NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
898/CV-NHNN10
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 9 năm 1998
|
CÔNG VĂN
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM SỐ 898/CV-NHNN10NGÀY 28
THÁNG 9 NĂM 1998 VỀ VIỆC THỰC HIỆN LUẬT NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ LUẬT CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG
Kính
gửi: Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và Luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước Cộng hoà xã Hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997. Theo Điều 62
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Điều 130 Luật các tổ chức
tín dụng, thì Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998. Theo sự phân công của Chính phủ,
trong hơn 9 tháng qua Ngân hàng Nhà nước đã tập trung xây dựng các Nghị định của
Chính phủ để cụ thể hoá các quy định của 2 Luật. Bên cạnh đó, một số các văn bản
hướng dẫn thi hành thuộc thẩm quyền ban hành của Ngân hàng Nhà nước cũng đã được
soạn thảo, các văn bản khác sẽ tiếp tục được ban hành để sửa đổi, thay thế các
văn bản hiện hành.
Việc triển khai thực hiện Luật cần
được tiến hành nghiêm túc, thận trọng theo nguyên tắc:
- Những quy định của Luật đã rõ
ràng, cụ thể cần nhanh chóng triển khai đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn
để có những bước điều chỉnh cho phù hợp, không gây ra những xáo trộn, mất ổn định
của hệ thống.
- Những quy định chung, cần được
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện, việc triển khai thực hiện sẽ
căn cứ vào nội dung của các văn bản liên quan.
- Những nội dung mà việc triển
khai thực hiện cần có bước qúa độ nhưng chưa có văn bản hướng dẫn, để đảm bảo
hoạt động thống nhất, Ngân hàng Nhà nước sẽ có báo cáo xin Chính phủ được tiếp
tục thực hiện theo các quy định hiện hành cho tới khi có văn bản mới.
Để bảo đảm việc triển khai các
quy định của Các Luật ngân hàng được thông suốt, căn cứ trên các nguyên tắc nêu
trên, căn cứ Điều 129 Luật Tổ chức tín dụng, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước yêu cầu Giám đốc các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước, Thủ trưởng đơn
vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc)
tổ chức tín dụng căn cứ các nguyên tắc trên đây để hướng dẫn, triển khai thực
hiện các Luật Ngân hàng. Đối với những vấn đề có thể có sự không thống nhất
trong nhận thức, Ngân hàng Nhà nước lưu ý trong quá trình triển khai thực hiện
như sau:
I- ĐỐI VỚI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC TỈNH, THÀNH PHỐ, CÁC ĐƠN VỊ THUỘC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM:
1/ Các chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục hoạt động theo các quy chế
tổ chức và hoạt động hiện hành, bao gồm cả nghiệp vụ ngân quỹ cho khách hàng,
thực hiện dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Đối với các nhiệm vụ của chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước được quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng
hiện nay Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện thì chỉ được thực hiện khi
có sự uỷ quyền, cho phép bằng văn bản của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
2/ Đối với nghiệp vụ bảo lãnh: Kể
từ ngày 01/10/1998, Ngân hàng Nhà nước không được thực hiện bảo lãnh cho tổ chức,
cá nhân vay vốn cả trong nước và ngoài nước; kể từ ngày 01/10/1998, Ngân hàng
Nhà nước chỉ bảo lãnh cho các Tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài khi có chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ .
3/ Đối với hoạt động in tiền: việc
in tiền và giám sát in tiền tiếp tục thực hiện theo các qui định hiện hành cho
đến khi có qui định mới. Sau khi Chính phủ ban hành nghị định về việc in, đúc bảo
quản, vận chuyển, tiêu huỷ, việc in tiền sẽ thực hiện theo quy trình được qui định
tại Nghị định này.
4/ Đối với việc tiêu huỷ tiền: Tập
trung hoàn thành việc tiêu huỷ số tiền rách nát, hư hỏng theo kế hoạch, lệnh
tiêu huỷ đã duyệt trước ngày 01/10/1998 nhưng chưa thực hiện xong. Qui trình
tiêu huỷ, giám sát vẫn thực hiện theo quy định hiện hành cho đến khi tiêu huỷ
xong toàn bộ số tiền rách nát hư hỏng đã được duyệt theo kế hoạch năm 1998. -
Việc tiêu huỷ tiền rách nát, hư hỏng theo lệnh sau ngày 01/10/1998 sẽ thực hiện
theo đúng quy định của " Nghị định về in, đúc, bảo quản, vận chuyển, tiêu
huỷ tiền" sẽ được Chính phủ ban hành.
