Kính gửi: Ủy
ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội
Thực hiện công văn số 1185/UBTCNS12 ngày
05/02/2010 của Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội về định mức phân bổ dự
toán chi ngân sách nhà nước, UBND tỉnh An Giang báo cáo kết quả thực hiện định
mức phân bổ ngân sách nhà nước theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày
29/6/2006 và Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 của Thủ tướng Chính
phủ và đề xuất hướng xây dựng, sửa đổi, bổ sung định mức phân bổ trong giai
đoạn tới như sau:
I. Đặc điểm tình hình của địa phương:
An Giang vừa là tỉnh biên giới với đường biên giới
kéo dài gần 100 km, luôn phải đảm bảo cho quốc phòng an ninh giữ vững; vừa là
tỉnh có đông người dân tộc Khmer, nhiều tôn giáo cần phải đảm bảo an ninh ổn định
để phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo an sinh xã hội.
Ngoài ra, An Giang là tỉnh đông dân nhất đồng bằng
sông Cửu Long. Về y tế, giáo dục đào tạo phải chăm lo luôn cho nước bạn Campuchia;
có trường đại học thực hiện nhiệm vụ đào tạo học sinh ở các tỉnh lân cận (Đồng
Tháp, Kiên Giang…); trình độ dân trí ở mức thấp. Từ đó đặt ra nhiều yêu cầu chi
cấp thiết, đảm bảo cho việc quản lý ổn định để đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội.
II. Đánh giá kết quả thực hiện định mức phân bổ
ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2007 - 2010:
1. Đánh giá kết quả thực hiện định mức phân bổ
chi thường xuyên ngân sách nhà nước theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006
của Thủ tướng Chính phủ:
Định mức phân bổ chi thường xuyên của ngân sách nhà
nước theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg cơ bản phù hợp với tình hình thực tế về
nguồn lực ngân sách, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước.
Định mức phân bổ ngân sách với hệ thống tiêu chí
phân bổ ngân sách cụ thể, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, dễ kiểm tra…; đảm bảo
tính công bằng, hợp lý, công khai và minh bạch trong phân bổ ngân sách địa
phương.
Tuy nhiên, định mức phân bổ ngân sách nhà nước theo
Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg vẫn còn một số giới hạn như tiêu chí chưa bao
quát hết các lĩnh vực chi, mức chi vẫn còn eo hẹp, chưa đảm bảo đầy đủ các chế
độ, chính sách của nhà nước đã ban hành. Cụ thể như sau:
1.1. Định mức chi giáo dục được phân bổ theo dân
số trong độ tuổi đến trường từ 1 đến 18 tuổi; nếu mức chi không đảm bảo tỷ lệ
80% chi con người - 20% chi hoạt động thì bổ sung cho đủ. Tuy nhiên, có một số
khoản chi (phụ cấp thêm giờ, buổi…) chưa được tính vào nhóm chi con người
(80%), nên khoản chi hoạt động (20%) còn lại không đảm bảo. Mặt khác, tỷ lệ 20%
chi hoạt động được xác định năm đầu của thời kỳ ổn định, trong những năm tiếp
theo khi thực hiện cải cách tiền lương (tăng mức lương tối thiểu) thì không đảm
bảo tỷ lệ 80% chi con người - 20% chi hoạt động.
1.2. Định mức chi sự nghiệp đào tạo được phân bổ
theo dân số để đảm bảo các loại hình đào tạo, dạy nghề của địa phương; đối với các
tỉnh có trường đại học công lập thuộc tỉnh thì do ngân sách địa phương bảo đảm,
có thực hiện nhiệm vụ đào tạo học sinh ở các địa phương khác, được ngân sách
Trung ương phân bổ thêm cho ngân sách địa phương mức bằng 30% dự toán chi năm
2006 mà UBND cấp tỉnh đã giao. Do đó, định mức chi sự nghiệp đào tạo là chưa
đảm bảo đầy đủ và công bằng đối với các tỉnh có trường đại học thuộc tỉnh (chỉ
được hỗ trợ 30% dự toán chi của năm trước thời kỳ ổn định, phần còn lại ngân
sách địa phương tự cân đối), tạo áp lực lớn trong cân đối và điều hành ngân
sách địa phương.
