồng bảo hiểm) để xác định nếu
doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng đúng pháp luật thì không tuyên hợp đồng bảo hiểm vô hiệu theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật Kinh
doanh bảo hiểm mà tuyên đình
chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 422 (Chấm dứt hợp đồng)
và Điều 428 của Bộ luật Dân sự (Đơn phương chấm dứt hợp đồng).
7. Yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án mà nội dung hòa giải liên
quan đến tranh chấp về kinh doanh, thương mại là yêu cầu về dân sự hay yêu cầu
về kinh doanh, thương mại? Nếu là yêu cầu về kinh doanh, thương mại thì Tòa án
áp dụng Điều luật nào để thụ lý giải quyết vì hiện nay theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án là yêu cầu dân sự (khoản 7 Điều 27 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Nội dung hòa giải liên quan đến việc giải
quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì phải xác định yêu cầu công nhận
kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
Theo quy định tại Điều 31 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì:
“Điều 31. Những yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của
Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp
luật về doanh nghiệp.
2. Yêu cầu liên quan đến việc
Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật
về Trọng tài thương mại.
3. Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu
biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải
Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển
để bảo đảm giải quyết vụ án.
4. Yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của
Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành
tại Việt Nam.
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của
Trọng tài nước ngoài.
6. Các yêu cầu khác về kinh doanh,
thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, trong trường hợp này, Tòa án
áp dụng khoản 6 Điều 31 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 để thụ lý
giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
8. Từ ngày
01-01-2017 (ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành), thời điểm tính
thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm theo quy
định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 (có hiệu
lực từ ngày 01-7-2011) được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự hay Luật
Kinh doanh bảo hiểm?
Theo quy định tại Điều 184 và Điều 185 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 thì thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực
hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Điều 429 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 (có hiệu
lực từ ngày 01-01-2017) quy định: "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 03 năm, kể
từ ngày người có quyền yêu cầu
biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Theo quy định tại Điều 30 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000,
sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì “Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp”.
Điều 336 của Bộ
luật Hàng hải Việt Nam thì “Thời hiệu khởi kiện
liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là
02 năm kể từ ngày phát sinh tranh
chấp”.
Như vậy, Luật Kinh doanh bảo hiểm và Bộ
luật Dân sự năm 2015 có quy định khác nhau về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi
kiện. Vì trên thực tế hai thời điểm này không đồng nhất: khi người yêu cầu biết
sự kiện pháp lý xảy ra xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ nhưng họ
chưa thực hiện quyền khởi kiện ngay mà sẽ thực hiện thỏa thuận, hòa giải, thống
nhất cách giải quyết trong một thời gian nhất định. Khi không thống nhất được
cách giải quyết thì mới phát sinh tranh chấp.
Trong trường hợp này, Tòa án phải ưu tiên
áp dụng pháp luật chuyên ngành, tức là Luật Kinh doanh bảo hiểm để xác định thời
hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm kể từ thời điểm phát sinh
tranh chấp, thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng
hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Quy định này không
trái với các nguyên tắc cơ bản quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (nguyên tắc bình đẳng; tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; thiện chí,
trung thực; không xâm phạm đến lợi ích chung và của người thứ ba; tự chịu trách
nhiệm).
Ngoài ra, còn có các quy định về thời
hiệu khởi kiện, thời hiện yêu cầu trong các luật chuyên ngành khác thì cũng áp dụng
quy định của các luật chuyên ngành này mà không áp dụng quy định của Bộ luật Dân
sự khi xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Ví dụ: Bộ luật Hàng hải
Việt Nam (có hiệu lực kể từ ngày 01.7.2017) có quy định về thời hiệu khởi kiện (Thời
hiệu khởi kiện về hư hỏng, mất mát hàng hóa; thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp
đồng vận chuyển theo chuyến; thời hiệu khởi kiện về
vận chuyển hành khách và hành lý; thời hiệu khởi kiện
liên quan đến hợp đồng thuê tàu; thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng
đại lý tàu biển, thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải...) thì áp dụng quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam khi xác định thời
hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan.
9. Hợp đồng tín
dụng mà bên vay là Công ty TNHH hai thành viên trở lên, do người đại diện theo
pháp luật ký hợp đồng nhưng hồ sơ vay không có biên bản họp thành viên của Hội
đồng thành viên. Trường hợp có tranh chấp xảy ra thì bên vay được xác định là
Công ty hay cá nhân người đại diện? Công ty sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì?
Điểm d khoản 2
Điều 56 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định Hội đồng thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên có quyền và nghĩa vụ: “Quyết định giải pháp phát triển thị
trường, tiếp thị và chuyển giao công nghệ; thông
qua hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính tại thời điểm công bố
gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty”.
Điều 143 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 về hậu
quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện quy định:
“1.
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại
diện đối với phần giao
dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ
một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đồng ý;
b) Người được đại diện biết mà không
phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có
lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể
biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá
phạm vi đại diện.
