BỘ
LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2104/LĐTBXH-VP
V/v: Trả lời kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ
9 Quốc hội khóa XII lĩnh vực lao động việc làm, xuất khẩu lao động
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 06 năm 2011
|
Kính
gửi: Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Trả lời Công văn số 134/BDN ngày 18/5/2011
của Ban Dân nguyện về việc trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ
9, Quốc hội khóa XII, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin báo cáo như sau:
1. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo
ngành bảo hiểm và các ngành chức năng hướng dẫn cụ thể hơn việc đóng bảo hiểm
thất nghiệp ở các đơn vị sự nghiệp, hiện nay còn vướng mắc, bất cập trong thực
hiện nhất là ngành y tế, giáo dục (Cử tri tỉnh Lâm Đồng - Kiến nghị số 21)
Việc xác định đối tượng tham gia bảo
hiểm thất nghiệp để đóng bảo hiểm thất nghiệp đã được quy định cụ thể tại khoản 3, Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội và Điều 2
Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất
nghiệp. Tuy nhiên, tại các đơn vị sự nghiệp công lập, việc xác định công chức,
viên chức theo Luật Công chức và Luật Viên chức cần có hướng dẫn cụ thể, nhất
là những viên chức được tuyển dụng trước ngày 01/7/2003. Theo quy định tại khoản 1, Điều 59 Luật Viên chức có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2012 thì những viên chức được tuyển dụng trước ngày 01/7/2003 có các
quyền, nghĩa vụ như viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời
hạn.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
sẽ tiếp tục nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Nghị định số
127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều
kiện cho các đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp một cách thuận lợi nhất,
phù hợp với quy định của pháp luật.
2. Theo quy định mới viên chức
phải đóng bảo hiểm thất nghiệp, tuy nhiên những công chức công tác trong các
ngành hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước như: y tế, giáo dục … thì khó có cơ hội
được thụ hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Như vậy, nếu bắt buộc các viên chức phải
đóng bảo hiểm thất nghiệp là chưa hợp lý, bởi vì người đóng bảo hiểm phải được
thụ hưởng các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp … Đề nghị Chính phủ
chỉ đạo cơ quan bảo hiểm nghiên cứu, xem xét chính sách đóng bảo hiểm thất nghiệp
đối với viên chức sự nghiệp hưởng lương từ Ngân sách (Cử tri tỉnh Lào Cai,
Cao Bằng - Kiến nghị số 27)
Bảo hiểm thất nghiệp thực hiện theo
nguyên tắc của bảo hiểm xã hội được xác định tại khoản 1 Điều 5
Luật Bảo hiểm xã hội, theo đó mức lương bảo hiểm xã hội được dựa trên cơ sở
mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham
gia bảo hiểm xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội. Hiện nay, công chức trong
các đơn vị sự nghiệp công không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Trên thực tế, những người được tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng như những người
tham gia bảo hiểm y tế đều không muốn rơi vào tình trạng để được hưởng chế độ
này và hơn nữa đây là chính sách chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
sẽ nghiên cứu các đối tượng cụ thể để đề xuất khi sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm
xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.
3. Đề nghị Nhà nước quan tâm có
chính sách hỗ trợ giới thiệu việc làm cho người dân tộc thiểu số đã được qua
đào tạo và khuyến khích các em tích cực học hành nâng cao trình độ (Cử tri
tỉnh Bình Dương - Kiến nghị số 31).
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Do vậy, Nhà
nước rất quan tâm và có nhiều chính sách hỗ trợ cho các dân tộc thiểu số, đặc
biệt là trong công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và khuyến khích
đào tạo nâng cao trình độ cho đồng bào dân tộc thiểu số, cụ thể như sau:
* Về dạy nghề
- Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg
ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về chính sách dạy nghề
đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú. Theo đó, con em các dân tộc thiểu số
ở khu vực đặc biệt khó khăn được học nghề nội trú tại các cơ sở dạy nghề công lập
có đủ điều kiện dạy nghề nội trú. Trong thời gian học nghề được hưởng học bổng,
trợ cấp xã hội và các chính sách khác như học sinh trung học phổ thông dân tộc
nội trú.
- Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho
lao động nông thôn. Theo Quyết định này, nếu đối tượng đi học là người dân tộc
thiểu số được hưởng mức hỗ trợ tối đa 300.000 đồng/người/tháng và không quá
1.500.000 đồng/người/khóa học nghề.