1.3. Định mức chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể
chưa đảm bảo thực hiện các chế độ, chính sách đối với lực lượng cán bộ không
chuyên trách xã, phường, thị trấn. Do đó, địa phương phải phấn đấu tăng thu
hoặc cắt giảm những lĩnh vực chi khác và giảm dự phòng ngân sách để bố trí khoản
chi này.
1.4. Nhiệm vụ chi cần rõ ràng, minh bạch, tránh
chồng chéo như chi quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao
cho địa phương), chưa quy định cụ thể nội dung chi của ngân sách địa phương cho
lĩnh vực này. Do đó, khi phân bổ dự toán cho các đơn vị thì không có cơ sở để
xác định trước phát sinh yêu cầu rất lớn và không có nguồn đáp ứng.
1.5. Định mức chi thường xuyên khác của ngân sách
địa phương được phân bổ theo tỷ trọng 0,5% chi thường xuyên là chưa đảm bảo. Vì
khi phân bổ ngân sách địa phương, phải bố trí chi cho khen thưởng, chi cho công
tác xử phạt vi phạm hành chính khác (không tính phạt an toàn giao thông) và một
số khoản chi khác.
1.6. Định mức phân bổ chi thường xuyên của ngân sách
nhà nước chưa cơ cấu các khoản kinh phí thực hiện công tác quy hoạch, cải cách
hành chính, thực hiện ISO, ứng dụng công nghệ thông tin, cổng thông tin điện
tử, văn phòng điện tử, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, mua sắm và sửa chữa tài
sản… Trong thực tế thì ngân sách địa phương vẫn phải cân đối để chi đối với
những nhiệm vụ này.
2. Đánh giá
kết quả thực hiện định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng ngân sách nhà nước
theo Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ:
2.1. Đối với phân
bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm do tỉnh An Giang thực hiện:
- Thực hiện đúng quy định của Luật Ngân sách nhà
nước, cân đối ngân sách nhà nước theo các tiêu chí và định mức chi đầu tư phát triển
làm cơ sở để bố trí, hỗ trợ vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh cho ngân sách các
huyện, thị xã và thành phố.
- Phân bổ mức vốn đầu tư hợp lý giữa việc phục vụ
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả tỉnh với việc ưu tiên hỗ trợ các
địa phương miền núi, có đông đồng bào dân tộc và các địa phương khó khăn khác
để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, thu nhập và mức sống
của dân cư giữa các địa phương trong tỉnh.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong
việc phân bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm.
2.2. Đối với phân
bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm do Trung ương thực hiện:
- Do hàng năm Trung ương phân bổ vốn đầu tư phát
triển không tăng (trong khi Trung ương giao mức thu ngân sách hàng năm cho tỉnh
đều tăng), nên nguồn vốn đầu tư phát triển tỉnh giao cho cấp huyện cũng không
tăng.
- Từ khi triển khai Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg
ngày 12/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ đến nay, Trung ương chưa công bố cơ sở
phân bổ chi đầu tư phát triển cho cấp tỉnh hàng năm như: tổng số điểm của các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó số điểm của tỉnh An Giang là
bao nhiêu.
- Mặt khác, theo nội dung tại gạch đầu dòng thứ 5,
điểm 1, phần II các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển
bằng nguồn ngân sách nhà nước áp dụng cho giai đoạn 2007 - 2010 kèm theo Quyết
định số 210/2006/QĐ-TTg có ghi “mức vốn đầu tư phát triển trong cân đối của
từng địa phương không thấp hơn số dự toán năm 2006 Thủ tướng Chính phủ đã giao”,
nhưng từ năm 2007 đến năm 2010 lại giao thấp hơn (năm 2006 Trung ương giao
350,4 tỷ đồng, năm 2007 chỉ giao 227,8 tỷ đồng tương đương 65% năm 2006, từ năm
2008 đến 2010 chỉ giao 248,3 tỷ đồng tương đương 70,9% năm 2006).
