BỘ TƯ PHÁP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lâp- Tự do- Hạnh phúc
|
Số: 3441/
BTP-CCHC
V/v: Báo cáo
tổng kết CCHC Bộ Tư pháp giai đoạn I
|
Hà Nội, ngày 11 tháng 11
năm 2005
|
Kính gửi
|
- Ban chỉ đạo
cải cách hành chính của chính phủ
|
Thực hiện Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ và hướng
dẫn của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính
(CCHC) của Chính phủ về việc tiến hành tổng
kết giai đoạn I CCHC (2001-2005) và xây dựng Kế
hoạch CCHC giai đoạn II ( 2006-2010), Bộ Tư pháp
đã tổ chức các hoạt động nhằm
phục vụ việc tổng kết CCHC giai đoạn I
của Bộ (như tổ chức khảo sát làm cơ
sở cho việc đánh giá thực trạng CCHC của
Bộ, xây dựng báo cáo Tổng kết).
Bộ Tư pháp xin gửi
Ban Chỉ đạo CCHC của Chính Phủ bản "Báo
cáo tổng kết giai đoạn I cải cách hành chính
của Bộ Tư Pháp ( 2001-2005) và phương
hướng cải cách hành chính giai đoạn II của
Bộ ( 2006-2010)" để tổng hợp, báo cáo
Thủ tướng Chính Phủ.
Xin gửi kèm theo Báo
cáo này các Phụ lục có liên quan (số 01 và 02).
BỘ TƯ PHÁP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lâp- Tự do-
Hạnh phúc
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT
GIAI ĐOẠN I HOẠT ĐỘNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
CỦA BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ GIAI
ĐOẠN II (2006-2010)
(Kèm theo Công văn số 3441/BTP- CCHC ngày 11 tháng 11 năm
2005)
Thực hiện
Chỉ thị số 09/2005/CT-TTg ngày 05 tháng 4 năm 2005
của Thủ tướng Chính phủ và trên cơ sở
hướng dẫn của Ban Chỉ đạo cải
cách hành chính (CCHC) của Chính phủ (Công văn số
01/BCĐCCHC ngày 06 tháng 5 năm 2005), Bộ Tư pháp báo cáo
Tổng kết giai đoạn I CCHC (2001-2005) và xác
định phương hướng CCHC giai đoạn II
của Bộ (2006-2010) như sau:
PHẦN I
BÁO CÁO TỔNG KẾT
GIAI ĐOẠN I CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ TƯ
PHÁP
I. VỀ CẢI CÁCH THỂ
CHẾ
1. Chương trình
đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (sau
đây tạm gọi tắt là Chương trình 909)
Là một trong 07
Chương trình hành động cải cách hành chính ở
cấp quốc gia, được Chính phủ giao cho
Bộ Tư pháp chủ trì nhằm triển khai
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010.
1.1 Về tổ
chức, triển khai thực hiện và kết quả
chính:
Chương trình 909
đã được tổ chức triển khai thực
hiện khẩn trương, nghiêm túc, đúng mục tiêu,
về cơ bản đảm yêu cầu tiến độ
và chất lượng đã được xác định
trong Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.
Thực hiện
nhiệm vụ được giao, ngay trong năm 2003
Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Ban chỉ đạo Chương trình,
xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo và phê
duyệt kế hoạch triển khai cụ thể các
Đề án của Chương trình, phê duyệt Kế
hoạch triển khai các Đề án của Chương
trình (Chương trình gồm 05 Đề án lớn và 21
Tiểu Đề án).
Trên cơ sở
Kế hoạch triển khai đã được phê
duyệt, Bộ Tư pháp đã ký hợp đồng
thực hiện các đề án giữa Ban Chỉ
đạo với Chủ nhiệm các Đề án thuộc
Chương trình. Định kỳ hàng tháng, Ban Chỉ
đạo, Ban Chủ nhiệm các Đề án của
Chương trình tổ chức các buổi làm việc
với Ban chủ nhiệm của từng đề án
thuộc Chương trình để nắm tình hình và
đôn đốc triển khai nhằm đảm bảo
yêu cầu, nội dung và kế hoạch đã đề ra.
Trong quá trình triển khai, các
Đề án đã tổ chức nhiều hoạt
động nghiên cứu, điều tra, khảo sát về
thực trạng quy định của pháp luật cũng
như việc tổ chức thực hiện pháp luật
để từ đó đánh giá các mặt mạnh,
mặt yếu, các hạn chế, tồn tại trong
hoạt động xây dựng và ban hành VBQPPL ở cả
trung ương và địa phương; tìm ra các nguyên nhân
của những hạn chế, tồn tại và đề
xuất các giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm
đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác xây
dựng VBQPPL. Mặt khác, Chương trình đã tổ
chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm
lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các
nhà hoạt động thực tiễn (ở cả trung
ương và địa phương) về các báo cáo đánh
giá cũng như các đề xuất, kiến nghị;
đồng thời tổ chức lấy ý kiến góp ý vào
các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là
kết quả của chương trình.
Đến nay, có
thể tổng kết bước đầu kết
quả triển khai Chương trình với những
kết quả cơ bản như sau:
i) Xây dựng và hoàn
thiện 16 Báo cáo khoa học trong từng lĩnh vực
cụ thể góp phần giải quyết những
những khó khăn, vướng mắc về mặt lý
luận và thực tiễn làm cơ sở xây dựng
dự thảo các đề án, các văn bản quy phạm
pháp luật (Danh mục cụ thể đã có trong Báo cáo
riêng của Chương trình 909).
ii)
Đã nghiên cứu và tổ chức soạn thảo 07
đề án của chương trình và bước
đầu triển khai thí điểm một số
nội dung cụ thể của các Đề án trong
thực tiễn (Danh mục cụ thể đã có trong Báo
cáo riêng của Chương trình 909).
Trên
cơ sở đề xuất của các Đề án, Ban
Chỉ đạo đã lựa chọn một số
nội dung cụ thể để triển khai thí
điểm các mô hình mới áp dụng vào quy trình xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
tại Bộ Tư pháp. Cụ thể: Áp dụng mô hình
mới trong việc lập dự kiến chương trình
xây dựng Luật, Pháp lệnh dài hạn và hàng năm; Thu
hút sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà
hoạt động thực tiễn vào xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật; Lấy ý kiến và tiếp
thu ý kiến của người dân, doanh nghiệp và các
đối tượng chịu sự điều chỉnh
trực tiếp của dự thảo văn bản... khi
xây dựng dự thảo Bộ Luật Thi hành án,
dự thảo Luật về Luật sư, dự thảo
Pháp lệnh lý lịch tư pháp và dự thảo Pháp
lệnh công chứng...;
iii)
Kết quả nghiên cứu của một trong các
Đề án thuộc Chương trình (Đề án 3)
được sử dụng trực tiếp phục
vụ việc xây dựng, hoàn thiện Dự án Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (Quốc hội thông qua
năm 2004) và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật này (đang hoàn thiện để trình ban hành);
iv)
Đã nghiên cứu và đang soạn thảo nhiều
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là
kết quả đầu ra của Chương trình
để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm
nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan nhà nước ở trung
ương và địa phương.
Gồm
04 Dự thảo Nghị định của Chính phủ và
05 dự thảo Quyết định, chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ (Danh mục
cụ thể đã có trong Báo cáo riêng của Chương
trình 909).
v)
Biên soạn tập tài liệu hướng dẫn triển
khai Chương trình 909 và cuốn Cẩm nang công tác xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của địa phương nhằm góp phần tuyên
truyền về Chương trình cải cách hành chính nói
chung và Chương trình 909 nói riêng; tạo thêm công cụ cho
các cán bộ, công chức thực hiện tốt các
nhiệm vụ của mình.[1]
vi) Đã tổ
chức nhiều đợt tập huấn cho các
đối tượng là đại diện của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, cơ quan Tư
pháp và cán bộ trực tiếp xây dựng văn bản
pháp quy những kiến thức và kỹ năng nhất
định về xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật... qua đó nâng cao nhận thức,
năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức
này góp phần triển khai có hiệu quả nhiệm
vụ cải cách hành chính ở địa phương.
vii) Đã trang
bị được một số trang thiết bị
nhằm tạo công cụ hỗ trợ cho hoạt
động quản lý, chỉ đạo, điều hành
của Ban Chỉ đạo Chương trình 909 và nâng cao
năng lực cho các đơn vị trực tiếp
triển khai các Đề án thuộc Chương trình 909
(Bộ Tư pháp, Văn Phòng Chính phủ).
Tóm lại:
Việc triển khai các nội dung của Chương trình
909 đã tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc đưa công tác xây dựng pháp luật vào
nề nếp, đảm bảo tính pháp chế, công khai,
minh bạch hoá trong quy trình lập pháp, lập quy; tạo
cơ chế và điều kiện đẩy nhanh công tác
soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản
một cách đồng bộ, đồng thời góp
phần nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác xây
dựng pháp luật. Với một hệ thống kết
quả đầu ra tương đối đồ
sộ và toàn diện, Chương trình 909 sẽ góp phần
hình thành một quy trình đồng bộ với thủ
tục, trình tự soạn thảo, ban hành văn bản
QPPL khoa học, hợp lý, dân chủ, hiệu quả, tác
động tích cực đến việc phát triển nhanh
về kinh tế, xã hội, về cải cách hành chính,
cải cách tư pháp ở nước ta trên cơ sở
các Luật ban hành văn bản quy phạm hiện hành;
mặt khác, hệ thống các nghiên cứu, kiến
nghị của Chương trình là cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc đổi mới toàn
diện tư duy lập pháp trong giai đoạn tới, mà
kết quả là việc ban hành Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật thống nhất (trong giai
đoạn 2006 - 2010).