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày
14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc có chính sách ưu tiên phát triển
giáo dục đối với người dân tộc thiểu số, cụ thể như sau: bố trí phân công công
tác đối với người dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp; miễn học phí cho tất cả
các cấp học, ngành học đối với người dân tộc thiểu số rất ít người; nghiên cứu
hình thức đào tạo đa ngành bậc đại học cho con em các dân tộc thiểu số để đẩy
nhanh việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế.
- Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020”, trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người
dân tộc thiểu số được hưởng các chính sách như: hỗ trợ chi phí học nghề; hỗ trợ
tiền ăn, tiền đi lại; được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương
trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.
* Về giải quyết việc làm
- Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg
ngày 6/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia
về việc làm đến năm 2010, hàng năm đã giải quyết việc làm cho khoảng 25 đến 30
vạn lao động, trong đó, số lao động vay vốn được tạo việc làm là người dân tộc
thiểu số chiếm tỉ lệ lớn, góp phần thúc đẩy việc làm cho khu vực dân tộc thiểu
số.
- Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày
05/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về
giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình đã hỗ trợ cho 5 triệu lượt hộ
nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi với mức vay bình quân khoảng 6 - 7 triệu đồng/lượt/hộ
trong đó, phần lớn hộ nghèo là ở các huyện vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc
thiểu số.
* Về hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc
làm
- Nghị định số 19/2005/NĐ-CP ngày
28/02/2005 của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của
Trung tâm Giới thiệu việc làm và Thông tư số 20/2005/TT-LĐTBXH ngày 22/6/2005
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 19/2005/NĐ-CP. Thông qua các quy định
này, các tỉnh, thành phố đã quy hoạch thành lập các trung tâm giới thiệu việc
làm trên địa bàn để tư vấn, hướng nghiệp, dạy nghề cho người lao động nói chung
và người dân tộc thiểu số nói riêng. Người dân tộc thiểu số là đối tượng được
hưởng chính sách ưu đãi đầu tiên về hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm. Người
dân tộc thiểu số khi đến với các trung tâm giới thiệu việc làm được tư vấn miễn
phí, tìm công việc phù hợp với khả năng, nguyện vọng, … Từ năm 2007 đến nay, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo thực hiện đa dạng các hình thức
giao dịch việc làm như: sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm …, được tổ chức
định kỳ, thường xuyên để tăng cơ hội gặp gỡ, trao đổi việc làm giữa người lao động
và người sử dụng lao động. Nhiều Trung tâm đã chủ động phối hợp với các tổ chức
chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo tổ chức các sàn giao dịch
việc làm lưu động, trực tiếp cho từng đối tượng, cụm huyện, và đến được với các
đối tượng lao động là người dân tộc thiểu số, nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu
lao động lên một bước tiến mới.
- Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày
27/12/2008 về Chương trình Hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50%. Nghị quyết này đã chú trọng đến
chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí góp phần giải quyết việc
làm, nâng cao đời sống cho các huyện vùng núi như: đầu tư xây dựng mỗi huyện 01
cơ sở dạy nghề tổng hợp được hưởng các chính sách ưu đãi, có nhà ở nội trú cho
học viên để tổ chức dạy nghề tại chỗ cho lao động nông thôn về sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp; dạy nghề tập trung để đưa lao động
nông thôn đi làm việc tại các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động.
* Định hướng thời gian tới
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà
nước về lao động - việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục chỉ
đạo thực hiện, nghiên cứu và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các chính sách
khuyến khích đào tạo, dạy nghề và các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm nhằm
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống cho đồng bào dân tộc
thiểu số theo hướng:
- Đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện tốt
các chính sách đã có. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả
các chính sách về đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo
cho người dân tộc thiểu số.
- Tham mưu với Chính phủ để tập
trung đào tạo phát triển khu vực có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, phát huy
những tiềm năng của vùng này về đất đai; giá trị văn hóa truyền thống, … nhằm
giải quyết việc làm cho người lao động.
- Tiếp tục xây dựng các chính sách
khuyến khích đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho dân tộc thiểu số
để đáp ứng được các yêu cầu của các doanh nghiệp và của quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa.
- Thực hiện các chính sách và giải
pháp hỗ trợ phát triển thị trường lao động: Nâng cao năng lực của hệ thống
Trung tâm giới thiệu việc làm trong tư vấn, thông tin, giới thiệu việc làm, đa
dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, tổ chức thường xuyên các phiên giao
dịch việc làm lưu động đến tận các huyện nghèo, các vùng dân tộc thiểu số để họ
có thể tiếp cận và tìm kiếm được những cơ hội việc làm phù hợp với trình độ.