- Ngoài ra, từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 về một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long
đến năm 2010, các Bộ ngành Trung ương đã tổ chức triển khai Quyết định này khá
tốt, việc hỗ trợ có mục tiêu vốn đầu tư hàng năm cho các tỉnh đã được cải
thiện, giúp cho các tỉnh đầu tư xây dựng hoàn thành nhiều công trình hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng phúc lợi phục vụ tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của từng địa phương và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Đặc biệt, ngày
16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 492/QĐ-TTg về phê duyệt
Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó
có tỉnh An Giang. Định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển vùng kinh tế
trọng điểm này rất phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của 13 tỉnh,
thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung và 4 tỉnh, thành phố vùng kinh
tế trọng điểm nói riêng. Đề án nêu rõ các giải pháp về cơ chế, chính sách cho
các địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long phải cao
hơn các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm khác và các tỉnh còn lại trong vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là điều kiện rất quan trọng quyết định tốc độ phát
triển của các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long.
III. Kiến nghị và đề xuất về xây dựng, sửa
đổi, bổ sung hệ thống các tiêu chí, định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên
ngân sách nhà nước, chi đầu tư phát triển bằng ngân sách nhà nước áp dụng cho
thời kỳ ổn định mới:
1. Đối với
định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước:
1.1. Về tổng thể: định mức phân bổ được xác định
cho năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, các năm tiếp theo nên tính đến yếu tố trượt
giá hàng năm. Đối với định mức chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể; quốc phòng,
an ninh được phân bổ theo tiêu chí dân số: đề nghị bổ sung thêm “Vùng biên
giới”.
1.2. Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp giáo
dục:
- Đề nghị phân
bổ theo tiêu chí tổng dân số (thay vì dân số trong độ tuổi từ 1 - 18), do khi
đánh giá nhiệm vụ chi cho sự nghiệp giáo dục thì tính mức chi bình quân trên
người dân; nên mức chi cho giáo dục ở khu vực đồng bằng sông Cửu long rất thấp.
- Đối với các xã thuộc chương trình 135 được phân
bổ thêm trên tổng dân số thay vì dân số trong độ tuổi từ 1 - 18.
- Để đảm bảo tỷ lệ 80% chi tiền lương, phụ cấp, các
khoản có tính chất lương, 20% chi thực hiện nhiệm vụ giáo dục không kể chi tiền
lương và các khoản có tính chất lương; khi thực hiện cải cách tiền lương (tăng
mức lương tối thiểu), đề nghị xác định 20% chi hoạt động theo quỹ tiền lương
mới.
- Nên xác định các khoản chi phụ cấp thêm giờ buổi
vào nhóm chi lương, các khoản có tính chất lương (80%) vì thực chất đây là khoản
chi cho con người.
1.3. Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp đào tạo
và dạy nghề: định mức phân bổ thêm kinh phí cho các trường đại học mang tính
chất khu vực đối với các tỉnh có trường đại học công lập thuộc tỉnh, có thực
hiện nhiệm vụ đào tạo học sinh ở các địa phương khác; đề nghị ngân sách Trung
ương phân bổ thêm cho ngân sách địa phương mức bằng 100% (hoặc tối thiểu là
50%, có tính yếu tố trượt giá hàng năm) mức dự toán chi năm 2010 mà UBND cấp tỉnh
đã giao cho trường đại học.
1.4. Định mức phân bổ dự toán chi quản lý hành
chính nhà nước, đảng, đoàn thể:
- Hệ số vùng: đề nghị tính như các loại sự nghiệp
giáo dục, đào tạo, y tế (tăng hệ số vùng đồng bằng).
