Kính
gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử,
Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc
khi giải quyết các vụ án hình sự, dân sự. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật,
Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
I. VỀ HÌNH SỰ
1. Trong vụ án
hình sự có đồng phạm bị Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“phạm tội có tính chất côn đồ” hoặc tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có
tính chất côn đồ” theo quy định của Bộ luật Hình sự, đối với đồng phạm khác là
người phạm tội có vai trò không đáng kể, không trực tiếp tham gia thực hiện
hành vi phạm tội thì khi xét xử có được cho hưởng án treo không?
Theo hướng dẫn tại khoản
1 Điều 3 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật
Hình sự về án treo thì người phạm tội là người côn đồ thuộc trường hợp
không cho hưởng án treo. Như vậy, trường hợp người phạm tội
bị Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội có tính chất
côn đồ” hoặc tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội có tính chất côn đồ” theo
quy định của Bộ luật Hình sự thì thuộc trường hợp không cho hưởng án treo.
Tuy nhiên, đối với vụ án hình sự có đồng
phạm, khi xét xử Tòa án phải xem xét, đánh giá tính chất, vai trò, hành vi phạm
tội của từng đồng phạm để xác định có thuộc trường hợp “phạm tội có tính chất
côn đồ” hay không.
2. Do có mâu
thuẫn nên P, L đã đánh nhau với Y. Y đã dùng lưỡi dao lam gây thương tích cho P
14%, L 44%. Vậy Y bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại hai điểm c, d khoản 3 hay chỉ điểm c
hoặc điểm d khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự?
Trường hợp này, Y bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, Y còn gây thương tích cho P 14% nên khi lượng hình cần xem xét cả hậu
quả này.
3. Trường hợp
bị cáo phạm tội lúc chưa đủ 70 tuổi. Tại thời điểm xét xử, bị cáo đã trên 70 tuổi
thì có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là
người đủ 70 tuổi trở lên” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự hay không?
Quy định tại điểm o khoản
1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự không phân biệt người phạm tội là người đã đủ
70 tuổi trở lên tại thời điểm phạm tội hay trong quá trình
truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, trường hợp khi phạm tội bị cáo chưa đủ 70
tuổi nhưng trong quá trình xét xử họ đã đủ 70 tuổi trở lên thì Tòa án vẫn áp dụng
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” đối với họ.
4. Người sử dụng
phương tiện giao thông của người khác gây tai nạn thì thiệt hại đối với tài sản
này có bị coi là gây “thiệt hại cho người khác” quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự không?
Thiệt hại cho người khác quy định tại
khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự được hiểu là thiệt hại
không bao gồm thiệt hại của người gây tai nạn và phương tiện mà người gây tai nạn
sử dụng. Do đó, trường hợp nêu trên không coi thiệt hại từ chính phương tiện mà
họ điều khiển là “thiệt hại cho người khác” dù đó không phải là tài sản của họ.
5. Thế nào được
coi là đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong trường hợp phải thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án khi xét tha tù trước
thời hạn có điều kiện?
Khoản 1 Điều 591 của
Bộ luật Dân sự quy định: “Thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm bao gồm: ...Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng...”.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng là
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án thì chỉ được coi là đã thực hiện xong
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại để xét tha tù trước thời hạn có điều kiện nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
- Đã thực hiện xong hoàn toàn nghĩa vụ
cấp dưỡng theo bản án, quyết định của Tòa án;
- Đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 01
lần và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là đã hoàn thành việc cấp dưỡng;
- Đã thực hiện được một phần nghĩa vụ
cấp dưỡng và có thỏa thuận, xác nhận của đại diện hợp pháp của người được nhận
cấp dưỡng về việc tiếp tục thực hiện hoặc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
theo bản án, quyết định của Tòa án và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận;
- Chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
nhưng có thỏa thuận, xác nhận của người đại diện hợp pháp của người được nhận cấp
dưỡng về việc không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bản án, quyết định của
Tòa án và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
6. Người nghiện
ma túy cho người nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm hoặc có hành vi khác để
chứa chấp người nghiện ma túy cùng sử dụng trái phép chất ma túy thì có bị xử
lý hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự hay
không?
Theo hướng dẫn tại điểm
b tiết 7.3 mục 7 phần II Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24-12-2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm
1999 thì: "b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử
dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc
quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người nào có đầy
đủ các yếu tố cấu thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử
dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 của Bộ luật
Hình sự”.