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại
diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực
hiện vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện
phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ
trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
…”
Căn cứ các quy định nêu trên, về nguyên
tắc hợp đồng tín dụng có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi
trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty giữa tổ chức
tín dụng với Công ty TNHH hai thành viên trở lên phải được Hội đồng thành viên Công ty thông qua. Người đại diện theo pháp luật của Công
ty giao kết hợp đồng tín dụng có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm
công bố gần nhất của công ty mà không được Hội đồng thành viên
thông qua thì được xác định là giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực
hiện vượt quá phạm vi đại diện. Theo đó:
(1) Trường hợp hợp đồng tín dụng do người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại điểm a, b, c
khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của Công ty (người được đại diện);
khi đó bên vay được xác định là Công ty. Trường hợp hồ sơ
vay không có biên bản họp thành viên của Hội đồng thành viên về nội dung thông
qua hợp đồng vay, nhưng có tài liệu, chứng cứ thể hiện khoản tiền vay được
chuyển vào tài khoản của Công ty, được Công ty sử dụng, được hạch toán trên sổ
sách, giấy tờ của Công ty thì được coi là Công ty đồng ý với hợp đồng tín dụng
do người đại diện của Công ty xác lập, thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
(2) Trường hợp hợp đồng tín dụng do người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại điểm a, b, c
khoản 1 Điều 143 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và có tài liệu, chứng cứ cho thấy người đại diện theo pháp luật sử dụng
số tiền vay được cho mục đích cá nhân thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của Công ty. Căn cứ khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này, bên vay được xác định là
cá nhân người đại diện đã ký hợp đồng tín dụng.
Việc xác định tư cách tham gia tố
tụng của đương sự căn cứ vào Điều 68
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tổ chức tín dụng
khởi kiện Công ty thì Công ty là bị đơn. Tổ chức tín dụng
khởi kiện cá nhân người đại diện ký hợp đồng tín dụng thì cá nhân đó là bị đơn;
Công ty tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
10. Trường hợp
hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể đã đăng ký và được cấp nhãn hiệu tập thể theo
quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Khi hộ gia đình, tổ hợp tác khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu tập thể đó hoặc bị khởi kiện thì việc
xác định tư cách tham gia tố tụng như thế nào?
Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Dân sự năm 20153 thì hộ gia đình, tổ hợp tác không có tư
cách pháp nhân sẽ không thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án
với tư cách độc lập là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan. Trường hợp này các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp
tác đó sẽ trực tiếp tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Việc
xác định tư cách tham gia tố tụng của các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác được thực hiện như sau:
- Trường hợp tất cả thành viên hộ gia
đình, tổ hợp tác tự mình khởi kiện vụ án thì phải xác định tất cả các thành viên
trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng nguyên đơn trong vụ
án đó.
- Trường hợp tất cả thành viên hộ gia
đình, tổ hợp tác đều đồng ý khởi kiện vụ án và thống nhất ủy quyền bằng văn bản
cho một thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc
người khác làm người đại diện khởi kiện vụ án tại Tòa án thì phải xác định các
thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng nguyên đơn trong vụ án và xác
định người đại diện hợp pháp của các đồng nguyên đơn là người được các thành
viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác ủy
quyền.
- Trường hợp một hoặc một số thành viên
của hộ gia đình, tổ hợp tác khởi kiện mà không được các thành viên còn lại ủy
quyền bằng văn bản làm người đại diện khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án cần hỏi những
thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác xem họ có đồng ý khởi kiện vụ
án hay không. Nếu các thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác đồng ý
khởi kiện vụ án thì xác định họ là nguyên đơn như trường hợp 1 và 2 nêu trên. Nếu
các thành viên còn lại trong hộ gia đình, tổ hợp tác không đồng ý khởi kiện vụ
án thì phải xác định nguyên đơn là các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác
khởi kiện; những thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác không khởi kiện được
xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án đó.
Trường hợp hộ gia đình, Tổ hợp tác là
người bị khởi kiện thì việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các thành viên
trong hộ gia đình, tổ hợp tác được thực hiện như sau:
- Trường hợp tất cả các thành viên trong
Hộ gia đình, Tổ hợp tác đều bị kiện thì phải xác định tất cả các thành viên
trong hộ gia đình, tổ hợp tác là đồng bị đơn trong vụ án đó.
- Trường hợp chỉ có một hoặc một số thành
viên của hộ gia đình, tổ hợp tác bị kiện thì phải xác định các thành viên bị
kiện là bị đơn; các thành viên còn lại trong hộ gia đình,
Tổ hợp tác không bị kiện được xác định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án đó.
Trên đây là kết quả giải đáp trực
tuyến một số vướng mắc của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân
dân tối cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Đồng chí Chánh án TANDTC (để b/c);
- Các đồng chí Phó Chánh án TANDTC;
- Các đồng chí Thẩm phán TANDTC;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
|
KT. CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
|
1 Khoản
4 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng
giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty”.
2
Điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và
32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4
Điều 35 của Bộ luật này;
…”
3
Điều 101. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức khác không có tư cách pháp nhân
1. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham
gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia
quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân
sự không được các thành viên khác ủy quyền làm
người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của
quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.