- Tích cực thực hiện công tác tuyên
truyền, phổ biến nâng cao nhận thức cho đồng bào dân tộc thiểu số về pháp luật,
về các chính sách của Đảng và Nhà nước, tầm quan trọng của việc đào tạo nghề
trong công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo …
4. Đề nghị Nhà nước tiếp tục có
giải pháp, hướng dẫn việc làm cho thanh niên lao động nông thôn, tránh tình trạng
lao động nông thôn đi làm thuê (với thu nhập thấp) tại các khu vực thành thị dẫn
đến tình trạng đất đai bị bỏ hoang (Cử tri tỉnh Lạng Sơn - Kiến nghị số 33)
Theo kết quả Điều tra lao động và việc
làm của Tổng cục Thống kê năm 2009, lực lượng lao động nông thôn là 44,69 triệu
người (chiếm 69,4% lực lượng lao động của cả nước), trong đó thanh niên (15-29
tuổi) là 15,683 triệu người (chiếm 35% lực lượng lao động nông thôn và 70% lực
lượng lao động thanh niên của cả nước). Nhận thức được vai trò quan trọng của
thanh niên trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ giải quyết việc
làm cho thanh niên nói chung và thanh niên nông thôn nói riêng như:
+ Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày
5/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý, điều hành vốn cho vay của
Quỹ quốc gia về việc làm và Quyết định số 15/2008/QĐ-TTg ngày 23/1/2008 của Thủ
tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg.
+ Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg ngày
18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho
lao động nông thôn.
+ Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg
ngày 21/7/2008 cua Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ thanh niên học
nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015” nhằm hỗ trợ tốt hơn nữa trong dạy
nghề và tạo việc làm cho thanh niên.
+ Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020”, trong đó quy định lao động nông thôn được hỗ trợ chi
phí học nghề ngắn hạn và sau khi học nghề được vay vốn từ quỹ Quốc gia về việc
làm để tự tạo việc làm.
+ Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày
29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh
xuất khẩu lao động.
+ Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày
4/6/2010 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn, trong đó quy định người lao động được đào tạo 1 lần/năm và
thời gian được hỗ trợ kinh phí đào tạo tối đa là 6 tháng.
Các chính sách trên cùng với các
chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tại nông thôn đã
góp phần quan trọng giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn, trong
đó có thanh niên. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng lao động nông thôn, trong đó
chủ yếu là thanh niên ra thành thị tìm kiếm việc làm còn khá phổ biến. Thanh
niên nông thôn thường có trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật thấp, do đó thường
khó tìm được việc làm với thu nhập đảm bảo, phải chấp nhận làm những công việc
với thu nhập thấp, không được bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động, chế độ bảo
hiểm, … trong khi tại nông thôn lại thiếu một bộ phận lao động chính, đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp, đất đai bị bỏ hoang. Để khắc phục tình trạng trên
đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành và doanh nghiệp, trong đó phát triển
nông thôn, đẩy mạnh tạo việc làm tại chỗ là giải pháp tối ưu. Trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã và sẽ tiếp tục
chỉ đạo, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện một số giải
pháp sau:
- Thực hiện đầy đủ các chính sách dạy
nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là thanh niên nông thôn;
nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện chính sách thu hút thanh niên sau khi tốt
nghiệp các trường cao đẳng, đại học về làm việc tại quê nhà; phối hợp triển
khai thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ, khuyến khích thanh niên tham gia
phát triển kinh tế - xã hội các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, ….; xây dựng
Luật Việc làm để hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về việc
làm, thống nhất các chính sách hỗ trợ việc làm của nhà nước.
- Đẩy mạnh việc thực hiện dự án vay
vốn tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm theo hướng ưu tiên cho vay đối với
các dự án tạo việc làm của thanh niên nông thôn.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
các chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động, đặc biệt là thanh niên tại các huyện
nghèo tham gia xuất khẩu lao động; tích cực tìm kiếm, khai thác nhằm đa dạng
hóa các thị trường mới không đòi hỏi trình độ tay nghề cao nhưng lại có khả
năng tiếp nhận nhiều lao động, phù hợp với đại bộ phận thanh niên nông thôn.