1.2. Bài học kinh nghiệm
Qua 2 năm
triển khai Chương trình đổi mới công tác xây
dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản
quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp rút ra một số
bài học cụ thể như sau:
i) Cần có
sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ban Chỉ
đạo cải cách hành chính của Chính phủ và
nhất là cần có sự quyết tâm và chỉ đạo
quyết liệt ở cấp Lãnh đạo cao nhất
của các Bộ, ngành chủ trì thực hiện
chương trình. Đây là yếu tố quan trọng
nhất để công tác cải cách hành chính thành công;
ii) Kế
hoạch triển khai cần phải rõ về mục tiêu,
cụ thể về hoạt động và xác định
rõ về tiến độ, kết quả đầu ra. Có
như vậy mới có cơ sở tiến hành hoạt
động chỉ đạo, kiểm tra, đôn
đốc, đánh giá hiệu qủa các đề án
thuộc chương trình. Đồng thời cần
tổ chức tốt đơn vị làm nhiệm vụ
thường trực cho Ban Chỉ đạo để
trực tiếp, thường xuyên đôn đốc,
tổng hợp tình hình.
iii) Cần
đưa các nội dung, kế hoạch hoạt
động của Chương trình thành các nhiệm vụ
trọng tâm hàng năm của Bộ, ngành và coi các kết
quả đầu ra của Chương trình thành chỉ
tiêu hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị.
iv) Để
hoạt động của các chương trình đạt
kết quả thì cơ chế phối hợp
đồng bộ, có hiệu qủa giữa các cơ
quan bộ, ngành và ngay trong chính các đơn vị là yêu
cầu then chốt và cấp bách...
2. Cải cách thể
chế trong phạm vi lĩnh vực quản lý của
Bộ Tư pháp
2.1 Hệ thống các
thể chế đã được xây dựng trình cấp
có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền
Trong giai đoạn
2001- 2005, Bộ Tư pháp được giao chủ trì xây
dựng nhiều dự án luật, pháp lệnh, như:
Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (2002); Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân(2004); Bộ Luật dân sự (2005); Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính (2002), Pháp lệnh thi hành án dân
sự (2004); Pháp lệnh giám định tư pháp( 2004) …
cùng nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật (QPPL) quan trọng trình Chính phủ ban hành trong
nhiều lĩnh vực khác nhau thuộc phạm vi
được giao. Bên cạnh đó, Bộ đã ban hành
khá nhiều văn bản QPPL thuộc thẩm quyền
quản lý nhà nước của Bộ. Theo thống kê ban
đầu, giai đoạn 2001-2005, không tính các văn
bản ở lĩnh vực hình sự thì số văn
bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp
được giao chủ trì soạn thảo trình ban hành và
ban hành theo thẩm quyền là 105 văn bản
(đã ban hành), tập trung vào lĩnh vực kinh tế và
hành chính. Hiện nay Bộ đang được giao
chủ trì soạn thảo 09 Dự án Luật (Bộ
Luật Thi hành án, Bộ Luật xử lý vi phạm hành
chính; Luật Đăng ký bất động sản;
Luật về Luật sư; Luật về bồi
thường nhà nước, Luật công chứng, Luật
về tương trợ tư pháp, Luật về trợ
giúp pháp lý, Luật về lý lịch tư pháp), khoảng 15
pháp lệnh và hàng chục dự thảo Nghị
định của Chính phủ.
Các yêu cầu về
cải cách thể chế đã được thể
hiện tương đối rõ nét trong nội dung của
hầu hết những dự án/ dự thảo văn
bản QPPL do Bộ soạn thảo để trình ban hành
hoặc tự ban hành theo thẩm quyền. Cụ thể
như sau:
a. Các thể
chế kinh tế, dân sự
i) Kịp thời
thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng,
đồng thời cụ thể hoá Hiến pháp 1992
(sửa đổi), Bộ Tư pháp đã được
giao chủ trì xây dựng Dự án Bộ Luật Dân
sự (được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng
6 năm 2005).
Bên cạnh đó,
Bộ cũng đang chủ trì soạn thảo Dự án
Nghị quyết của Uỷ ban Thường Vụ
Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở
có yếu tố nước ngoài được xác lập
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
sở hữu nhà ở, quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia giao dịch, bảo vệ lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, đáp ứng các yêu
cầu đặt ra đối với nhà ở thuộc
sở hữu tư nhân được xác lập
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991. Nội dung của
Dự án thể hiện khá rõ tinh thần cải cách hành
chính, các trình tự, thủ tục được xây
dựng theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận
tiện cho các bên tham gia giao dịch.
b. Các thể chế
hành chính:
Việc xây dựng,
hoàn thiện các thể chế về hành chính là một trong
những nhiệm vụ quan trọng và được xem
là một trong những thế mạnh của Bộ Tư
pháp trong 5 năm vừa qua. Trong thời gian từ 2001-2005
Bộ được giao chủ trì soạn thảo
một số lượng đáng kể các dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo văn bản QPPL
cũng như đã ban hành nhiều văn bản QPPL trong
lĩnh vực này. Đây cũng là lĩnh vực mà tinh
thần cải cách hành chính được thể hiện
rõ nét nhất thông qua nội dung của các văn bản
đã được ban hành và đang được
soạn thảo.
Thứ nhất, các thể chế
về quy trình, thủ tục soạn thảo, ban hành
văn bản QPPL
Trong giai đoạn
2001- 2005, Bộ được giao chủ trì soạn
thảo trình ban hành hai Dự án Luật quan trọng là
Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản QPPL
(Quốc hội thông qua năm 2002), Luật ban hành văn
bản QPPL của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân (Quốc hội thông qua năm 2004). Đây là hai
đạo luật quan trọng nhằm hình thành và hoàn
thiện cơ chế soạn thảo, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật đồng bộ ở
cả trung ương lẫn địa phương, góp
phần đẩy nhanh tiến độ soạn thảo,
nâng cao chất lượng các dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung của hai
đạo luật đã đáp ứng ở mức
độ nhất định những yêu cầu của
cải cách hành chính nhà nước, đặc biệt là
cải cách thể chế thông qua một loạt các quy
định theo hướng: đổi mới
phương thức, quy trình xây dựng pháp luật từ
khâu đầu cho đến khâu Chính phủ xem xét,
quyết định hoặc thông qua để trình Quốc
hội; tăng cường trách nhiệm, năng lực
của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung
ương và địa phương trong việc xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
tạo cơ chế huy động sự tham gia, lấy ý
kiến đóng góp của nhân dân, đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp của
văn bản trong quá trình soạn thảo dự án, dự
thảo văn bản QPPL; tăng cường việc
đảm bảo tính công khai, minh bạch của các văn
bản QPPL sau khi ban hành,…
Hiện nay, Bộ
Tư pháp đang được giao chủ trì soạn
thảo để trình ban hành một loạt các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật như Nghị định
thay thế Nghị định 101; các Dự thảo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động
của Ban soạn thảo, Quy chế thẩm định
dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật; Nghị định quy định chi tiết thi
hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,…
Thứ hai, thể chế
về tổ chức bộ máy nhà nước:
Cùng với việc
trình Chính phủ ban hành Nghị định số
62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp đã trình Đề án
về tổ chức Pháp chế Bộ, ngành và trình Chính
phủ ban hành Nghị định của Chính phủ
số 122/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2004 quy định
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ
chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và doanh
nghiệp nhà nước (thay thế Nghị định
94). Để hướng dẫn thi hành các Nghị
định số 62 và 122 nói trên, Bộ cũng đã
phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành các Thông
tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản
lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa
phương; Thông tư liên tịch hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định
122 (Thông tư liên tịch số 01/2005/ TTLT-BTP- BNV) và ban hành
một Thông tư khác tiếp tục hướng dẫn
thi hành một số nội dung của Nghị định
122 ( số 07/2005/TT-BTP ngày 31/8/2005). Những văn bản
nói trên đã thực sự tạo cơ sở pháp lý
cần thiết nhằm kiện toàn tổ chức,
tăng cường đội ngũ cán bộ của các
cơ quan tư pháp địa phương; kiện toàn
tổ chức bộ máy của các tổ chức pháp
chế các Bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp nhà nước.