Theo hướng dẫn tại Điều
3 Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14-11-2015
của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP
ngày 24-12-2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương
XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm
1999 thì: “...Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3
Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT”. Cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn
thay thế nội dung này của Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP .
Theo quy định tại khoản
1 Điều 256 của Bộ luật Hình sự thì: “Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm
hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc
sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255
của Bộ luật này...”. Quy định này không loại trừ việc
xử lý hình sự đối với người nghiện ma túy có hành vi chứa chấp việc sử dụng
trái phép chất ma túy. Cho nên, đối với trường hợp người nghiện ma túy cho người
nghiện ma túy khác thuê, mượn địa điểm để cùng sử dụng ma túy nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự thì bị
xử lý về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội
phạm.
7. A là người
đi mua ma túy về (B không biết A mua ma túy). Sau đó A và B đến nhà C chơi. Khi
đến nhà C, A mới bỏ ma túy ra và bảo “ai chơi thì chơi”. Lúc này cả 03 người
cùng sử dụng ma túy, sau đó D đến nhà C và thấy ma túy trên bàn nên đã tự lấy sử
dụng. A, B, C và D đều là người nghiện ma túy. Vậy A có bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hay không?
Theo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày
30-6-2020 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp nghiệp vụ thì: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được
hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người,
phương tiện; cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ... để thực hiện việc
sử dụng trái phép chất ma túy”.
Trong trường hợp này, A là người cung
cấp ma túy cho B, C, D để họ thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là
một trong các hành vi “tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy”. Do đó, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 255 của
Bộ luật Hình sự.
II. VỀ TỐ TỤNG
HÌNH SỰ, THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1. Trường hợp
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp vi phạm về thời hạn ra quyết định truy tố bị
can và thời hạn giao cáo trạng theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 240 của Bộ luật Tố tụng hình sự
hoặc có dấu hiệu sửa chữa ngày ghi biên bản giao nhận hồ
sơ vụ án từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát để phù hợp với thời hạn luật định.
Vậy Tòa án có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không?
Trường hợp trên được xác định là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra
bổ sung nếu vi phạm này xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng theo quy định tại Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự
và hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
ngày 22-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp nếu Tòa án không trả hồ sơ
thì khi xét xử và ban hành bản án, Tòa án phải đánh giá, phân tích tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên theo
quy định tại điểm e khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Do thời hạn
phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam nên Hội đồng xét xử
đã tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa. Trường hợp này, Tòa án có
phải ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị kết án không?
Trường hợp trên, Tòa án không ra quyết
định thi hành án phạt tù mà ra quyết định trả tự do cho bị
cáo tại phiên tòa. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án gửi kèm theo bản án
quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa cho cơ quan thi hành án hình sự
theo quy định.
3. Thẩm quyền
tổng hợp hình phạt của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được thực hiện như thế nào?
Thẩm quyền tổng hợp hình phạt của Tòa
án theo quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự được
thực hiện như sau:
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật
của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt;
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật
là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh; cùng cấp khu vực trong cùng một quân
khu hoặc khác quân khu; cùng sơ thẩm cấp tỉnh, cùng cấp quân khu, cùng phúc thẩm
ở Tòa án nhân dân cấp cao), thì Chánh án Tòa án ra bản án sau cùng (về mặt thời
gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt.
- Các bản án đã có hiệu lực pháp luật
là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn đã có bản án
có hiệu lực pháp luật ra quyết định tổng hợp hình phạt,
không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.
- Trường hợp trong số các bản án đã
có hiệu lực pháp luật, có bản án của Tòa án nhân dân, có bản án của Tòa án quân
sự, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện tương tự như trường hợp các bản
án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp và trường
hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án
không cùng cấp như trên.
III. VỀ DÂN SỰ
1. Nhà đất
thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông A, bà B. Ông A làm giả chữ ký của bà B để chuyển
nhượng nhà đất cho C (việc giả chữ ký đã được chứng minh thông qua việc giám định).
Sau khi chuyển nhượng, ông A, bà B vẫn chiếm hữu, sử dụng nhà đất. Sau đó, C
dùng tài sản này để thế chấp khoản vay tại Ngân hàng. Vậy, giao dịch thế chấp tại
Ngân hàng có bị vô hiệu không? Nếu vô hiệu thì có trái với mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC ngày
03-4-2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông
báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự, tố tụng
hành chính (sau đây gọi tắt là Công văn số 64/TANDTC-PC) không?