5/ Việc cấp giấy phép thành lập
và hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng: Việc tiếp nhận hồ sơ xin giấy phép
thành lập và hoạt động các tổ chức tín dụng được thực hiện theo các qui định hiện
hành và các quy định liên quan của Luật các tổ chức tín dụng.
6/ Về việc cấp giấy phép hoạt động
ngân hàng của các tổ chức khác: Việc tiếp nhận hồ sơ xin hoạt động ngân hàng của
tổ chức khác sẽ được thực hiện theo các qui định liên quan của Nghị định về hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác sẽ được Chính phủ ban hành.
7/ Việc hoạt động của Hội đồng
quản trị Ngân hàng Nhà nước: kể từ ngày 01/10/1998 Hội đồng quản trị Ngân hàng
Nhà nước không thực hiện các công việc, nhiệm vụ theo quy định tại Pháp lệnh
Ngân hàng Nhà nước, chỉ thực hiện các công việc còn tồn tại (đã phát sinh trước
ngày 01/10/1998 và chưa kết thúc) cho đến khi các công việc này hoàn thành.
8/ Các Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước phối hợp với các cơ quan nhà nước trên địa bàn phát hiện và yêu cầu các tổ
chức không phải là tổ chức tín dụng, cá nhân chấm dứt ngay việc thực hiện nghiệp
vụ ngân hàng (nếu có).
9/ Việc thực hiện qui định về dự
trữ bắt buộc: Trước mắt thực hiện theo các qui định hiện hành về dự trữ bắt buộc.
Việc trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc sẽ thực hiện theo qui định của Chính phủ.
10/ Xử lý vi phạm trong hoạt động
ngân hàng: Tiếp tục thực hiện theo các qui định hiện hành của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước và nội dung các qui định liên quan của Pháp luật cho đến khi có
Nghị định của Chính phủ hướng dẫn cụ thể hơn về nội dung này.
11/ Về hoạt động thanh toán, dịch
vụ cho kho bạc: Thực hiện theo quy định hiện hành.
12/ Về hoạt động của Quỹ tín dụng
nhân dân: Trước mắt, tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành và theo chỉ đạo
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chấn chỉnh hoạt động của các Quĩ tín dụng
nhân dân. Tích cực chuẩn bị điều kiện để tiến hành tổng kết về hoạt động của Quỹ
tín dụng nhân dân để có cơ sở hoàn chỉnh dự thảo Nghị định Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân.
II. ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG:
1/ Về tên gọi:
Tên gọi các TCTD được nêu trong
Luật là tên gọi của các mô hình TCTD, nhằm xác định tính chất hoạt động, nội
dung hoạt động của từng loại hình TCTD mà không phải là tên riêng của các TCTD,
hơn nữa mục tiêu của Luật các tổ chức tín dụng là xây dựng
hệ thống ngân hàng đa năng, kinh doanh tổng hợp phục vụ đa thành phần kinh tế.
Do vậy, việc điều chỉnh tên của từng TCTD không đặt ra.
2/ Về mặt tổ chức:
a) Về cơ cấu vốn: Các tổ chức tín
dụng cổ phần nếu chưa có cổ đông thuộc sở hữu nhà nước cần tìm kiếm bổ sung phần
vốn cổ phần từ các cổ đông thuộc sở hữu nhà nước để bảo đảm có vốn cổ phần của
nhà nước trong các tổ chức tín dụng cổ phần. Thời hạn điều chỉnh dự kiến là 2
năm kể từ ngày Luật có hiệu lực.
b) Về tổ chức của Chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài: Trước mắt, các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài vẫn tiếp tục hoạt
động theo các qui định hiện hành cho đến khi có Nghị định mới về tổ chức và hoạt
động của tổ chức tín dụng nước ngoài của Chính phủ.