Thứ ba, các thể chế
trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính:
Trong giai đoạn
2001-2005, Bộ được giao chủ trì soạn
thảo trình ban hành 01 Pháp lệnh và 03 Nghị định
về xử lý vi phạm hành chính, trong đó Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính (2002) đóng vai trò rất quan
trọng trong hệ thống thể chế về xử lý
vi phạm hành chính, vì nó được xem là văn bản
gốc, hình thành khung pháp lý cho việc ban hành các Nghị
định của Chính phủ về xử lý vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt
động quản lý nhà nước.Nhiều quy
định trong Pháp lệnh 2002 (cả về thẩm
quyền xử lý lẫn trình tự thủ tục xử
lý vi phạm) đã có những đổi mới quan
trọng so với Pháp lệnh cũ 1995, thể hiện
được tinh thần cải cách hành chính nhà nước,
góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, thực
sự tạo ra những chuyển biến trong công tác
đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật hành
chính.Ví dụ như Pháp lệnh được quy
định theo hướng đẩy mạnh phân cấp
cho chính quyền cơ sở về thẩm quyền áp
dụng một số biện pháp xử lý hành chính khác;
tăng thẩm quyền xử phạt của thanh tra chuyên
ngành nhằm tạo ra sự phân định hợp lý
về thẩm quyền xử phạt hành chính giữa
cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành;
quy định các thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính, thủ tục xử lý tang vật vi phạm hành
chính theo hướng đơn giản hơn, phù hợp
với yêu cầu thực tiễn cuộc sống,…
Thứ tư, các thể chế
trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Bộ Tư pháp đã được giao
chủ trì soạn thảo để trình ban hành một
số dự án, dự thảo văn bản QPPL mới
trong lĩnh vực này như: Pháp lệnh thi hành án dân
sự sửa đổi (Pháp lệnh này đã
được Uỷ ban thường vụ Quốc
hội thông qua ngày 14 tháng 01 năm 2004). Để
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này, Bộ Tư pháp
chủ trì soạn thảo và trình Chính Phủ ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như:
Nghị định số 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9
năm 2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá
quyền sử dụng đất để đảm
bảo thi hành án; Nghị định số 173/2004/NĐ-CP
ngày 30 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định
về thủ tục cưỡng chế và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự;
Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005
của Chính phủ quy định về cơ quan quản
lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán
bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự và hàng
loạt các văn bản hướng dẫn thi hành… Đây
là các văn bản hết sức quan trọng và
bước đầu giải quyết được
rất nhiều các vấn đề có liên quan đến
cải cách hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Trong đó, đã thể hiện một cách rõ nét nhất
sự sửa đổi, bổ sung các quy định
về thi hành án dân sự cho phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế-xã hội của đất
nước, với tiến trình cải cách tư pháp và
cải cách hành chính hiện nay. Đặc biệt, các
văn bản nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc giải quyết án tồn đọng là vấn
đề nhức nhối, kéo dài trong nhiều năm qua.
Nhiều quy trình, thủ tục đã được
sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn
giản, thuận lợi, hợp lý hơn; nhiều
điều khoản được quy định theo
hướng nâng cao hiệu quả cơ chế
phối hợp giữa Bộ Tư pháp với cơ
quan quản lý nhà nước về công tác thi hành án ở
địa phương...
Về lâu dài, Bộ Tư pháp đang phối
hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu
việc thực hiện thống nhất quản lý công tác
thi hành án về một đầu mối theo tinh thần
các Nghị quyết của Đảng để thể
hiện trong dự án Bộ Luật Thi hành án.
Thứ năm, các thể chế
trong lĩnh vực hành chính tư pháp
i) Thực hiện
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Chỉ thị
số 10 của Thủ tướng Chính phủ triển
khai thực hiện Nghị quyết nêu trên, Bộ Tư
pháp đã và đang triển khai xây dựng Dự án Pháp
lệnh công chứng và Đề án xã hội hóa hoạt
động công chứng. Đây là những vấn
đề có tính chất đột phá chiến lược
trong lĩnh vực công chứng theo tinh thần cải cách
hành chính, cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Pháp
lệnh công chứng được xây dựng trên tinh
thần xem xét, xác định lại bản chất,
chức năng, phạm vi của hoạt động công
chứng, phân biệt rõ hoạt động công chứng của
Phòng công chứng và hoạt động chứng thực
của UBND, từ đó nghiên cứu chuyển giao các
việc chứng thực bản sao, giấy tờ cho UBND
cấp cơ sở; Phòng công chứng tập trung vào
hoạt động công chứng hợp đồng, giao
dịch.Vừa qua, Chính phủ đã quyết định
đề nghị Quốc hội ban hành Luật Công
chứng để nâng cao hiệu lực và giá trị pháp
lý của văn bản. Bên cạnh đó, Đề án xã
hội hóa hoạt động công chứng cũng tập
trung nghiên cứu xây dựng mô hình các Phòng công chứng theo
hướng xã hội hóa, chuyển các Phòng công chứng sang
chế độ tự trang trải về tài chính,
giảm bớt biên chế theo hướng tổ chức
các Phòng công chứng gọn nhẹ, đồng thời xây
dựng lộ trình cho việc hình thành các văn phòng công
chứng tự hoạt động theo chế độ,
tổ chức hành nghề tự do.
Để bảo
đảm tính pháp lý chặt chẽ trong hoạt
động công chứng các hợp đồng, giao
dịch, góp phần cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực công chứng, tạo điều kiện xây
dựng bộ mẫu điện tử áp dụng trong tin
học hóa công chứng, Bộ Tư pháp đang phối
hợp với Bộ tài nguyên và Môi trường tập
trung soạn thảo bộ mẫu các hợp đồng,
giao dịch về nhà, đất để ban hành thống
nhất trong cả nước. Đến nay, dự
thảo bộ mẫu hợp đồng đã qua
nhiều lần thảo luận, góp ý của các Phòng công
chứng và các Bộ, ngành có liên quan và đang
được hoàn chỉnh để trình ban hành.
ii) Bộ Tư pháp
đã soạn thảo và trình Chính phủ dự thảo
Nghị định thay thế Nghị định số
83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch, Nghị
định sửa đổi Nghị định số 68
về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong
dự thảo Nghị định mới đã thể
hiện tinh thần kiên quyết cải cách hành chính theo
hướng: phân cấp mạnh mẽ cho chính quyền
cơ sở, đơn giản hóa, công khai hóa các thủ
tục giấy tờ để tạo thuận tiện và
khuyến khích người dân đăng ký hộ tịch;
quy định rõ trách nhiệm cá nhân của người
đứng đầu các cấp chính quyền địa
phương và của cán bộ làm công tác hộ tịch
trong việc để xảy ra sai phạm, tiêu cực
trong công tác hộ tịch.
Thứ sáu, các thể chế
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp
* Về lĩnh
vực quản lý luật sư
Bộ Tư pháp
đã được giao chủ trì xây dựng Dự án Pháp
lệnh luật sư (Uỷ ban Thường Vụ
Quốc hội thông qua 25/7/2001), thay thế Pháp lệnh Luật
sư năm 1987. Sự ra đời của Pháp lệnh
Luật sư 2001 là một bước tiến quan
trọng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện
hệ thống thể chế quản lý luật sư và
hành nghề luật sư ở nước ta.
Trong 4 năm thi hành
Pháp lệnh luật sư năm 2001, Bộ đã chủ
trì soạn thảo trình Chính phủ ban hành hai Nghị
định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh và
ban hành 03 Thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành
Pháp lệnh, Nghị định nói trên. Các văn bản
trên đã tác động tích cực trong việc củng
cố tổ chức và hoạt động của các
đoàn luật sư, các luật sư theo pháp lệnh
mới, khắc phục được những hạn
chế của Pháp lệnh luật sư năm 1987 như
trong trường hợp luật sư tham gia tiến hành
tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng, thủ tục tham gia tố tụng của
luật sư, chế độ thù lao và chi phí cho luật
sư, chế độ nộp thuế đối với
luật sư v.v….
*/ Về lĩnh vực
quản lý hành nghề của luật sư nước
ngoài tại Việt Nam
Trong lĩnh vực
này, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 87/2003/NĐ-CP và ban hành Thông tư
hướng dẫn thi hành Nghị định 87 (số
06/2003/TT-BTP). So với quy định trước đó,
những văn bản này đã có những quy định
khá đầy đủ và rõ ràng về trình tự, thủ
tục, đồng thời ban hành kèm theo nhiều biểu
mẫu chi tiết, vì vậy đã góp phần tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ
chức luật sư nước ngoài, luật sư
nước ngoài trong hoạt động hành nghề
tại Việt Nam, phục vụ thiết thực cho công
tác quản lý của các cơ quan chức năng ở trung
ương ,địa phương cũng như đáp
ứng yêu cầu về hội nhập.Ví dụ như:
Mở rộng hình thức hành nghề cho tổ chức
luật sư nước ngoài; mở rộng phạm vi,
lĩnh vực tư vấn pháp luật và quyền của
tổ chức luật sư nước ngoài hành nghề
tại Việt Nam; giảm bớt một số
điều kiện, giấy tờ không cần thiết
đối với tổ chức luật sư nước
ngoài khi nộp hồ sơ xin cấp phép,…
Hiện nay, Bộ
Tư pháp đang được giao chủ trì soạn
thảo Dự án Luật về Luật sư, điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của
Luật sư Việt nam và Luật sư nước n goài
tại Việt Nam trong điều kiện cải cách
tư pháp và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
*/ Về lĩnh
vực trọng tài thương mại
Nghị định
số 25/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 2004 (do Bộ Tư
pháp được phân công chủ trì soạn thảo, trình
ban hành) đã có những quy định mới nhằm
giảm bớt điều kiện, thủ tục hành chính
trong lĩnh vực này, như: Bỏ quy định về
cấp thẻ trọng tài viên trước đây; giảm
bớt điều kiện nhằm mở rộng
đối tượng được trở thành
trọng tài viên; Thống nhất một đầu mối
cấp phép thành lập và quản lý hoạt động
của Trung tâm Trọng tài thuộc thẩm quyền
của Bộ Tư pháp (trước đây là do UBND cấp
tỉnh cấp Giấy phép thành lập, Bộ Tư pháp
theo dõi, quản lý),...
