Kính
gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được công
văn số 277/BDN ngày 30/8/2021 của Ban Dân nguyện - Ủy ban thường vụ Quốc hội đề
nghị trả lời kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng gửi tới Quốc hội sau kỳ họp
thứ 1, Quốc hội khóa XV. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư trả lời kiến nghị như sau:
1. Nội dung kiến
nghị (số 02 tại văn bản số 277/BDN): Cử tri đề
nghị nghiên cứu trình, xem xét sửa đổi Luật Đầu tư công theo hướng phân cấp thẩm
quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ODA và vốn
vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài cho người đứng đầu các bộ, ngành trung
ương và địa phương.
Trả lời:
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang
trình Chính phủ xem xét phân cấp phê duyệt/điều chỉnh chủ
trương đầu tư đối với các dự án đầu tư nhóm B và nhóm C (đang tiến hành thủ tục
sửa đổi, bổ sung Điều 17, 25 và 33 Luật Đầu tư công thuộc phạm vi của “Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức
đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp,
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Hải quan, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
và Luật Thi hành án dân sự”). Theo đó: (i) Phân cấp thẩm quyền quyết định chủ
trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ cho người đứng đầu cơ quan chủ quản đối với
dự án đầu tư nhóm B và nhóm C sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà
tài trợ nước ngoài; dự án đầu tư nhóm B và nhóm C sử dụng vốn ODA viện trợ
không hoàn lại; dự án hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các
nhà tài trợ nước ngoài để chuẩn bị dự án đầu tư; (ii) Bổ sung vào cuối khoản 2
Điều 33 Luật Đầu tư công quy định Thủ tướng Chính phủ thông báo dự kiến bổ sung
kế hoạch trung hạn vốn ngân sách trung ương (vốn ODA, vốn vay ưu đãi của nhà
tài trợ nước ngoài) cho Bộ, cơ quan trung ương, địa phương sau khi phê duyệt Đề
xuất dự án đầu tư nhóm B và C sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi làm căn cứ thực
hiện thủ tục thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn.
2. Nội dung 02 kiến
nghị (số 03 và số 05 tại văn bản số 277/BDN):
Nội dung kiến nghị số 03: Theo Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13, các dự án nhóm A do địa phương
quản lý thì Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư; theo quy định của
Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 thì thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư các
dự án nhóm A do địa phương quản lý thuộc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 chưa quy định
đối với các dự án chuyển tiếp thì cấp nào sẽ thực hiện điều chỉnh quyết định đầu
tư. Đề nghị quy định rõ nội dung này.
Nội dung kiến nghị số 05: Tại Điều 89 Luật Đầu tư công quy định đối với dự án khởi công mới
thực hiện trong 02 kỳ kế hoạch đầu tư công
trung hạn liên tiếp, tổng số giá trị tổng mức đầu tư của các chương trình, dự
án phải thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn sau không vượt
quá 20% tổng số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn
giai đoạn trước của Bộ, cơ quan trung ương, địa phương. Tuy nhiên, Luật lại
không quy định mức trần cụ thể đối với từng nguồn vốn đầu tư công (vốn ngân
sách Trung ương trong nước, vốn ODA và vốn vay ưu đãi, vốn ngân sách địa
phương, vốn từ nguồn thu hợp pháp để lại để đầu tư), dẫn đến trường hợp phê duyệt
số giá trị tổng mức đầu tư thực hiện giai đoạn sau vượt quá 20% tổng số một nguồn vốn đầu tư công cụ thể nhưng vẫn nằm trong giới
hạn 20% tổng số tất cả các nguồn vốn. Điều này có thể dẫn đến một số hệ lụy như
tạo áp lực cân đối giai đoạn sau, kéo dài thời gian bố trí vốn thực hiện dự án
trong trường hợp phần giá trị chuyển sang giai đoạn sau để thực hiện tập trung
vào một nguồn vốn đầu tư công cụ thể, đặc biệt là vốn ngân sách Trung ương
trong nước; chưa tính đến tính chất đặc thù của từng nguồn vốn được bố trí theo
cơ chế dự án (ODA, nguồn thu hợp pháp khác). Cử tri đề nghị nghiên cứu trình sửa
đổi nội dung này theo hướng quy định cụ thể áp dụng cho từng nguồn vốn trong
Khoản 2 Điều 89 của Luật Đầu tư công.