Điều 123 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự có mục
đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của luật là những quy định
của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng
xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.
Khoản 2 Điều 133 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp giao
dịch vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho
người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.
Trường hợp này, việc ông A giả chữ ký
của bà B để chuyển nhượng nhà đất cho C mà không được bà B
đồng ý, nên căn cứ Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
giao dịch chuyển nhượng nhà đất trên là vô hiệu.
Sau khi nhận chuyển nhượng, C dùng tài sản này thế chấp khoản vay tại Ngân hàng nhưng khi ký hợp đồng
thế chấp tài sản, Ngân hàng không thẩm định, xác minh nên không biết ông A, bà
B vẫn quản lý, sử dụng nhà đất hoặc đã thẩm định nhưng không có tài liệu, chứng
cứ chứng minh ông A, bà B biết việc thế chấp tài sản này. Trong trường hợp này,
bên nhận thế chấp tài sản (Ngân hàng) không phải là người thứ ba ngay tình theo
quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015
và mục 1 Phần II của Công văn số 64/TANDTC-PC, do vậy, hợp
đồng thế chấp tài sản cũng vô hiệu.
2. Ông A vay
của Ngân hàng 01 tỷ đồng, thời hạn vay 01 tháng kể từ ngày 02-01-2017, lãi suất
2% tháng. Sau thời hạn 01 tháng ông A không trả được nợ gốc và lãi. Trong thời
hạn 03 năm kể từ ngày 03-02-2017 đến ngày 03-02-2020, Ngân hàng không khởi kiện
yêu cầu ông A trả nợ. Đến nay, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả nợ thì ông
A có được quyền yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ
thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không?
Theo quy định Điều
429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu
biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Căn cứ quy định nêu trên thì thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã hết. Tuy
nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm
2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp "yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác". Do đó, Ngân hàng có thể
khởi kiện ông A yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc) và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ
án mà không phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi
Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không.
3. Đối với
các loại hợp đồng dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài
sản của các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì có
áp dụng thời hiệu khởi kiện như quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 không?
Theo quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu
khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
...2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất
theo quy định của Luật đất đai....”
Theo quy định tại Điều
429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ
ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm”.
Theo quy định tại khoản
2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tòa án chỉ áp dụng quy
định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều
kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải
quyết vụ việc”.
Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền
sở hữu, đòi lại tài sản thì Tòa án không áp dụng thời hiệu không phụ thuộc vào
việc một bên hoặc các bên có hay không có yêu cầu áp dụng thời hiệu. Đối với
các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản,
hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng
tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều
429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 184 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
4. Theo Công
văn số 64/TANDTC-PC thì trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu
nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền
sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng
quy định của pháp luật, căn cứ Điều 133 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
giao dịch thế chấp đó không vô hiệu. Như vậy, hướng dẫn này có áp dụng đối với
các giao dịch thế chấp phát sinh trước ngày 01-01-2017 mà nay có tranh chấp
không?
Khoản 1 Điều 156 của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được
sửa đổi, bổ sung theo Luật số 63/2020/QH14 năm 2020 quy định: Văn bản quy phạm
pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp
luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu
lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.
Như vậy, về nguyên tắc chung, hành vi
xảy ra ở thời điểm nào thì áp dụng pháp luật ở thời điểm
đó. Khi văn bản quy phạm pháp luật cụ thể có quy định khác, như quy định có hiệu
lực trở về trước (hồi tố) thì mới được áp dụng khác với nguyên tắc chung nêu
trên.
Căn cứ quy định nêu trên, hướng dẫn tại
phần 1 mục I của Công văn số 64/TANDTC-PC được áp dụng đối
với các giao dịch dân sự được thực hiện kể từ ngày 01-01-2017 mà không áp dụng
đối với các giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01-01-2017.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN
SỰ
1. Ông A phải
thi hành án trả cho ông C số tiền là 500 triệu đồng, ông A không tự nguyện thi
hành án. Cơ quan thi hành án xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử dụng
156m2 đất cùng tài sản gắn liền trên đất, nhưng chưa làm các thủ tục thông báo
theo quy định tại khoản
1 Điều 74 của Luật Thi hành án dân sự, chưa cưỡng
chế thi hành án đối với ông A. Ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền
sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ông A trong khối tài sản chung. Sau
khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện H ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án với lý do ông C chưa đủ kiều kiện khởi kiện. Vậy, quyết định đình chỉ này của
Tòa án nhân dân huyện H có đúng không?