- Phối hợp triển khai đề án “Hỗ trợ
thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015”, đặc biệt chú ý đến
các hoạt động tư vấn, hướng nghiệp, giới thiệu việc làm, vay vốn tín dụng ưu
đãi để thanh niên nông thôn được học nghề, tạo việc làm và xuất khẩu lao động;
đẩy mạnh và nâng cao năng lực các hoạt động về thông tin, tư vấn, hướng nghiệp
giúp thanh niên trong lựa chọn và quyết định học nghề, lập nghiệp, tham gia thị
trường lao động; đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo, các Trung tâm hướng nghiệp,
dạy nghề và giới thiệu việc làm kiểu mẫu của Đoàn Thanh niên.
- Chỉ đạo thực hiện Đề án Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, thí điểm mô hình dạy nghề theo hướng sản xuất nông
nghiệp hàng hóa và phi nông nghiệp; phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề và
cán bộ quản lý dạy nghề; gắn đào tạo với nhu cầu xã hội; huy động sự tham gia của
doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình, giáo trình và đánh giá kết quả học
tập của học sinh, sinh viên; thực hiện giảng dạy, truyền nghề trực tiếp tại
doanh nghiệp, làng nghề.
- Tiếp tục thực hiện các chính sách
hỗ trợ phát triển thị trường lao động: đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống
Trung tâm giới thiệu việc làm công trong tư vấn, thông tin, giới thiệu việc làm
và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên; mở rộng phạm vi và tần suất của các
hoạt động giao dịch việc làm, đặc biệt là sàn giao dịch việc làm; hoàn thiện hệ
thống thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh các hoạt động phân tích, dự báo
thị trường lao động …
- Phối hợp với Trung ương Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các địa phương tổ chức tuyên truyền, giáo dục
để tạo sự chuyển biến về nhận thức của thanh niên nông thôn về học nghề, lập
nghiệp; đồng thời, tuyên truyền, giáo dục pháp luật lao động, ý thức tuân thủ
pháp luật, tác phong làm việc để thanh niên nông thôn có đủ điều kiện và chủ động
tham gia thị trường lao động.
- Chỉ đạo các Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội tập trung thực hiện:
+ Điều tra, thống kê nắm tình hình
lao động thanh niên theo độ tuổi, trình độ, giới tính; tình trạng việc làm, nhu
cầu đào tạo và nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
tại nông thôn để có kế hoạch đào tạo, giải quyết việc làm một cách hợp lý.
+ Hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ với
doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nghề và tuyển dụng lao động thanh niên
nông thôn.
+ Chỉ đạo Trung tâm giới thiệu việc
làm trực thuộc tăng cường thông tin tuyên truyền, tư vấn, giới thiệu việc làm
cho thanh niên nông thôn bằng các hình thức phù hợp.
5. Đề nghị Chính phủ xem xét về
thực hiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động ở các huyện 30a, hỗ trợ trực tiếp
cho người lao động không hỗ trợ cho các công ty, tổ chức xuất khẩu lao động. Đồng
thời hỗ trợ lãi suất bằng 0 với nguồn vốn vay đi xuất khẩu, đơn giản hóa thủ tục
hơn trong việc vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội (Cử tri tỉnh Lào Cai
- Kiến nghị số 28)
a. Về chính sách hỗ trợ người
lao động
Theo quy định tại Quyết định số
71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án Hỗ
trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững
giai đoạn 2009 - 2020, người lao động thuộc 62 huyện nghèo theo Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP được hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước như: (i) Hỗ trợ
nâng cao trình độ văn hóa đối với người lao động có nhu cầu đi XKLĐ nhưng chưa
đáp ứng về trình độ văn hóa; (ii) Hỗ trợ đào tạo nghề, bồi dưỡng kiến thức cần
thiết, hỗ trợ kinh phí khám sức khỏe làm visa, hộ chiếu và lý lịch tư pháp;
(iii) Hỗ trợ cho vay tín dụng ưu đãi; (iiii) Hỗ trợ rủi ro khi người lao động
làm việc ở nước ngoài và (iiiii) Hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm cho người
lao động sau khi kết thúc hợp đồng về nước.