c) Về quy định đối với các thay
đổi phải xin phép: Vẫn thực hiện theo các quy định hiện hành về các thay đổi cần
có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Đối với các thay đổi mà Luật mới quy định
như: chuyển nhượng cổ phần có ghi tên quá tỷ lệ quy định, tỷ lệ cổ phần của cổ
đông lớn sẽ vận dụng theo các quy định hiện hành.
d) Vấn đề thành lập các công ty
con của tổ chức tín dụng: Thực hiện theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà
nước.
e) Vấn đề tổ chức và tiêu chuẩn
của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát:
+ Trường hợp thiếu số thành viên
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát thì phải bổ sung trong vòng 3 tháng kể từ ngày
01/10/1998.
+ Trường hợp Chủ tịch Hội đồng
quản trị kiêm Tổng giám đốc hoặc tham gia điều hành tổ chức tín dụng khác (như
qui định tại Khoản 4, 5 Điều 37) thì cần phải điều chỉnh ngay một trong hai chức
danh trong vòng 3 tháng kể từ ngày 01/10/1998.
+ Nếu thành viên Hội đồng quản
trị, Ban kiểm soát không đủ tiêu chuẩn theo qui định thì phải miễn nhiệm và bổ
sung thành viên mới trong vòng 3 tháng kể từ ngày 01/10/1998.
+ Thành viên Hội đồng quản trị,
Ban kiểm soát thuộc trường hợp qui định tại Khoản 2 Điều 40 phải được điều chỉnh
trong vòng 3 tháng kể từ ngày 01/10/1998.
g) Vấn đề tổ chức kiểm tra nội bộ:
Các tổ chức tín dụng chưa hình thành một tổ chức kiểm tra nội bộ hoặc đã có
nhưng không đúng với quy định tại Điều 41 Luật tổ chức tín dụng thì
phải thiết lập ngay khi Luật có hiệu lực.
3/ Về hoạt động nghiệp vụ và bảo
đảm an toàn:
a- Về các loại tiền gửi theo quy
định tại Điều 45 Luật các tổ chức tín dụng:
Đối với các tổ chức tín dụng là
Ngân hàng: Trước mắt các Ngân hàng vẫn thực hiện huy động vốn theo qui định hiện
hành;
- Đối với tổ chức tín dụng phi
ngân hàng: theo Luật, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ thực hiện huy động
tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên. Do vậy, sau ngày 01/10/1998, các công ty
tài chính kể cả Công ty tài chính thuộc Tổng công ty, không được thực hiện huy
động mới loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 01 năm.
b) Việc khách hàng chọn Ngân
hàng để mở tài khoản chính:
Trước mắt, các tổ chức tín dụng
vẫn tiếp tục thực hiện chế độ mở tài khoản cho khách hàng
như quy định hiện nay Ngân hàng Nhà nước sẽ sớm có quy định liên quan đến việc
mở tài khoản của khách hàng.
c) Đối với các khoản
vay được thế chấp, cầm cố bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng phát sinh
trước ngày 01/10/1998:
- Tổ chức tín dụng phải yêu cầu
bên vay vốn thay thế tài sản bảo đảm trong vòng 03 tháng kể từ ngày 01/10/1998.
- Trường hợp không thể thay thế
tài sản bảo đảm thì tổ chức tín dụng phải có biện pháp để xử lý các khoản vay này trong vòng 06 tháng kể từ ngày Luật có hiệu lực.
d) Về việc cho vay và quy trình
xét duyệt cho vay, bảo đảm tiền vay:
- Về việc cho vay trừ trường hợp
bị cấm cho vay theo qui định của Luật, việc cho vay vẫn thực hiện theo qui định
hiện hành cho đến khi có qui định mới của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Qui trình xét duyệt cho vay
sau ngày 01/10/1998, các tổ chức tín dụng phải ban hành ngay hoặc điều chỉnh
quy trình xét duyệt cho vay theo các qui định tại Điều 53, 54,
55 Luật các tổ chức tín dụng.
- Việc bảo đảm tiền vay: Việc bảo
đảm tiền vay vẫn thực hiện theo quy định hiện hành cho đến khi có qui định mới
của Chính phủ.