Theo quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 7 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân
sự có quyền: "Khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành
án".
Khoản 1 Điều 74 của
Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp chưa
xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải
thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải
thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với
tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc
yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy
định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án
giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu
cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành
án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự...”
Theo quy định tại khoản
12 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tranh chấp liên quan đến
tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân
sự" là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ
quan thi hành án dân sự mới chỉ xác định vợ chồng ông A có tài sản là quyền sử
dụng đất tại thửa đất diện tích 156m2 cùng tài sản gắn liền trên đất
mà chưa làm các thủ tục thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều
74 của Luật Thi hành án dân sự, ông C (người được thi
hành án) đã khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần
quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung là chưa đủ
điều kiện khởi kiện. Do đó, Tòa án nhân huyện H ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là có căn cứ.
2. Theo Công
văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền
giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải
quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự
vì lý do chưa có điều luật áp dụng”. Vậy, Tòa án có được thụ lý giải quyết các
trường hợp này không?
Khoản 8 Điều 6 của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy
định giấy tờ có giá là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 của
Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Mục 1 Phần
I Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao giải
đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm
2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”. Theo đó, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính, không phải là “bằng chứng
xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn số
141/TANDTC-KHXX xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ
có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015 và các pháp luật khác đang có hiệu
lực.
Điều 164 của Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, nếu có yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chấm dứt
hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì
Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều
26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
3. Trong quá
trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng
mua bán tài sản, thế chấp tài sản... Tòa án có phải đưa tổ chức hành nghề công
chứng hợp đồng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan không?
Theo quy định tại điểm
d và điểm g khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018 thì Công
chứng viên có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công
chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải
thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng và chịu trách nhiệm trước pháp luật
và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình.
Điều 38 của Luật Công
chứng sửa đổi năm 2018 quy định:
“1. Tổ
chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng
và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức
mình gây ra trong quá trình công chứng.
2. Công chứng viên, nhân viên hoặc
người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền
cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị
thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức
hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Khoản 4 Điều 68 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện,
nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ
nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp
nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Như vậy, căn cứ các quy định nêu
trên, tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét có đưa tổ chức
hành nghề công chứng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết tranh chấp hợp đồng có liên quan
đến nghĩa vụ giải thích của Công chứng viên theo quy định tại điểm
d khoản 2 Điều 17 của Luật Công chứng sửa đổi năm 2018, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng của tổ chức
hành nghề công chứng thì Tòa án xem xét đưa tổ chức hành nghề công chứng vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
4. Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) mua lại khoản nợ xấu của
tổ chức tín dụng, sau đó, VAMC ủy quyền lại cho tổ chức tín dụng khởi kiện,
tham gia tố tụng tại Tòa án để yêu cầu xử lý nợ xấu. Khi thụ lý, giải quyết thì
Tòa án có triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng cho cả VAMC và tổ chức tín
dụng không?
Khoản 1 Điều 138 của
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Cá nhân,
pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp
nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Khoản 4 Điều 85 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự là người
đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự”.
Khoản 2 Điều 86 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.
Theo quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 6 của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại
Tòa án nhân dân thì pháp nhân có quyền ủy quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác
khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp về
xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Trường hợp này, VAMC đã mua lại khoản
nợ xấu của tổ chức tín dụng, sau đó VAMC có văn bản ủy quyền cho tổ chức tín dụng
với nội dung tổ chức tín dụng được khởi kiện và tham gia tố tụng tại Tòa án để
giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thì tổ
chức tín dụng được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự.
Do vậy, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải triệu tập và tống
đạt văn bản tố tụng cho tổ chức tín dụng được ủy quyền, không phải triệu tập và
tống đạt các văn bản tố tụng cho VAMC.
5. Trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên đơn không nộp tiền chi phí định giá theo điểm đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự
thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Vậy,
trong trường hợp này nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án như trường hợp người
khởi kiện rút đơn khởi kiện hay không?