- Mức phân bổ: đề nghị bổ sung thêm để đảm bảo kinh
phí chi cho lực lượng cán bộ không chuyên trách xã, phường, thị trấn (tỉnh An
Giang có 156 xã, phường, thị trấn, dân số của tỉnh là 2.273.150 người, bình quân
14.600 người/xã. Do đó, lực lượng cán bộ không chuyên trách của tỉnh được bố
trí với số lượng khá lớn với tổng số là 14.283 người, bình quân 92 người/xã, tổng
số chi cho lực lượng này rất cao so với định mức phân bổ, tạo áp lực trong cân
đối ngân sách địa phương).
1.5. Định mức
phân bổ dự toán chi sự nghiệp thể dục thể thao, chi quốc phòng, an ninh: đề nghị
điều chỉnh lại hệ số vùng như các loại sự nghiệp văn hóa thông tin, phát thanh
truyền hình… (tăng hệ số vùng đồng bằng, núi thấp vùng sâu).
1.6. Định mức phân bổ dự toán chi sự nghiệp đảm bảo
xã hội: đề nghị tăng mức chi cho đối tượng, gia đình thuộc diện chính sách xã hội
để đảm bảo nguồn thực hiện chế độ thăm hỏi, động viên các gia đình chính sách
vào ngày lễ, tết.
1.7. Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên khác
ngân sách: đề nghị tăng tỷ trọng trên tổng các khoản chi thường xuyên để đảm
bảo nguồn thực hiện nhiệm vụ chi cho khen thưởng, công tác xử phạt vi phạm hành
chính (không tính phạt an toàn giao thông) và một số khoản chi khác theo nghị
quyết của địa phương.
1.8. Đề nghị cơ cấu vào định mức phân bổ dự toán
chi thường xuyên ngân sách nhà nước các khoản kinh phí thực hiện công tác quy hoạch,
cải cách hành chính, thực hiện ISO, ứng dụng công nghệ thông tin, cổng thông
tin điện tử, văn phòng điện tử, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, mua sắm và sửa
chữa tài sản…
1.9. Đối với các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, đề nghị phân bổ thêm 10% số chi tính theo định mức dân số.
2. Đối với định mức phân bổ dự toán chi đầu tư
phát triển bằng ngân sách nhà nước:
2.1. Về số năm trong thời kỳ ổn định ngân sách chi
đầu tư phát triển:
- Đề nghị nên chọn 03 năm (2011 - 2013) vì tình hình
giá cả biến động liên tục và trong chiều hướng tăng nên suất đầu tư trong xây
dựng cơ bản cũng tăng theo, làm cho khối lượng xây lắp và mua sắm trang thiết
bị giảm xuống so với mức chi đầu tư phát triển ổn định hàng năm.
- Không giao mức chi đầu tư phát triển ổn định theo
số tuyệt đối như thời kỳ 2007 - 2010, nên giao mức chi đầu tư phát triển ổn
định theo số tương đối có tính đến yếu tố trượt giá do lạm phát hàng năm.
2.2. Về phân chia vốn đầu tư phát triển cho các Bộ
ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố: do trong thời gian qua và các năm tới,
Trung ương phân cấp mạnh cho các tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý, các địa
phương cũng đủ năng lực về chuyên môn, kỹ thuật để đảm nhận các công trình quy
mô lớn do các Bộ ngành Trung ương đầu tư trên địa bàn, nên đề nghị nâng cao tỷ
trọng vốn đầu tư phát triển cho các tỉnh, thành phố trong phân bổ tổng mức vốn
đầu tư phát triển cả nước.
2.3. Xác định và công bố số điểm cho các tiêu chí
phân bổ vốn đầu tư phát triển: nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng
trong việc phân bổ vốn đầu tư phát triển hàng năm, đề nghị Trung ương xây dựng
chi tiết số điểm theo các tiêu chí cho từng tỉnh, thành phố và công bố công
khai cho các địa phương biết.
UBND tỉnh An Giang báo cáo Ủy ban Tài chính - Ngân
sách của Quốc hội./.