Kính
gửi: Bộ Tài chính
Phúc đáp Văn bản số
7465/BTC-TCNH ngày 29/7/2022 của quý Bộ về việc vướng mắc trong việc ban hành
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn cấp bù lãi suất thực hiện chính
sách cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) theo Nghị định số
80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Hỗ trợ DNNVV (Nghị định 80), Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:
1. Về quá
trình xây dựng quy định hỗ trợ cấp bù lãi suất cho DNNVV tại Nghị định
80/2021/NĐ-CP
Trong quá trình xây dựng Nghị định
80/2021/NĐ-CP , Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động phối hợp với Bộ Tài chính và
Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) xây dựng các quy định liên quan tới: điều kiện
hỗ trợ, phương thức hỗ trợ (bao gồm phương thức hỗ trợ sau đầu tư), mức hỗ trợ
lãi suất đối với DNNVV (Điều 26, 27 Nghị định 80/2021/NĐ-CP).
Tại Điều 28 của Nghị định, Chính phủ đã giao trách nhiệm cho
Bộ Tài chính trong việc trình Thủ tướng Chính phủ ban hành hướng dẫn chính sách
cấp bù lãi suất đối với khoản vay, thực hiện tạm cấp và quyết toán cấp bù chênh
lệch lãi suất cho các tổ chức tín dụng trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước
giao; đồng thời giao NHNN tổng hợp nhu cầu cấp bù lãi suất của tổ chức tín dụng
đối với các khoản vay cho DNNVV gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp chung vào kế
hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm theo quy định của pháp luật về đầu tư
công. Các nội dung này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, tiếp thu và giải
trình nhiều lần theo ý kiến tham gia của quý Bộ, NHNN và ý kiến chỉ đạo của
Lãnh đạo Chính phủ. Trên cơ sở đó, quý Bộ đã có ý kiến thống nhất thông qua khi
Văn phòng Chính phủ lấy ý kiến Thành viên Chính phủ để ban hành Nghị định.
Theo ý kiến của Bộ Tài chính tại
văn bản số 7465/BTC-TCNH, thẩm quyền ban hành các quy định hướng dẫn hỗ trợ lãi
suất là Chính phủ, do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhất trí đối với đề xuất của Bộ
Tài chính về việc hoàn thiện căn cứ pháp lý đối với nội dung này theo thẩm quyền
của Chính phủ.
2. Về nguồn
kinh phí và việc ban hành hướng dẫn chính sách hỗ trợ lãi suất cho DNNVV
- DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và
DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị là hai đối tượng hỗ trợ trọng
tâm quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên đổi mới sáng tạo; tăng cường kết nối
giữa các khu vực kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp Việt nam tham gia sâu hơn vào chuỗi
giá trị khu vực và toàn cầu. Chính sách hỗ trợ lãi suất cho hai đối tượng này
đã được quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017, tuy nhiên đến nay sau gần 5
năm ban hành Luật, chính sách chưa được cụ thể hóa để tổ chức thực hiện. Đồng
thời, chính sách này cũng khác với chính sách cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế -
xã hội dự kiến thực hiện trong 2 năm 2022 - 2023 theo Nghị quyết số
43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội, Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày
20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp
lý để có thể triển khai được chính sách này trong thời gian tới là cần thiết và
góp phần hiện thực hoá chính sách hỗ trợ quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV trong
thực tiễn.
- Khoản 6 Điều 5
Luật Đầu tư công quy định về đối tượng đầu tư công như sau: “Cấp bù lãi
suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý; cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng chính
sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng
chính sách khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ”.
Căn cứ quy định tại Điều 40 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 của Chính phủ
có quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, việc cấp bù lãi
suất đối với các ngân hàng thương mại thuộc đối tượng đầu tư công được quy định
trong luật.
- Căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều 81 Luật Đầu tư công, Bộ Tài chính có nhiệm vụ: “Chủ
trì trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền quy định về
quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công”. Đồng thời, căn
cứ quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Ngân sách Nhà nước, Bộ
Tài chính có nhiệm vụ: “Xây dựng nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi
thường xuyên của ngân sách nhà nước; các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân
sách, cơ chế quản lý tài chính - ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, thanh
toán, quyết toán, mục lục ngân sách nhà nước, chế độ báo cáo… thống nhất trong
cả nước”. Vì vậy, Bộ Tài chính là cơ quan được giao hướng dẫn về quản lý, thanh
toán, quyết toán chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với
chênh lệch lãi suất thực hiện chính sách cho vay hỗ trợ DNNVV theo Nghị định
80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 là phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
Trên cơ sở đó, đề nghị Bộ Tài
chính báo cáo Chính phủ chủ trương xây dựng Nghị định hướng dẫn chính sách cấp
bù lãi suất cho DNNVV phù hợp với quy định pháp luật hiện hành để có cơ sở triển
khai thực hiện.
- Theo quy định hiện hành, đầu
mỗi kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn 05 năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, bố trí nguồn vốn và kế hoạch vốn khi có đủ
căn cứ pháp lý, quy định về trình tự, thủ tục, cơ chế thực hiện, sau khi đã xác
định được nhu cầu của nhiệm vụ nêu trên. Trong mỗi kỳ kế hoạch đầu tư công
trung hạn, NSTW đều bố trí một khoản dự phòng để xử lý những trường hợp phát
sinh nhưng chưa bố trí được nguồn. Do đó, sau khi cơ chế hướng dẫn chính sách cấp
bù lãi suất được hoàn thiện và căn cứ nhu cầu cấp bù chênh lệch lãi suất cho
vay hỗ trợ DNNVV thông qua Ngân hàng thương mại tại thời điểm đó, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư sẽ phối hợp với Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem
xét, quy định việc sử dụng dự phòng NSTW của kế hoạch đầu tư công trung hạn.