Theo quy định tại điểm
đ khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì:
“Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm
quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các
trường hợp sau đây:
...đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm
ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng
khác theo quy định của Bộ luật này...”
Khoản 1 Điều 218 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: “Khi có quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ
pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản
1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật...”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên
thì trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì lý do
“Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định
giá tài sản và chi phí
tố tụng khác” thì nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu Tòa giải quyết tiếp vụ án như
đối với trường hợp rút đơn khởi kiện.
6. Ông A
chuyển nhượng đất cho ông B với giá 02 tỉ đồng, ông B đã trả được cho ông A là
500 triệu đồng nhưng sau đó hai bên xảy ra tranh chấp, ông B yêu cầu tuyên bố hợp
đồng giữa ông với ông A vô hiệu. Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông A và ông B vô hiệu và các bên trả lại cho nhau những
gì đã nhận. Vậy, trong trường hợp này ông A có phải chịu án phí của số tiền 500
triệu đồng phải trả cho ông B không?
Theo quy định tại khoản
3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) thì:
"Đối với tranh chấp về hợp đồng
mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:
a) Trường hợp một bên yêu cầu công
nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và một bên yêu cầu
tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đều không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu thì bên yêu cầu công nhận hợp đồng phải chịu
án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch; nếu Tòa án tuyên bố công nhận hợp đồng thì bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch;
b) Trường hợp một bên yêu cầu công
nhận hợp đồng mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và một bên yêu cầu tuyên bố hợp đồng
mua bán tài sản, chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ngoài việc
chịu án phí không có giá ngạch được quy định tại điểm a, khoản 3 Điều này, người phải thực hiện
nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại phải chịu án phí như trường hợp vụ án dân sự có giá ngạch đối với giá trị tài sản phải thực hiện nghĩa vụ.”
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp
ông B yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, ông A
và ông B không có yêu cầu gì khác; nếu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì ông
A phải chịu án phí như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch.
Trường hợp ông B yêu cầu tuyên bố hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và có yêu cầu Tòa án giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu, thì ông A phải chịu án phí không
có giá ngạch và án phí theo giá ngạch của số tiền 500 triệu đồng phải trả cho
ông B.
7. Cụ D, cụ
E có hai người con là ông A, bà B. Ông A sinh sống cùng cụ D, cụ E trên diện
tích đất do các cụ tạo lập nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất
đai năm 1993, ông A đã kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân
dân huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khi đó cụ D, cụ E còn sống
không có ý kiến phản đối. Sau khi cụ D, cụ E chết, bà B khởi kiện yêu cầu chia
di sản thừa kế của hai cụ. Vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh?
Khoản 5 Điều 26 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định những tranh chấp dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp về thừa kế tài sản.
Khoản 1 Điều 35 của Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định: "1. Tòa án nhân
dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân
và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy
định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định
tại Điều 32 của Bộ luật này”.
Điều 34 của Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định:
"1. Khi giải quyết vụ việc
dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
2. Quyết định cá biệt quy định tại
khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp
dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự
có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ
việc dân sự đó.
3. Khi xem xét hủy quyết định quy
định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm
quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình
về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
4. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt
quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố
tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Khoản 4 Điều 32 của
Luật Tố tụng hành chính quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền giải quyết: "Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”.
Như vậy, trường hợp đương sự khởi kiện
yêu cầu chia di sản thừa kế, không yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 26 và khoản 1 Điều 35 của Bộ
luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân cấp huyện.
Trường hợp đương sự yêu cầu chia di sản
thừa kế đồng thời yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; căn cứ Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
8. Trong vụ án
dân sự, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập. Sau đó, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn
xin rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Tòa án có ra quyết định đình
chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút không và xử
lý tiền tạm ứng án phí như thế nào?
Khoản 2 Điều 244 của
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Trường hợp
có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của
họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Theo quy định tại khoản
3 Điều 18 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì “Trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu trong vụ án dân sự vì lý do
bị đơn có yêu cầu phản tố rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu
thì tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp”.
Như vậy, trường hợp nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan rút một phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
thì Tòa án đình chỉ giải quyết phần yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đã rút, tiền
tạm ứng án phí không được trả lại cho đương sự. Việc đình
chỉ và xử lý tiền tạm ứng án phí sẽ được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định
trong bản án. Trường hợp bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì
tiền tạm ứng án phí sẽ được Tòa án trả lại cho đương sự.