Trả lời:
Tại Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày
28/7/2021 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025,
đã giao các bộ, cơ quan trung ương rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy
định của pháp luật về đầu tư công và pháp luật có liên
quan để kịp thời tháo gõ khó khăn, vướng mắc và nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Căn cứ chỉ đạo của Quốc hội trong quá trình triển khai, thực hiện kế hoạch đầu
tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với
các bộ, cơ quan trung ương và địa phương rà soát, tổng hợp các vướng mắc để đề
xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
3. Nội dung kiến
nghị (số 04 tại văn bản số 277/BDN): Tại Điều
55 Luật Đầu tư công về trình tự lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công trung hạn quy định: Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị hướng
dẫn xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn kèm theo dự kiến tổng mức vốn làm
cơ sở cho các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương xây dựng dự kiến kế hoạch, gửi
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Chính phủ. Tuy nhiên, quy trình này bao
gồm rất nhiều quy trình thành phần, dẫn đến việc khó đáp ứng được yêu cầu về tiến
độ, đặc biệt đối với các địa phương (Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải
trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh 02 lần (theo quy định tại khoản 5 và khoản 10
Điều 55) để xin ý kiến về dự kiến kế hoạch trước khi gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư
tổng hợp báo cáo Chính phủ). Cử tri đề nghị nghiên cứu trình sửa đổi quy định
này cho phù hợp.
Trả lời:
Tại khoản 2 Điều 30 của Luật Ngân
sách nhà nước quy định Hội đồng nhân dân các cấp quyết định phân bổ dự toán
ngân sách cấp mình: (i) Tổng số; chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên theo
từng lĩnh vực; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương; dự phòng ngân sách;
(ii) Dự toán chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên của từng cơ quan, đơn vị
thuộc cấp mình theo từng lĩnh vực; (iii) Mức bổ sung cho ngân sách từng địa
phương cấp dưới trực tiếp, gồm bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu.
Tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 19
của Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định trách nhiệm quyền hạn của Hội
đồng nhân dân: (i) Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
trung hạn và hằng năm của tỉnh; quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh
vực trên địa bàn tỉnh trong phạm vi được phân quyền; (ii) Quyết định dự toán
thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và
phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương
trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định
chủ trương đầu tư, chương trình dự án của tỉnh theo quy định của pháp luật.
Do đó, việc xin ý kiến Hội đồng nhân
dân theo quy định của Luật Đầu tư công là phù hợp với quy định của Luật Ngân
sách nhà nước và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
4. Nội dung kiến
nghị (số 06 tại văn bản số 277/BDN): Tại khoản
2 Điều 52 Luật Đầu tư công quy định thời gian bố trí vốn thực hiện dự án nhóm A
không quá 6 năm, nhóm B không quá 4 năm, nhóm C không quá 3 năm. Tại khoản 3 Điều
54 Luật Đầu tư công quy định vốn thực hiện dự án được bố trí để giải phóng mặt bằng, lập thiết kế, dự toán các bước của dự án,
thi công... theo quyết định phê duyệt dự án. Tuy nhiên, các dự án nhóm B và
nhóm C, thời gian bố trí vốn thực hiện bao gồm cả thời gian giải phóng mặt bằng,
dẫn đến áp lực về tiến độ, đặc biệt đối với dự án nhóm B có quy mô, tổng mức đầu
tư lớn. Trình tự, thủ tục lập thiết kế, dự toán các bước của dự án, đấu thầu đối
với nhiều dự án cần nhiều thời gian và cần chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo thuận lợi
cho công tác triển khai thực hiện, thi công dự án sau này. Cử tri đề nghị
nghiên cứu trình, sửa đổi nội dung này theo hướng quy định bố trí vốn cho các dự
án theo 3 giai đoạn: (1) chuẩn bị đầu tư để lập, thẩm định, phê duyệt chủ
trương đầu tư và quyết định đầu tư; (2) chuẩn bị thực hiện dự án để giải phóng
mặt bằng, lập thiết kế (kỹ thuật, bản vẽ thi công), lập dự toán của dự án; (3)
thực hiện dự án để tổ chức thi công. Đồng thời, quy định chỉ bố trí vốn thực hiện
dự án khi đã hoàn thành giai đoạn (1) và (2), nhằm rút ngắn thời gian bố trí vốn
cho giai đoạn thực hiện dự án và tăng hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng giải
ngân không hết kế hoạch vốn được bố trí.
Trả lời:
Việc quy định thời gian bố trí vốn thực
hiện dự án là cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tránh dàn trải, sớm
hoàn thành các dự án đưa vào khai thác, sử dụng.
Luật Đầu tư công chưa có quy định về
tách riêng việc bồi thường, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập
đối với dự án nhóm B, C. Hiện nay, căn cứ Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội
về kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại văn bản số 5318/VPCP-NN ngày 04/8/2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Đề án thí điểm việc tách riêng
công tác hỗ trợ, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư ra khỏi dự án đầu
tư. Trong quá trình xây dựng Đề án, sẽ nghiên cứu các cơ chế, chính sách thí điểm
và xem xét đối tượng áp dụng thí điểm của Đề án, làm cơ sở kiến nghị việc sửa đổi,
bổ sung các chính sách liên quan (nếu cần thiết) nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện
các dự án.
5. Nội dung kiến
nghị (số 07 tại văn bản số 277/BDN): Cử tri đề
nghị nghiên cứu trình quy định rõ trong Luật Đầu tư công các nội dung về công tác bàn giao quản lý khai thác các dự án, công trình sử dụng nguồn
vốn Ngân sách địa phương để triển khai đầu tư xây dựng trên quốc lộ, đường thủy
nội địa trung ương.... do Bộ Giao thông vận tải quản lý.