e) Về hình thức bảo lãnh của các
tổ chức tín dụng: Trong khi chưa có Nghị định về các biện pháp bảo đảm tiền
vay, các tổ chức tín dụng vẫn thực hiện bảo lãnh theo quy định hiện hành.
f) Về "nghiệp vụ quản lý vốn
đầu tư của Tổ chức, cá nhân" theo Điều 72 Luật các tổ chức
tín dụng: Trừ các đơn vị đang thực hiện nghiệp vụ này theo chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng chỉ được thực hiện Nghiệp vụ này khi
có hướng dẫn cụ thể của Ngân hàng Nhà nước.
g) Xử lý các trường hợp "cấm
cho vay" theo qui định tại Điều 77:
- Kể từ ngày 01/10/1998, cần
tuân thủ triệt để quy định tại Điều 77 Luật các Tổ chức tín dụng,
TCTD không được thực hiện những khoản cho vay đối với các
đối tượng đã được quy định tại Điều 77 hoặc dựa vào bảo lãnh của các đối tượng
này để cấp tín dụng.
- Đối với các khoản
cho vay các đối tượng mà theo Luật tổ chức tín dụng bị cấm: Tổ chức tín dụng phải
có biện pháp để xử lý các khoản vay liên quan trong thời hạn
6 tháng kể từ ngày 01/10/1998. Trường hợp không thể xử lý để tuân thủ quy định
của Luật, thì cần điều chỉnh chức danh của những đối tượng thuộc trường hợp quy
định tại Điều 77.
- Đối với các khoản
cho vay có bảo đảm của những đối tượng thuộc Điều 77: Tổ chức tín dụng phải yêu
cầu các bên vay vốn thay thế biện pháp bảo đảm. Trường hợp bên vay không thể
thay thế biện pháp bảo đảm thì trong vòng 6 tháng kể từ ngày 01/10/1998, Tổ chức
tín dụng phải xử lý các khoản vay này hoặc phải điều chỉnh
chức danh của các đối tượng liên quan.
h) Về giới hạn bảo lãnh của tổ
chức tín dụng qui định Điều 79.2: Trước mắt các tổ chức tín dụng vẫn thực hiện
theo qui định của pháp luật hiện hành cho đến khi có qui định mới.
i) Về giới hạn mức góp vốn, mua
cổ phần theo Điều 80: Hiện tại, các tổ chức vẫn thực hiện theo qui định hiện
hành. Tuy nhiên, trong khi chưa đánh giá được giá trị thực có của Vốn tự có, cần
hạn chế việc góp vốn, mua cổ phần.
k) Các quy định về xác định vốn
tự có, các tỷ lệ an toàn: Trước mắt, vẫn áp dụng các qui định hiện hành cho đến
khi Ngân hàng Nhà nước có qui định mới.
l) Các quy định về dự phòng rủi
ro và cách xử lý các khoản tài sản Có chưa được dự phòng:
Về pháp lý, kể từ ngày 01/10/1998, các tổ chức tín dụng "phải" dự
phòng cho các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việc trích chi phí để dự phòng
rủi ro trong hoạt động ngân hàng mới phát sinh từ 01/10/1998 và các khoản bảo hiểm tiền gửi cho các vốn huy động sau ngày 01/10/1998
sẽ được thực hiện theo những hướng dẫn sắp tới.
III. NHỮNG VIỆC CẦN LÀM NGAY:
Các tổ chức tín dụng phải:
a) Rà soát toàn bộ các hoạt động
hiện tại của tổ chức mình, đình chỉ tất cả các hoạt động nào trước đây Tổ chức
tín dụng đã, đang thực hiện nhưng hiện tại theo qui định của hai Luật là không
phù hợp.
b) Rà soát toàn bộ cơ chế hoạt động,
các qui định hướng dẫn nghiệp vụ nội bộ của tổ chức mình nhằm điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành các văn bản khác thay thế để qui định nội bộ phù hợp với các
qui định của Luật.
Trên đây là một số nội dung cần
được lưu ý khi thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín
dụng. Trong quá trình thực hiện hai Luật nếu có vướng mắc đề nghị báo cáo ngay
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để có hướng dẫn.