3. Về đề xuất
bổ sung dự toán đầu tư công để thanh toán dứt điểm cho các ngân hàng thương mại
(NHTM) đã thực hiện các chương trình tín dụng chính sách của nhà nước trước đây
nhưng chưa được ngân sách nhà nước (NSNN) thanh toán
Các chương trình cấp bù lãi suất
trước đây qua NHTM chưa đủ cơ sở pháp lý để Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí vốn đầu
tư công thực hiện, cụ thể:
3.1. Cấp
bù lãi suất cho vay giảm tổn thất trong nông nghiệp
- Đối với các chính sách cấp bù
lãi suất cho vay từ 31/12/2020 trở về trước: Tại các Quyết định liên quan của
Thủ tướng Chính phủ[1] không quy định việc bố trí
nguồn vốn đầu tư phát triển (ĐTPT) để thực hiện chính sách cấp bù lãi suất. Đồng
thời, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn và thực hiện
việc cấp bù lãi suất theo quy định của các Quyết định này. Do đó, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chưa đủ cơ sở để báo cáo cấp có thẩm quyền bố trí vốn đầu tư công thực
hiện cấp bù lãi suất cho các NHTM thực hiện cho vay theo chương trình này.
- Đối với các chính sách cấp bù
lãi suất dự kiến phát sinh trong giai đoạn 2021-2025: Quyết định số
68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất
trong nông nghiệp quy định “NSNN chỉ hỗ trợ lãi suất và cấp bù chênh lệch lãi
suất đối với các khoản vay đã ký hợp đồng vay vốn tại các NHTM trước ngày
31/12/2020”, do đó không có cơ sở để thực hiện cấp bù lãi suất trong giai đoạn
2021-2025.
3.2. Cấp
bù lãi suất cho vay nâng cấp, đóng mới tàu cá
Việc bố trí nguồn chi ĐTPT để
thực hiện chính sách cấp bù lãi suất được quy định tại Nghị định số
17/2018/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP) và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Do đó, việc bố trí vốn đầu tư công
để cấp bù lãi suất phát sinh trước ngày 01/01/2018 là không có cơ sở.
Theo quy định tại khoản
19 Điều 1 Nghị định số 17/2018/NĐ-CP: “Thời gian ký kết hợp đồng tín dụng
đóng mới, nâng cấp tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 4 được thực hiện đến hết
ngày 31/12/2017. Trường hợp khoản vay giải ngân sau ngày 31/12/2018 thì lãi suất
cho vay do ngân hàng thương mại và khách hàng tự thỏa thuận phù hợp với quy định
của pháp luật hiện hành”. Do đó, chỉ các khoản vay ký kết hợp đồng tín dụng đến
hết ngày 31/12/2017 mới được xem xét cấp bù lãi suất theo quy định.
Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, bố trí vốn đầu tư công để cấp bù phần
lãi suất (phải cấp bù) phát sinh từ ngày 01/01/2018 cho các hợp đồng được ký kết
đến ngày 31/12/2017. Tuy nhiên, hiện nay NHNN chưa tách các khoản vay theo các
giai đoạn nêu trên[2], do đó chưa đủ cơ sở để bố
trí cấp bù cho chương trình này.
3.3. Cấp
bù lãi suất cho vay nhà ở xã hội
Theo quy định tại Điều
4 Quyết định số 18/2018/QĐ-TTg ngày 02/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ, việc
cấp bù lãi suất cho các NHTM chỉ áp dụng trong giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên,
trong giai đoạn 2016-2020, các NHTM chưa thực hiện giải ngân cho vay theo
chương trình nêu trên, do vậy việc cấp bù trong giai đoạn 2021-2025 là không có
cơ sở cho các NHTM (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự kiến
năm 2020 có phát sinh cấp bù).
3.4. Cấp
bù lãi suất cho vay phát triển trồng rừng
Điểm a khoản 4
Điều 10 Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 của Chính phủ quy định: Bộ
Tài chính có trách nhiệm bố trí ngân sách thực hiện các chính sách quy định tại
Nghị định này. Do đó, việc bố trí vốn đầu tư công để thực hiện cấp bù là chưa
có cơ sở.
3.5. Cấp
bù lãi suất cho vay hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP
ngày 27/12/2008 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn có liên quan không có
quy định về việc bố trí nguồn vốn ĐTPT để thực hiện cấp bù lãi suất cho các
NHTM. Do đó, không có cơ sở để bố trí vốn đầu tư công thực hiện cấp bù lãi suất
cho các NHTM.
3.6. Cấp
bù lãi suất cho vay hỗ trợ thực hiện tổ chức lại sản xuất và chuyển đổi sở hữu
đối với các Công ty, Nhà máy đường
Quyết định số 28/2004/QĐ-TTg
ngày 04/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn có liên quan
không có quy định về việc bố trí nguồn vốn ĐTPT để thực hiện cấp bù lãi suất
cho các NHTM. Do đó, không có cơ sở để bố trí vốn đầu tư công thực hiện cấp bù
lãi suất cho các NHTM.
Căn cứ các thông tin cung cấp
nêu trên, đề nghị Bộ Tài chính điều chỉnh và bổ sung đầy đủ thông tin trong văn
bản báo cáo Chính phủ, đề xuất việc xử lý nội dung này phù hợp với thực tiễn và
quy định pháp luật điều chỉnh chính sách cấp bù lãi suất tương ứng.
Trên đây là ý kiến của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, đề nghị quý Bộ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Vụ THKTQD, Vụ TCTT (Bộ KHĐT);
- NHNN (để p/h);
- Lưu: VT, PTDN(B).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Duy Đông
|
[2] Giai đoạn
các khoản vay phát sinh trước 2018 và từ năm 2018 đến nay