Bộ cũng đã
kịp thời ban hành các biểu mẫu Giấy phép thành
lập trung tâm Trọng tài, Giấy đăng ký hoạt
động của Trung tâm Trọng tài giúp cho các Sở
Tư pháp địa phương thực hiện nhanh chóng
thủ tục đăng ký hoạt động của
Trung tâm trọng tài.
*/ Về bán
đấu giá tài sản:
Bộ Tư pháp
đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số
05/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2005 thay thế Nghị
định số 86/CP của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản.
Nghị định
số 05/2005NĐ-CP đã đẩy mạnh và xã hội
hoá một bước quan trọng hoạt động bán
đấu giá tài sản, khuyến khích, tạo điều
kiện thu hút các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau đủ điều kiện
tham gia lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Đây là
điểm khác biệt và tiến bộ hơn hẳn
Nghị định số 86/CP.Bên cạnh đó, Nghị
định số 05/NĐ-CP của Chính phủ đã quán
triệt chủ trương cải cách hành chính của nhà
nước là bảo đảm bộ máy sắp xếp
một cách gọn nhẹ, giảm đến mức
tối đa tình trạng có nhiều cơ quan có chức
năng bán đấu giá cần tập trung việc bán
đấu giá tài sản vào một đầu mối.
Thứ bảy, các thể chế
trong các lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ
i) Về lĩnh
vực đăng ký bất động sản:
Trong giai đoạn
từ 2002 đến 2005, Bộ được giao chủ
trì xây dựng Pháp lệnh đăng ký giao dịch bảo
đảm (dự kiến trình Chính phủ vào cuối 2005)
và Luật Đăng ký bất động sản (dự
kiến trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 9,
2006). Đây là hai dự thảo văn bản quan trọng
góp phần vào việc thực hiện mục tiêu xây
dựng và hoàn thiện thiết chế đăng ký và công
bố công khai các quyền về tài sản, tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước
đối với bất động sản và thị
trường bất động sản,công khai, minh bạch
hoá các thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản,
góp phần hạn chế những rủi ro và tranh chấp
cho các chủ thể khi xác lập và thực hiện các giao
dịch dân sự, kinh tế,…
Trên cơ sở
tiếp thu các ý kiến nhân dân, ý kiến của các nhà khoa
học, các chuyên gia,… trong quá trình soạn thảo, nội
dung của hai Dự án nói trên đã được xây dựng
theo hướng thể hiện rõ tinh thần cải cách
hành chính- một giấy, một cơ quan đăng ký và
quản lý. Hiện nay, dự án Luật này đang còn có ý
kiến khác nhau về đối tượng điều
chỉnh, cơ quan quản lý và các loại bất
động sản phải đăng ký.
ii) Về
lĩnh vực trợ giúp pháp lý:
Trên cơ sở
đẩy mạnh hoạt động rà soát các văn
bản QPPL trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đặc
biệt là các quy định về kiện toàn hệ
thống bộ máy tổ chức trợ giúp pháp lý; các quy
định về trình tự, thủ tục hành chính liên
quan trực tiếp đến đối tượng
được trợ giúp, để khắc phục
những bất cập về thể chế trợ giúp
pháp lý, trong những năm từ 2002 đến 2005, Bộ
Tư pháp đã ban hành, phối hợp ban hành 07 văn
bản QPPL về trợ giúp pháp lý. Hiện nay, Bộ
đang khẩn trương hoàn chỉnh việc soạn
thảo Dự án Luật trợ giúp pháp lý và Dự thảo
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật này.
Nhìn chung các thể
chế về trợ giúp pháp lý đã được ban hành
kịp thời, đáp ứng các yêu cầu thực
tiễn, quy định tương đối đầy đủ
các vấn đề có liên quan như: Bộ máy tổ
chức, người thực hiện trợ giúp pháp lý;
đối tượng được hưởng trợ
giúp pháp lý; trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý. Tuy
nhiên, một số trình tự, thủ tục hành chính
về trợ giúp pháp lý còn gây phiền hà cho đối
tượng trợ giúp pháp lý và mất nhiều thời
gian cho cộng tác viên khi thanh toán,…Trong thời gian tới,
Bộ sẽ tăng cường rà soát các văn bản
trong lĩnh vực này, nghiên cứu đề xuất
sửa đổi, bổ sung (hoặc tự sửa
đổi, bổ sung theo thẩm quyền) các văn
bản pháp luật có liên quan đến trợ giúp pháp lý
nói chung và trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý nói
riêng để có thể vừa thuận tiện cho
người dân, đồng thời đảm bảo
sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực
này.
Nhận định chung, các văn bản
QPPL do Bộ Tư pháp được giao chủ trì
soạn thảo để trình Chính phủ, Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban
hành hoặc do Bộ chủ động ban hành theo thẩm
quyền đều có tác động kinh tế- xã hội
tích cực.
Các văn bản có giá trị pháp lý cao
được Quốc hội, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thông qua như: Bộ luật,
luật, pháp lệnh, nghị quyết đã tạo cơ
sở pháp lý quan trọng, có giá trị định
hướng về quan điểm xử lý, phạm vi
điều chỉnh, đặc biệt là đã cơ
bản tháo gỡ được những ách tắc,
vướng mắc lâu nay mà các quy định trước
đây chưa có hoặc không có điều kiện giải
quyết, đáp ứng được đòi hỏi
của thực tiễn, phù hợp với tiến trình phát
triển của đất nước.
2.2 Công tác rà soát
văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ
tục hành chính:
Để xây dựng và hoàn
thiện thể chế trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi thẩm quyền được giao, công tác rà
soát văn bản quy phạm pháp luật của Bộ
Tư pháp luôn đóng vai trò quan trọng nhằm loại
bỏ, sửa đổi, bổ sung những quy
định bất hợp lý, không còn phù hợp đòi
hỏi với đời sống kinh tế- xã hội trong
từng lĩnh vực. Đây là bước không thể thiếu
trong quá trình soạn thảo các dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật do Bộ
được giao chủ trì.
Việc đổi
mới,đơn giản hoá và hoàn thiện các thủ
tục hành chính trong các dự án, dự thảo văn
bản QPPL trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
của Bộ Tư pháp được thực hiện
thông qua hai phương thức chủ yếu là:
- Thông qua hoạt động rà
soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành;
- Thông qua hoạt động
điều tra dư luận xã hội về thủ
tục hành chính.
Thời gian vừa qua Bộ
Tư pháp đã tập trung vào việc rà soát văn bản
quy phạm pháp luật, các thủ tục hành chính trong
một số mảng như sau:
a. Đẩy mạnh rà soát văn
bản, thủ tục hành chính trong các lĩnh vực công
chứng; hộ tịch; thi hành án; bán đấu giá tài
sản và trợ giúp pháp lý
Hướng tới việc hình
thành một hệ thống thủ tục hành chính
đơn giản, gọn nhẹ, thuận tiện cho công
dân, tổ chức trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ Tư pháp, theo đúng yêu cầu
của cải cách hành chính, trong nội dung Kế hoạch
CCHC năm 2004 và 2005 của Bộ Tư pháp đã
đề ra yêu cầu tập trung vào việc nghiên cứu,
rà soát các thủ tục hành chính được quy
định trong các văn bản pháp luật hiện hành
thuộc 05 lĩnh vực quản lý nhà nước của
ngành như: Công chứng; hộ tịch; thi hành án; bán
đấu giá tài sản và trợ giúp pháp lý nhằm
sửa đổi, bổ sung (hoặc kiến nghị
sửa đổi bổ sung) các văn bản quy phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền (hoặc chủ trì
xây dựng để trình ban hành) có chứa đựng
những thủ tục hành chính rườm rà, bất
hợp lý và nhằm kịp thời chấn chỉnh, tháo
gỡ những vướng mắc trong quá trình thi hành các thủ
tục hành chính trong các lĩnh vực nói trên. Bên cạnh
việc tổ chức rà soát các thủ tục hành chính trong
các văn bản hiện hành thuộc 05 lĩnh vực nói
trên, Bộ còn chú trọng triển khai các hoạt
động điều tra dư luận xã hội nhằm
đánh giá về các thủ tục hành chính trong một
số lĩnh vực.