9. Người khởi
kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi trong
giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì Tòa án có phải yêu cầu bổ sung văn bản xác
minh nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới
thụ lý vụ án không? Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không thể tống đạt
được văn bản tố tụng cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa
chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng do nguyên đơn cung cấp. Tòa án tiến hành xác
minh tại địa phương thì bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú 06 tháng trước. Trong trường
hợp này, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hay tiếp tục giải quyết
vụ án?
Điểm e khoản 1 Điều
192 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp
trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi
nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới
cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho
người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại
đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết
theo thủ tục chung.
Điểm a khoản 1 Điều 5
của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 hướng
dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố
tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện,
quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (sau đây gọi tắt là Nghị
quyết số 04/2017/NQ-HĐTP) quy định: “Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy
định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 được xác định như sau: Nếu người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân
Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về
Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú hoặc tạm trú hoặc đang
sinh sống theo quy định của Luật cư trú”.
Khoản 2 Điều 5 của
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Người khởi
kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều
192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”.
Khoản 1 Điều 6 của
Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp
trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn
tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý
vụ án theo thủ tục chung”.
Căn cứ các quy định trên, người khởi kiện đã ghi đúng, đầy đủ địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ ghi trong giao dịch, hợp đồng thì Tòa án phải
thụ lý vụ án mà không được yêu cầu người khởi kiện phải cung cấp bổ sung văn bản
xác minh nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà
không tống đạt được văn bản tố tụng, xác minh tại địa phương thì họ đã đi khỏi
nơi cư trú 6 tháng trước; đây được xác định là trường hợp người bị kiện, người
có quyền, nghĩa vụ liên quan giấu địa chỉ. Tòa án căn cứ quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP
để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án.
10. Trường hợp
A kiện đòi B trả số tiền là 10.000.000 đồng và 20 chỉ vàng. Khi Tòa án tiến
hành hòa giải, A chỉ yêu cầu B trả 10.000.000 đồng, đối với 20 chỉ vàng A không
yêu cầu B trả. Như vậy, Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự và xử lý tiền tạm ứng án phí đối với 20 chỉ vàng như thế nào?
Bộ luật Tố tụng dân sự không quy định
việc đương sự rút một phần yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa thì được xử
lý như thế nào mà chỉ quy định việc đương sự rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện tại điểm a khoản 2 Điều 210, điểm c khoản 1, 2, 3, 4 Điều 217, khoản 1
Điều 29, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Cụ thể, tại khoản
2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ
là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu
cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Trường hợp này, việc A rút yêu cầu đối
với 20 chỉ vàng phải được ghi nhận vào Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án căn cứ Điều 212 của Bộ luật Tố tụng dân sự ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự.
Về án phí, theo quy định tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì “Các
bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp
Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Do vậy, các đương sự phải chịu 50% mức
án phí đối với số tiền 10.000.000 đồng, khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp đối với
yêu cầu trả 20 chỉ vàng thì đương sự không phải chịu án phí nên sẽ được hoàn trả
lại.
11. Trong vụ
án hôn nhân và gia đình, trước khi mở phiên tòa xét xử, đương sự tự nguyện ly hôn
nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung. Do đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định đưa
vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Trường hợp này, Tòa án phải quyết định về
án phí như thế nào?
Khoản 4 Điều 147 của
Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp cả hai thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí sơ thẩm”.
Điểm a khoản 5 Điều
27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Nguyên
đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc
Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận
tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí”.
Căn cứ các quy định nêu trên, trong vụ
án ly hôn, nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ
thẩm, trường hợp thuận tình ly hôn thì các bên đương sự phải
chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định).
Trong trường hợp này, các bên không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án quyết định
đưa vụ án ra xét xử và ra bản án sơ thẩm. Do các đương sự đã thỏa thuận tự nguyện
ly hôn nên các đương sự chỉ phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu
xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định); về quan hệ tài sản thì
mức án phí mỗi bên phải chịu dựa trên giá trị tài sản mà mỗi bên được chia theo
quy định của pháp luật về án phí.
Trên đây là giải
đáp một số vướng mắc trong xét xử của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối
cao thông báo để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong
quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Chánh án TANDTC (để b/c);
- Các Phó Chánh án TANDTC;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- Bộ Tư pháp;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
|
KT.
CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
|