Trả lời:
Theo quy định tại khoản 9 Điều 9 của
Luật Ngân sách nhà nước "Không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho
nhiệm vụ của cấp khác và không được dùng ngân sách của địa phương này để chi
cho nhiệm vụ của địa phương khác, trừ các trường hợp sau: (i) Ngân sách cấp dưới
hỗ trợ cho các đơn vị thuộc cấp trên quản lý đóng trên địa bàn trong trường hợp
cần khẩn trương huy động lực lượng cấp trên khi xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch
bệnh và các trường hợp cấp thiết khác để bảo đảm ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, an ninh và trật tự, an toàn xã hội của địa phương; (ii) Các đơn vị cấp
trên quản lý đóng trên địa bàn khi thực hiện chức năng của mình, kết hợp thực hiện một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới; (iii) Sử dụng
dự phòng ngân sách địa phương để hỗ trợ các địa phương khác khắc phục hậu quả thiên
tai, thảm họa nghiêm trọng".
Thời gian vừa qua, một số địa phương
đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đầu tư một số công trình hạ tầng của
trung ương (đường quốc lộ, đường cao tốc, đường thủy nội địa) trên địa bàn địa
phương như: đường vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội được giao cho Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội chủ trì báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và đề xuất dự án, Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh triển khai dự án cao tốc Hải Phòng - Hạ Long - Vân
Đồn - Móng Cái, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh triển khai dự án cao tốc
thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đầu tư
QL10...
Việc bàn giao quản lý, khai thác các
dự án công trình sau đầu tư không thuộc phạm vi quản lý, quy định của Luật Đầu
tư công.
Theo quy định tại Nghị định số
33/2019/NĐ-CP ngày 23/4/2019 của Chính phủ về việc quản lý, sử dụng và khai
thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, “Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết
định điều chuyển tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ không thuộc phạm
vi quy định tại điểm a khoản này giữa Bộ Giao thông vận tải và bộ, cơ quan
trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có liên quan” (Khoản 2 Điều 20).
Hiện nay, tại văn bản số
7394/VPCP-KTTH ngày 07/9/2020 Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì
nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi một số quy định pháp lý có liên quan đến quản
lý, điều hành ngân sách nhà nước, trong đó có Luật Ngân sách nhà nước. Theo đó,
trong trường hợp cần thiết, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội có ý kiến với các cơ
quan có thẩm quyền trong việc điều chỉnh các quy định phù hợp.
6. Nội dung kiến
nghị (số 08 tại văn bản số 277/BDN): Cử tri đề
nghị nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Đầu tư công theo hướng tạo điều kiện
thu hút các nguồn vốn hợp pháp như PPP, ODA...; tránh áp lực cho nguồn vốn đầu
tư công do đặc thù các dự án giao thông cần nhu cầu nguồn vốn lớn, thời gian
thu hồi vốn dài.
Trả lời:
Phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư
công quy định việc quản lý nhà nước về đầu tư công; quản lý và sử dụng vốn đầu
tư công; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân
liên quan đến hoạt động đầu tư công. Theo đó, Luật Đầu tư công không quy định về
việc tạo điều kiện hoặc không tạo điều kiện cho thu hút các nguồn vốn hợp pháp
khác như PPP, ODA... Việc thu hút các nguồn vốn hợp pháp như PPP, ODA,... để giảm
áp lực cho ngân sách nhà nước khi thực hiện các dự án giao thông đã được thực
hiện trong thời gian vừa qua, thể hiện trong các quy định về nguyên tắc, tiêu
chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn
trung hạn và khi xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư các dự án,...
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang
trình Chính phủ xem xét phân cấp phê duyệt/điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với
các dự án đầu tư nhóm B và Nhóm C nhằm đơn giản quy trình thủ tục các chương
trình, dự án ODA (đang tiến hành thủ tục sửa đổi, bổ sung Điều 17, 25 và 33 Luật
Đầu tư công thuộc phạm vi của “Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu
thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật
Hải quan, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự”). Đồng thời,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Tờ trình số 6184/TTr-BKHĐT ngày 15/9/2021 trình Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025”.
Đề án này được phê duyệt là sở để các bộ, ngành và địa phương huy động và sử dụng
vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021 -2025 và
làm căn cứ để các nhà tài trợ sử dụng trong quá trình hoạch định chính sách, xây
dựng các chương trình hợp tác phát triển với Việt Nam ở cấp khu vực, quốc gia,
cấp bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trân trọng gửi
Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng để trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban thường vụ Quốc hội (để b/c);
- Ban Dân nguyện (UBTVQH);
- Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ KH&ĐT: Lãnh đạo Bộ; các đơn vị: QLĐT, KTĐP<, KCHT&ĐT, KTĐN
(bản điện tử);
- Sở KH&ĐT thành phố Hải Phòng;
- Lưu: VT, Vụ THKTQD.
|
BỘ
TRƯỞNG
Nguyễn Chí Dũng
|