Kết quả của việc
điều tra dư luận xã hội là:Nhiều ý kiến
đóng góp xác đáng của nhân dân, đại diện doanh
nghiệp, các cán bộ Tư pháp địa phương và
của các cơ quan hữu quan về những bất
hợp lý trong các quy định về thủ tục hành
chính và những vướng mắc, khó khăn trong quá trình
thực hiện các thủ tục hành chính được
xem là những thông tin hết sức cần thiết
nhằm góp phần vào quá trình sửa đổi, bổ
sung, xây dựng và hoàn thiện các thủ tục hành chính
trong một số văn bản quy phạm pháp luật
thuộc năm lĩnh vực Công chứng; hộ tịch;
thi hành án; bán đấu giá tài sản và trợ giúp pháp lý[2]
Riêng trong lĩnh
vực đăng ký và quản lý hộ tịch- là lĩnh
vực mà các văn bản QPPL chứa đựng rất
nhiều thủ tục hành chính liên quan trực tiếp
đến dân, Bộ Tư pháp đã tiến hành
điều tra thử đối với đối
tượng là cán bộ làm công tác hộ tịch tại
một số Sở Tư pháp, UBND cấp huyện, UBND
cấp xã tại Hội nghị đóng góp ý kiến vào
Dự thảo Nghị định hộ tịch mới.
b. Tăng cường rà
soát văn bản QPPL phục vụ hội nhập kinh
tế quốc tế
Thực hiện
Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị
về chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, Nghị quyết số 48/2001/QH10 của
Quốc hội về phê chuẩn Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và thực
hiện nhiệm vụ được Thủ tướng
Chính phủ giao (tại Quyết định số
35/QĐ-TTg ngày 12/3/2002 và Quyết định số
37/QĐ-TTg ngày 14/3/2002) Bộ Tư pháp đã phối
hợp với các bộ, ngành liên quan tiến hành rà soát,
đối chiếu các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam với các Hiệp định
của tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ (BTA). Kết quả rà soát 148 văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan trực tiếp, Bộ Tư
pháp đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung 24
văn bản (trong đó có 8 luật, 3 pháp lệnh), ban hành
mới 39 văn bản (có 8 luật, 11 pháp lệnh), 6
điều ước quốc tế. Kết quả rà soát
này đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
Riêng năm 2003 Bộ
Tư pháp đã rà soát 263 văn bản quy phạm pháp
luật liên quan trực tiếp đến các quy
định của WTO, Bộ đã kiến nghị,
sửa đổi, bổ sung 52 văn bản (trong đó có
14 luật, 9 pháp lệnh) ban hành mới 42 văn bản (có
14 luật, 6 pháp lệnh).
Bộ Tư pháp
cũng đã hướng dẫn, chỉ đạo các
địa phương tiến hành rà soát các văn bản
QPPL do địa phương ban hành; tổ chức 2
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ rà soát VBQPPL
phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế
tại 2 miền cho các Sở Tư pháp. Theo kế
hoạch, Quý III/2005 sẽ tiếp tục tổ chức 3
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về rà soát
tại 3 miền Bắc, Trung, Nam và phổ biến kiến
thức về hội nhập kinh tế quốc tế cho
cán Bộ Tư pháp điạ phương.
Thông qua các
phương thức rà soát khác nhau nói trên, kết quả là,
tính từ năm 2001 đến 2005, theo thống kê sơ
bộ, trong số gần năm trăm văn bản
QPPL đã được rà soát và có kiến nghị sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc tự sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ có 188 văn
bản đề nghị cấp trên sửa đổi, bãi
bỏ hoặc ban hành mới (những văn bản từ
Nghị định trở lên). Số lượng các
thủ tục hành chính qua rà soát là 88 loại
thủ tục khác nhau, trong đó có 48 thủ tục
đề nghị cấp trên sửa đổi hoặc bãi
bỏ (Có Phụ lục 1 kèm theo Báo cáo).
2.3. Đánh giá thực
trạng triển khai thực hiện cơ chế “
một cửa’
a. Tình hình triển
khai:
Thứ nhất: Lĩnh vực hành
chính tư pháp
Thực hiện
Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003
của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp
đã đưa các hoạt động nghiên cúu triển
khai thực hiện cơ chế “ một cửa” trong
một số lĩnh vực quản lý nhà nước
của Bộ như công chứng, hộ tịch, bán
đấu giá tài sản,… vào kế hoạch CCHC của
Bộ trong hai năm liên tiếp (2004-2005). Các hoạt
động này được triển khai dưới hình
thức xây dựng các Đề án, tổ chức hội
nghị sơ kết, triển khai thực hiện mô hình
thí điểm,… Cụ thể như sau:
i) Xây dựng
Đề án triển khai thực hiện Quy chế
“một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước
địa phương trong lĩnh vực hành chính tư
pháp
ii) Để áp
dụng thống nhất thủ tục hành chính một
cửa trong toàn quốc, Bộ đã chỉ đạo
việc khảo sát thực tế một số địa
phương, tổ chức tọa đàm và đã có công
văn yêu cầu các Sở Tư pháp báo cáo tình hình,
đề xuất các vấn đề, để trên
cơ sở đó xây dựng Đề án chung về
thủ tục hành chính “một cửa”.
iii) Hiện nay đã
có khoảng trên 40 địa phương áp dụng quy
chế “một cửa” trong lĩnh vực công chứng,
hộ tịch. Một số địa phương chưa
áp dụng[3] quy
chế này, phần lớn tập trung ở khu vực
miền núi như các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái,
Hà Giang… Tại nhiều địa phương, UBND
tỉnh, thành phố đã ban hành quyết định phê
duyệt đề án thực hiện cơ chế “một
cửa” trong lĩnh vực công chứng, hộ tịch,
như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Kiên Giang…
Thứ hai: Lĩnh vực bán
đấu giá tài sản
Tiếp theo các
hoạt động điều tra khảo sát về
thủ tục hành chính được tiến hành năm
2004 đầu năm 2005, theo kế hoạch CCHC 2005,
Bộ Tư pháp tổ chức triển khai thí điểm
mô hình một cửa trong lĩnh vực bán đấu giá
tài sản tại một số tỉnh như Yên bái,
Nghệ an, Đà nẵng, Cần Thơ, An Giang,…
b.Những thành công và
khó khăn, tồn tại trong việc bước
đầu áp dụng cơ chế “một cửa”:
* Một số thành
công :
i) Lĩnh vực hành
chính tư pháp (hộ tịch, công chứng, chứng
thực, lý lịch tư pháp)
Tại Sở Tư
pháp và UBND cấp huyện, việc áp dụng cơ chế
“một cửa” đã tạo sự chuyển biến
cơ bản trong giải quyết các thủ tục hành
chính giữa cơ quan nhà nước với công dân, tổ
chức. Tinh thần, thái độ của công chức trong
việc tiếp xúc, giải quyết các yêu cầu của
người dân đã được nâng lên một
bước cơ bản; cán bộ được phân công
tiếp nhận hồ sơ, về cơ bản là
những người có trình độ chuyên môn tốt,
tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đúng quy
trình, không gây sách nhiễu cho người dân. Trình tự,
thủ tục được niêm yết công khai, rõ ràng.
Việc trả kết quả được thực
hiện đúng theo phiếu hẹn. Người dân chỉ
phải nộp hồ sơ và nhận sự hướng
dẫn tại một nơi tiếp nhận hồ sơ,
không phải đi đến nhiều nơi và đi
lại nhiều lần.Tại một số Sở Tư
Pháp, thời gian giải quyết một số loại công
việc được rút ngắn so với quy định
của pháp luật hiện hành.[4]
Tại xã,
phường, thị trấn, việc áp dụng cơ
chế “một cửa” đã tạo thuận lợi cho
người dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch
hoặc chứng thực. Trình tự, thủ tục
giải quyết các loại việc hộ tịch
đều được niêm yết công khai, rõ ràng.
Thời gian giải quyết được rút ngắn.
ii) Lĩnh vực
bổ trợ tư pháp (bán đấu giá tài sản)
Việc áp dụng mô
hình thí điểm về bán đấu giá tài sản thành là
quyền sử dụng đất (ở một tỉnh là
Yên Bái) cho thấy chỉ sau 7 đến 10 ngày người
mua được tài sản bán đấu giá sẽ
nhận được đầy đủ các loại
giấy tờ về quyền sử dụng đất
tại Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài
sản,nhanh hơn khoảng 20 ngày so với quy định
của pháp luật hiện hành.[5]
Việc đơn giản thủ tục, tiết kiệm
thời gian, công sức cho dân (người mua
được tài sản) bước đầu đánh
dấu sự thành công trong lĩnh vực này, tuy còn chưa
thể khẳng định vì đây mơí là mô hình áp
dụng thí điểm ở một tỉnh, lại là
tỉnh miền núi. Chính vì vậy, như trên đã báo cáo,
hiện nay Bộ vẫn đang tiếp tục triển
khai áp dụng thí điểm mô hình một cửa ở các
tỉnh khác để có được những đánh
giá, kết luận chính xác về áp dụng cơ chế
một cửa trong lĩnh vực bán đấu giá tài
sản.
* Hạn
chế, tồn tại:
i) Lĩnh vực hành
chính tư pháp:
Thứ nhất, một số
địa phương triển khai cơ chế “một
cửa” còn máy móc, mang tính hình thức. Một vài địa
phương chưa triển khai cơ chế này.
Thứ hai, hiện nay, tại
nhiều tỉnh, thành phố việc tổ chức
tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu về công
chứng tại các Phòng công chứng chưa được
thực hiện theo quy chế “một cửa”, trừ công
chứng các loại việc đơn giản (như
bản dịch, bản sao). Thực tế này xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu
là do đặc thù của hoạt động công chứng
đối với những hợp đồng, giao
dịch, người yêu cầu công chứng phải ký tên
trước mặt công chứng viên, công chứng viên
phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp
luật. Do vậy, rất khó để áp dụng mô hình
“một cửa” tại các Phòng công chứng. Trên thực
tế, việc áp dụng cơ chế “một cửa”
tại Phòng công chứng một cách máy móc với Bộ
phận tiếp nhận và trả kết quả, bộ
phận chuyên môn nghiệp vụ riêng có thể làm cho
thủ tục công chứng vòng vèo, phức tạp hơn.
Tình trạng này cũng tương tự đối
với hoạt động chứng thực ở các
Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã.