Toàn bộ các khoản hỗ trợ nêu trên đều
là các khoản hỗ trợ trực tiếp cho người lao động. Doanh nghiệp XKLĐ, Cơ sở dạy
nghề hoặc các Trường đào tạo nâng cấp trình độ văn hóa cho người lao động chỉ
là những đơn vị được giao nhiệm vụ hoặc ký hợp đồng đặt hàng đào tạo với cơ
quan quản lý nhà nước và thay mặt cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc hỗ trợ;
chỉ được thanh quyết toán khi có đầy đủ hóa đơn, chứng từ ký nhận của người lao
động về các khoản hỗ trợ.
b. Về kiến nghị hỗ trợ lãi suất
bằng không và đơn giản hóa thủ tục hơn trong việc vay vốn tại Ngân hàng Chính
sách xã hội
Hiện nay, người lao động thuộc hộ
nghèo, hộ dân tộc thiểu số cư trú tại 62 huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài
theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ được
Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay tín dụng theo nhu cầu, tối đa bằng các khoản
chi phí người lao động phải đóng góp theo từng thị trường với lãi suất bằng 50%
mức lãi suất hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội áp dụng cho đối tượng
chính sách đi xuất khẩu lao động. Với mức lãi suất như vậy thì phần lãi suất
người lao động phải trả Ngân hàng hàng tháng rất thấp. Quy định mức lãi suất
như trên nhằm nâng cao trách nhiệm của người lao động trong thời gian đi làm việc
ở nước ngoài. Ngoài ra, các đối tượng còn lại của các huyện nghèo được vay với
lãi suất cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội áp dụng cho đối tượng chính
sách đi xuất khẩu lao động.
Về thủ tục vay tín dụng tại Ngân
hàng chính sách xã hội, hiện nay Ngân hàng chính sách xã hội đang áp dụng quy
trình, thủ tục vay vốn áp dụng chung cho tất cả các đối tượng thuộc diện đối tượng
được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội trên toàn quốc. Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục làm việc với Ngân hàng Chính sách xã hội để
tìm các biện pháp đơn giản hóa hơn nữa thủ tục cho vay đối với đối tượng người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
6. Việc người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Đề nghị Nhà nước và các doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chú ý đến
chất lượng trình độ chuyên môn có tay nghề và ngoại ngữ của người lao động vì
hiện nay người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chỉ dưới
dạng lao động phổ thông (Cử tri tỉnh Tây Ninh - Kiến nghị số 29).
Trong những năm gần đây, thực hiện
chủ trương của Nhà nước đẩy mạnh đưa lao động có tay nghề đi làm việc ở nước
ngoài, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường
khai thác các hợp đồng đưa lao động có tay nghề và trình độ cao đi làm việc ở
nước ngoài, đồng thời triển khai các giải pháp để tạo nguồn lao động xuất khẩu.
Trong đó, tăng cường năng lực đào tạo phát triển hệ thống dạy nghề quốc gia,
triển khai một số chương trình hỗ trợ đào tạo lao động có tay nghề cao để đi
làm việc ở nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mở các
trường đào tạo hoặc liên kết với các trường đào tạo nghề để đào tạo nghề cho
người lao động.
Với những biện pháp trên, hiện nay
tỷ lệ lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được khoảng 60%.
Thị trường lao động nước ngoài hiện
nay có nhu cầu cao về lao động có nghề, đồng thời cũng có nhu cầu lao động phổ
thông, lao động không đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Vì vậy, một mặt chúng ta phải
đẩy mạnh đào tạo nghề để có lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ cao để từng
bước đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động ngoài nước, trước mắt chúng ta cần
tiếp tục đưa một bộ phận lao động không nghề hoặc có tay nghề thấp đi làm việc ở
nước ngoài. Qua thời gian lao động ở nước ngoài, người lao động được học nghề
và nâng cao trình độ tay nghề. Đồng thời, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ
tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường đào tạo nghề cho người lao động để
đáp ứng yêu cầu về chất lượng lao động của thị trường trong nước và thị trường
lao động quốc tế. Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang cùng với
các cơ quan, địa phương liên quan triển khai xây dựng một số trường, cơ sở tập
trung đào tạo lao động để đi làm việc ở nước ngoài.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Thường vụ QH;
- Ủy ban CVĐXH QH;
- Ủy ban VHGDTTN QH;
- Chủ nhiệm VPQH;
- Trưởng đoàn ĐBQH 63 tỉnh, thành phố;
- Bộ LĐTBXH: Bộ trưởng, các Thứ trưởng, Thủ trưởng các đơn vị: Cục VL, Vụ
QLLĐNN;
- Lưu VT, TKTH.
|
BỘ
TRƯỞNG
Nguyễn Thị Kim Ngân
|