Thứ ba, tại nhiều
Sở Tư pháp, hoạt động giữa bộ
phận Tiếp nhận hồ sơ và các Phòng nghiệp
vụ còn thiếu sự đồng bộ. Một số
loại việc hộ tịch như đăng ký kết
hôn, cán bộ hộ tịch phải yêu cầu hai bên nam
nữ ký vào Sổ và Giấy chứng nhận kết hôn
hoặc trong trường hợp kết hôn có yếu
tố nước ngoài, cán bộ nghiệp vụ phải
phỏng vấn trực tiếp đương sự,
người dân vẫn phải một lần nữa
tiếp xúc với cán bộ nghiệp vụ, nên có tâm lý
thiếu tin tưởng vào cơ chế này
Thứ tư, việc thực
hiện mô hình “một cửa” tại các quận huyện
cũng gặp không ít khó khăn. Cán bộ tiếp nhận
hồ sơ không có chuyên môn sâu về từng lĩnh
vực, nên cán bộ Tư pháp nhiều lúc phải trực
tiếp ra tiếp dân để giải quyết ngay các
việc chứng thực dẫn đến vi phạm
cơ chế “một cửa”. Mặt khác, Trưởng
phòng tư pháp được ủy quyền ký các văn
bản chứng thực và chịu trách nhiệm về hành
vi chứng thực, tuy nhiên không được trực
tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, nên khó phát
hiện sai sót.
Thứ năm, tại cấp xã,
hiện nay thường được bố trí hai cán
bộ trực tại bộ phận tiếp nhận
hồ sơ, các cán bộ này chủ yếu là công chức
Văn phòng. Trong khi đó, theo thống kê là có tới 69
loại thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền
giải quyết của UBND cấp xã (trên tất cả các
lĩnh vực).Vì vậy, khó khăn cơ bản hiện
nay là trình độ chuyên môn của cán bộ trực
tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ, do không
am hiểu về từng lĩnh vực chuyên môn hoặc
chỉ chuyên sâu về một vài lĩnh vực
được phân công, dẫn đến trong nhiều
trường hợp, hồ sơ của đương
sự còn thiếu nhưng cán bộ tiếp nhận không
phát hiện được để hướng dẫn,
yêu cầu đương sự bổ sung nên người
dân phải đi lại nhiều lần, kéo dài thời
gian. Mặt khác, theo quy định của Nghị
định số 83, đối với một số
loại việc hộ tịch như đăng ký khai sinh,
đăng ký khai tử, nếu có đủ hồ sơ
hợp lệ, thì Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp
ngay cho đương sự bản chính Giấy khai sinh
hoặc Giấy chứng tử. Nhưng việc thực
hiện cơ chế “một cửa” tại UBND cấp xã
như hiện nay với bộ phận tiếp nhận
hồ sơ thì khó có thể thực hiện
được quy định này.
ii) Lĩnh vực bán
đấu giá tài sản:
Thực tiễn
khảo sát và thí điểm mô hình một cửa trong
lĩnh vực này bước đầu cho thấy:
Thứ nhất, không thể áp
dụng mô hình một cửa chung cho tất cả các
loại tài sản bán đấu giá. Lý do :
+ Các quy định
của pháp luật về chuyển quyền sở hữu,
chuyển quyền sử dụng từng loại tài
sản còn chưa đồng bộ, thống nhất, trình
tự, thủ tục rất khác nhau, do vậy, để
làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu,
sử dụng tài sản, các ngành chức năng còn đòi
hỏi nhiều loại giấy tờ khác ngoài quy
định của Nghị định 05/2005/NĐ-CP
của Chính phủ về bán đấu giá tài sản;
+ Sự phối
hợp giữa các ngành có liên quan trong hoạt động
bán đấu giá tài sản còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai,
chỉ nên áp dụng thí điểm mô hình một cửa
đối với từng loại tài sản khi đã bán
đấu giá thành.
2.4 Nhận xét,
đánh giá chung về cải cách thể chế
a. Nhận
định chung:
Thực tế cho
thấy, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ
cải cách hành chính nhà nước ở giai đoạn I
(2001-2005), thì cải cách thể chế của Bộ Tư
pháp đã thu được kết quả đáng ghi
nhận, có những bước chuyển biến tích
cực, rõ nét hơn so với trước. Những thành
công đó thể hiện ở việc đáp ứng
về cơ bản những yêu cầu cải cách thể
chế cả về khía cạnh nội dung văn bản
QPPL cũng như các yêu cầu về đổi mới quy
trình, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật nhằm nâng cao chất lượng
văn bản quy phạm pháp luật.
Nhìn chung các văn
bản QPPL do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo
hoặc ban hành theo thẩm quyền đều có sự cân
nhắc, thận trọng, bảo đảm sự phù hợp
của nội dung văn bản với các quy định
của Hiến pháp và các văn bản có hiệu lực pháp
lý cao hơn; bảo đảm sự phù hợp của hình
thức văn bản với nội dung văn bản, phù
hợp với thẩm quyền của cơ quan ban hành;
bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
của văn bản trong hệ thống pháp luật
nước ta cũng như các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về cơ bản,
các văn bản QPPL do Bộ Tư pháp chủ trì soạn
thảo, trình Chính phủ hoặc Bộ ban hành theo thẩm
quyền đều tuân thủ các quy định của
Luật ban hành văn bản QPPL, bảo đảm trình
tự, thủ tục từ khâu thành lập Ban soạn
thảo, Tổ biên tập, đến việc tổ chức
khảo sát, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, lấy
ý kiến các cơ quan hữu quan, các đối
tượng thuộc phạm vi tác động, tổ
chức thẩm định trước khi trình cấp có
thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền; các văn bản ban hành đều gửi
đăng Công báo hoặc gửi đến Bộ, ngành
hữu quan khi có liên quan đến lĩnh vực quản
lý nhà nước của Bộ, ngành đó để
kiểm tra.
b. Những khó
khăn, bất cập cơ bản và nguyên nhân:
Hiện nay Bộ
Tư pháp đang được giao chủ trì soạn
thảo hoặc có các đề xuất sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành nhằm hoàn thiện thể chế
theo hướng đáp ứng yêu cầu của cải cách
hành chính, cải cách tư pháp. Những bất cập trong
nội dung thể chế hiện hành đã được
Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ trong nhiều báo cáo khác
nhau, nhất là trong các Tờ trình Chính phủ về một
Dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể. Trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi
chỉ chủ yếu đề cập đến
những bất cập, tồn tại, khó khăn trong quy
trình, thủ tục soạn thảo, ban hành các thể
chế trên cơ sở các yêu cầu cải cách thể
chế thuộc Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và
những nguyên nhân chủ yếu của những khó
khăn, tồn tại đó.
Thứ nhất: Sự chậm
trễ trong khâu soạn thảo và thông qua (ban hành) văn
bản QPPL, nhất là các văn bản hướng dẫn
chi tiết thi hành luật là một trong những
hạn chế chủ yếu của công tác xây dựng pháp
luật hiện nay. Thời gian gần đây tuy việc
soạn thảo, trình văn bản lên cấp trên tuy có
tiến bộ, khẩn trương hơn, song về
cơ bản vẫn chậm, không bảo đảm
đúng tiến độ, kế hoạch đặt ra.
Cũng vì chậm trễ nên cũng có lúc chưa kịp thời
đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi
bức xúc thực tế đặt ra, ảnh hưởng
đến việc thể chế hoá các chủ
trương,chính sách, làm giảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước hoặc làm cho khâu triển
khai thi hành gặp khó khăn, lúng túng, chờ đợi.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên đây là:
i) Khối
lượng công việc được giao khá nhiều,
trong khi lực lượng cán bộ trực tiếp làm
công tác xây dựng pháp luật còn mỏng, trình độ
năng lực cán bộ chưa đồng đều,
chưa thật sự đáp ứng với yêu cầu.[6]
Hiện nay
đội ngũ chuyên viên làm công tác soạn thảo,
thẩm định, kiểm tra văn bản còn thiếu
trong khi số lượng văn bản phải soạn
thảo, thẩm định có xu hướng tăng
nhiều (riêng năm 2005 Bộ Tư pháp phải chủ
trì soạn thảo 74 văn bản, thẩm định 305
văn bản) .
ii) Sự phối
hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ
Tư pháp) và các cơ quan có liên quan còn lỏng lẻo,
nhiều hạn chế, nhất là trong phối hợp liên
ngành
- Cơ chế
phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn
thảo với cơ quan phối hợp, đặc
biệt là cơ chế phối hợp liên ngành trong
việc soạn thảo, chuẩn bị, lấy ý kiến
vào dự thảo đề án, văn bản QPPL như
hiện nay có rất nhiều hạn chế, không rõ trách
nhiệm.Việc tổ chức xin ý kiến đóng góp, nhất
là đối với các văn bản do liên ngành ban hành
thường gặp nhiều khó khăn do không thống
nhất quan điểm, chờ đợi hoặc phải
thuyết phục nhau mất rất nhiều thời gian
hoặc “khoán trắng” cho cơ quan chủ trì, vì thế
văn bản liên ngành thường bị kéo dài. Nguyên
nhân của tình trạng này, trước hết là do thành
viên Ban soạn thảo gồm đại diện của
nhiều bộ, ngành, các thành viên thường rất
bận rộn với công việc của cơ quan mình nên
hoạt động của Ban soạn thảo gặp khó
khăn; mặt khác cũng có biểu hiện do bảo
vệ lợi ích cục bộ của Bộ, ngành nên khi
tham gia còn phải vừa chờ đợi, vừa
thuyết phục.
- Đối với
công tác thẩm định dự thảo văn bản
QPPL, bên cạnh bộ, ngành thực hiện đúng quy
định thì cũng còn không ít trường hợp gửi
quá muộn, sát với ngày cơ quan có thẩm quyền xem
xét hoặc thông qua, xem việc thẩm định chỉ
mang tính hình thức vì thế ảnh hưởng
đến tiến độ trình và chất lượng
của văn bản thẩm định.[7]
* Thứ hai: quy trình, thủ
tục rà soát, soạn thảo văn bản QPPL (để
trình và ban hành), quy trình thẩm định trong nội bộ
cơ quan Bộ còn có một số điểm bất
hợp lý, ảnh hưởng ít nhiều đến
chất lượng văn bản soạn thảo
i) Công tác rà soát
văn bản (đặc biệt là rà soát các văn
bản chứa đựng nhiều quy định về
các thủ tục hành chính) tại một số đơn
vị thuộc Bộ, tuy trong thời gian gần đây
được tăng cường, nhưng chủ yếu
vẫn chỉ tiến hành do yêu cầu phục vụ
trực tiếp cho hoạt động xây dựng một dự
án, dự thảo văn bản QPPL cụ thể
được giao chủ trì soạn thảo hoặc
tiến hành theo yêu cầu của Lãnh đạo Bộ (ví
dụ như thực hiện Kế hoạch CCHC) mà chưa
được tiến hành thường xuyên, đôi khi còn
hình thức,…[8]
Nguyên nhân của tình trạng
này là do còn thiếu sự quan tâm, chỉ đạo sát sao
của Thủ trưởng các đơn vị trong
việc tổ chức thường xuyên, định kỳ
việc rà soát theo văn bản theo trách nhiệm
được giao, thiếu quy định về quy trình
rà soát thống nhất, thiếu một đầu mối
tổ chức thực hiện việc rà soát,…
ii) Quy trình phối
hợp giữa đơn vị chủ trì và đơn
vị tham gia trong các hoạt động: Xây dựng Dự
thảo Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh để
trình Chính phủ, hoạt động soạn
thảo/thẩm định dự án, dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật còn thiếu hiệu quả
- Trong hoạt
động xây dựng Dự thảo Chương trình xây
dựng Luật, Pháp lệnh: Quy trình xây dựng
Chương trình hiện tại về thực chất còn
tương đối khép kín, tập trung chủ yếu
vào đơn vị được giao chủ trì soạn
thảo mà chưa huy động được tối
đa trí tuệ tập thể của nhiều đơn vị
khác nhau thuộc Bộ trong quá trình hoàn thiện
Chương trình này. Theo ý kiến của các cán bộ, công
chức được hỏi trong đợt khảo sát
của Ban Chỉ đạo CCHC thì 82,4% số người
được hỏi cho rằng quy trình phối hợp
hiện nay giữa đơn vị chủ trì và các
đơn vị khác thuộc Bộ trong quá trình xây dựng
Chương trình còn chưa hợp lý. Các lý do chủ
yếu xuất phát từ sự thiếu hợp tác
của cả hai phía: Từ phía các đơn vị tham gia
thì hầu như ít có công văn đề xuất hoặc
nội dung công văn đề xuất sáng kiến lập
pháp quá sơ sài; từ phía đơn vị chủ trì: yêu
cầu có ý kiến đóng góp trong thời gian gấp, ít
tổ chức họp để các đơn vị
đóng góp ý kiến vào Dự thảo Chương trình, không
có thông tin phản hồi cho các đơn vị tham gia
về mức độ tiếp thu ý kiến đóng góp vào
Dự thảo Chương trình. Bên cạnh đó, còn có
những lý do khác như các đơn vị tham gia không
đủ thông tin cần thiết để tham gia lập
Dự kiến Chương trình.[9]
- Trong hoạt
động soạn thảo dự thảo văn bản
QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ,
sự phối hợp giữa các đơn vị chủ
trì và các đơn vị tham gia còn khá lỏng lẻo (ý
kiến của 92% cán bộ, công chức trả lời
phiếu khảo sát của Ban Chỉ đạo). Lý do
chủ yếu cũng xuất phát từ cả hai phía: Do
phía đơn vị chủ trì ít lấy ý kiến các
đơn vị có liên quan hoặc có lấy ý kiến
nhưng thường ít tiếp thu ý kiến đóng góp
một số đơn vị tham gia không có công văn tham
gia ý kiến hoặc có ý kiến nhưng chất
lượng chưa đạt yêu cầu. [10]
- Trong hoạt
động thẩm định/ góp ý kiến các
dự án, dự thảo văn bản QPPL, sự hạn
chế trong hoạt động phối hợp giữa các
đơn vị thuộc Bộ hiện nay là vì những lý
do như: Phía đơn vị chủ trì gửi công văn,
tài liệu thẩm định/ góp ý chậm, thiếu cung
cấp thông tin cho đơn vị tham gia, thiếu thông tin
phản hồi của đơn vị chủ trì
đến đơn vị tham gia sau khi thẩm
định/góp ý. Lý do từ phía các đơn vị tham gia
là: Đơn vị tham gia thường có công văn
trả lời chậm hoặc thậm chí không có công văn
tham gia thẩm định/góp ý; công văn tham gia thẩm
định/ góp ý kiến của các đơn vị có
nơi chỉ giao cho một vài chuyên viên, một
đồng chí cấp Vụ tham gia thẩm định/ góp
ý chứ chưa phải là trí tuệ của tập
thể, vì vậy đôi khi chất lượng còn hạn
chế.
Bên cạnh những
nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân khách quan như:
Văn bản hiện hành quy định thời gian
thẩm định/ góp ý ngắn, khó đảm bảo
chất lượng (nhận định của 61,2% các cán
bộ, công chức được hỏi ý kiến); các
Bộ, ngành gửi công văn đề nghị thẩm
định/ góp ý kiến chậm so với quy định
(40,3% ý kiến), không gửi đủ hồ sơ tài
liệu theo quy định,…
* Thứ ba,
sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp (đơn
vị chủ trì soạn thảo) và các cơ quan Tư pháp
địa phương trong quá trình soạn thảo các
dự án, dự thảo văn bản QPPL có liên quan còn khá
hạn chế. Thể hiện ở những khiếm khuyết
từ quy trình lấy ý kiến đóng góp của
địa phương (như gửi văn bản tham gia
ý kiến chậm; thiếu những thông tin cơ bản
về dự thảo hoặc định hướng
trọng tâm cần lấy ý kiến, thiếu thông tin
phản hồi đối với địa phương
về kết quả tiếp thu ý kiến,…), thể hiện
qua mức độ hạn chế trong tiếp thu ý
kiến của địa phương để
đưa vào nội dung dự án, dự thảo.
II. VỀ CẢI CÁCH
BỘ MÁY HÀNH CHÍNH TRONG NỘI BỘ CƠ QUAN BỘ VÀ TRONG
PHẠM VI TOÀN NGÀNH:
1. Kết quả
sắp xếp, tổ chức bộ máy
So với các giai
đoạn trước đây thì giai đoạn
2001-2005(nhất là từ 2003-2005) là giai đoạn Bộ
Tư pháp trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền tương đối đầy đủ các văn
bản quy định về tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ của Bộ, các
đơn vị thuộc Bộ và của ngành Tư pháp.
1.1 Sắp xếp
tổ chức bộ máy cơ quan Bộ Tư pháp:
Tính đến nay,
tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp có 23
đơn vị, trong đó có 16 đơn vị giúp
Bộ trưởng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước và 07 đơn vị sự
nghiệp.
So với năm 2001
thì tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp tăng
thêm 4 đầu mối (thành lập mới 05 đơn
vị và điều chuyển 01 đơn vị sang cơ
quan khác).[11]
Đồng thời,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành các
quyết định về việc đổi tên,
điều chuyển nhiệm vụ, kiện toàn tổ
chức bên trong của một số đơn vị
thuộc Bộ.
Có thể khẳng
định cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp như hiện nay về cơ bản đã
được kiện toàn,đảm bảo phân
định rõ và tránh sự trùng lặp, chồng chéo về
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các đơn
vị theo nguyên tắc một đơn vị đảm
nhận nhiều nhiệm vụ với nhiều
đối tượng quản lý, nhưng một nhiệm
vụ chỉ do một đơn vị thực hiện,
góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ.
Tuy nhiên, để có
một bộ máy thực sự có hiệu quả, Bộ
cũng cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn
thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan
Bộ, ví dụ như sắp xếp lại nhiệm
vụ của các đơn vị và thành lập các tổ
chức bên trong của một số đơn vị.[12]
1.2 Thực
hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy các
cơ quan tư pháp địa phương theo thẩm
quyền được giao:
Thời gian qua,
Bộ Tư pháp đã tham gia với Bộ Nội vụ
trong việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định
số 172/2004/NĐ-CP quy định về tổ chức
các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp
huyện. Bên cạnh đó, như đã báo cáo ở
phần Cải cách thể chế, việc Bộ Tư pháp
phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông
tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV hướng dẫn
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản
lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa
phương đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng
để các địa phương kiện toàn tổ
chức, tăng cường đội ngũ cán bộ
của các cơ quan tư pháp địa phương:
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và tư pháp cấp xã.
Đặc biệt
đối với hệ thống các Phòng Tư pháp cấp
huyện, trước đây thực hiện việc
sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn của UBND cấp
tỉnh, cấp huyện theo Nghị định số
12/2001/NĐ-CP ngày 27/3/2001 của Chính phủ, một số
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã
sáp nhập Phòng Tư pháp vào Văn phòng HĐND và UBND
cấp huyện.[13] Tuy
nhiên, sau khi có Nghị định số 172/2004/NĐ-CP
của Chính phủ và Thông tư liên tịch số
04/2005/TTLT-TP-NV của Bộ Tư pháp và Bộ Nội
vụ, tất cả các địa phương nêu trên
đều đã quyết định thành lập lại
Phòng Tư pháp, ở một số nơi như Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Hải
Dương,…, các Phòng Tư pháp cấp huyện đã chính
thức được thành lập lại và đi vào
hoạt động.
2. Về việc
thực hiện phân cấp – trung ương địa
phương trong phạm vi thẩm quyền quản lý nhà
nước về công tác tư pháp
Để
triển khai thực hiện Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp
tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, nhằm
đẩy mạnh việc phân cấp quản lý nhà
nước về công tác tư pháp, trong thời gian qua,
Bộ Tư pháp đã triển khai xây dựng dự
thảo Đề án phân cấp quản lý nhà nước
về công tác tư pháp (đã được Ban Chỉ
đạo Chương trình 121 - Bộ Nội vụ
tổ chức nghiệm thu, nhất trí thông qua và có
đề nghị chỉnh lý một số nội dung
nhằm hoàn thiện Đề án).
Đề án phân
cấp quản lý nhà nước về công tác tư pháp đã đưa
ra những đánh giá tương đối khái quát và xác
thực tình hình thực hiện phân cấp quản lý nhà
nước về công tác tư pháp trong thời gian qua;
mục đích, yêu cầu, phạm vi, nguyên tắc phân
cấp và đã đưa ra được một hệ
thống các ý kiến đề xuất phân cấp quản
lý nhà nước về công tác tư pháp trong từng
lĩnh vực. Trong đó, nội dung đề xuất
phân cấp mạnh nhất trong Đề án tập trung vào
lĩnh vực công chứng, hộ tịch.
Đồng thời, Bộ
cũng giao cho Viện khoa học pháp lý tổ chức
một đề tài nghiên cứu cấp Bộ về phân
cấp quản lý nhà nước đối với công tác
tư pháp. Những kết quả nghiên cứu của
Đề tài này đã có những đóng góp nhất
định cho việc hoàn thiện Đề án về phân
cấp của Bộ.
3. Về hoạt
động đổi mới lề lối và phương
thức làm việc của Bộ thông qua các quy chế:
Thời gian qua,
để nâng cao hiệu lực và hiệu quả chỉ
đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ
cũng như hiệu quả hoạt động của
Bộ và ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ
trương xây dựng, sửa đổi các Quy chế
liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ. Tình
hình xây dựng, ban hành các Quy chế như sau:
3.1 Các Quy chế chung
của Bộ:
Hiện nay, Bộ
Tư pháp có 10 quy chế chung điều hành bộ máy hành
chính của Bộ trong một số lĩnh vực. Trong
đó, để đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính, nâng cao hiệu quả chỉ đạo điều
hành bộ máy cơ quan thông qua điều hành bằng quy
chế, một số các quy chế chung, quan trọng
của Bộ đã được ban hành để thay
thế các quy chế cũ đã lạc hậu. Ví dụ
như: Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp(ban
hành ngày 14/4/2005) thay thế Quy chế làm việc của Lãnh
đạo Bộ Tư pháp ;Quy chế về hoạt
động đối ngoại của Bộ Tư pháp
(ngày 05/05/2005).Các nguyên tắc làm việc, nguyên tắc
quản lý hoạt động đối ngoại của
Bộ trong các quy chế này đã được xác
định rõ ràng theo tinh thần cải cách hành chính.
Hiện nay, Bộ
Tư pháp đang tích cực triển khai việc sửa
đổi Quy chế thực hiện dân chủ ở
cơ quan Bộ Tư pháp nhằm đảm bảo phát
huy hơn nữa dân chủ trong cơ quan Bộ;
đồng thời Bộ cũng đang khẩn
trương hoàn thành việc xây dựng dự thảo
Quy chế về công tác văn thư của Bộ và các
đơn vị thuộc Bộ và dự thảo Quy
chế quản lý, sử dụng xe ô tô cơ quan Bộ
Tư pháp để đưa các hoạt động này
đi vào nề nếp, đảm bảo yêu cầu
cải cách hành chính và tạo thuận lợi cho các
đơn vị thuộc Bộ trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
3.2 Các Quy chế
Tổ chức và hoạt động của các đơn
vị thuộc Bộ:
Trong tổng số 23
đơn vị thuộc Bộ, đã có 11 đơn
vị có Quy chế Tổ chức và hoạt động.
Tính từ năm 2001 đến nay, Bộ Tư pháp đã
ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động
của 09 đơn vị.
Đối với các
đơn vị khác, Bộ Tư pháp đang tiếp
tục hoàn thiện để có thể ban hành Quy chế
Tổ chức và hoạt động trong thời gian
sớm nhất.
Việc ban hành
một hệ quy chế chung và quy chế về tổ
chức và hoạt động của các đơn vị
thuộc Bộ đã hình thành cơ sở pháp lý và phương
thức điều hành cần thiết để chỉ
đạo điều hành bộ máy cơ quan Bộ nói
chung và từng đơn vị nói riêng, góp phần tăng
cường năng lực, hiệu quả của bộ
máy hành chính cơ quan Bộ theo tinh thần cải cách hành
chính.
Tuy nhiên, thực
tế áp dụng, thực hiện các quy chế vẫn còn
nhiều tồn tại đặt ra. Trên thực
tế, không phải toàn bộ nội dung các quy chế
được áp dụng, trong hoạt động quản
lý, điều hành mà chỉ có một số nội dung
nhất định được tuân thủ (như
thẩm quyền ký văn bản, chế độ hội
họp, chế độ báo cáo,…). Nguyên nhân chủ
yếu là do ý thức chấp hành quy chế của các cán
bộ, công chức thuộc Bộ, kể cả cán bộ
lãnh đạo đơn vị còn hạn chế; việc
tuyên truyền, phổ biến, quán triệt thực
hiện các quy chế của Bộ còn chưa
được thực hiện thường xuyên, liên
tục. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến
lý do từ sự lạc hậu của các quy
định trong một số quy chế hiện hành, không
thuận lợi cho việc áp dụng. Chính vì vậy mà
theo kết quả điều tra khảo sát của Ban
chỉ đạo CCHC của Bộ thì đa số các ý
kiến cho rằng cần đẩy mạnh việc thực
hiện các quy chế hiện hành và một số
lượng không nhỏ ý kiến cho rằng cần
sửa đổi, bổ sung các quy chế hiện có và ban
hành quy chế mới.[14]
III. XÂY DỰNG VÀ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC:
1. Về hoạt
động quản lý đội ngũ cán bộ, công
chức:
Công tác quản lý cán
bộ, công chức của Bộ Tư pháp trong thời gian
qua đã được thực hiện theo xu hướng
tăng cường thực hịên cải cách hành chính trên
các mặt như quy hoạch, tuyển dụng, nâng
ngạch, xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công
chức... và đã tạo ra những bước chuyển
biến tích cực trong công tác này, cụ thể là:
1.1 Công tác quy hoạch
cán bộ đã được triển khai thực hiện
đối với các chức danh lãnh đạo cấp
Vụ và cấp Bộ. Ban cán sự Đảng và Lãnh
đạo Bộ đã ban hành các kế hoạch, văn bản
hướng dẫn xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh
đạo với các bước thực hiện khoa
học và đảm bảo dân chủ từ cơ sở.
Kết quả quy hoạch đã lựa chọn ra
được các cán bộ, công chức đủ
điều kiện, tiêu chuẩn quy hoạch để
bồi dưỡng, tạo nguồn kế cận, bổ
sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện có
của Bộ. Trong thời gian tới, Bộ sẽ
tiếp tục xây dựng quy hoạch tổng thể
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên môn của
Bộ.
1.2 Công tác tuyển
dụng, thi tuyển công chức được thực
hiện công khai, công bằng, khách quan theo đúng trình
tự, thủ tục quy định. Chỉ tiêu,
điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng
được thông báo rộng rãi trên các báo của trung
ương để tạo cơ hội cho tất cả
mọi thí sinh có nguyện vọng và đủ điều
kiện đều được tham gia dự tuyển.
Trong quá trình tổ chức thi tuyển, Hội đồng
thi tuyển công chức của Bộ đã ban hành các
văn bản để điều chỉnh các hoạt
động thi từ ra đề thi, coi thi, chấm thi
đến xét trúng tuyển, bảo đảm cho các
hoạt động thi được thực hiện nhanh
gọn, đồng bộ và đúng quy định của
pháp luật. Nhờ đó, trong thời gian qua đã
tuyển dụng được nhiều công chức có
trình độ khá, giỏi; chất lượng đội
ngũ công chức được tuyển dụng
được nâng cao, đủ tiêu chuẩn chức danh
và đội ngũ công chức này đã thể hiện
được năng lực công tác và đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ được
giao.
1.3 Việc nâng
ngạch cho cán bộ, công chức của Bộ được
thực hịên theo quy trình khoa học, bảo đảm
tính dân chủ và đúng tiêu chuẩn, điều kiện
quy định. Hội đồng xét nâng ngạch công
chức được thành lập để thực
hịên nhiệm vụ xét duyệt hồ sơ đăng
ký thi nâng ngạch của các cán bộ, công chức đã
được tập thể lãnh đạo các đơn
vị cùng các tổ chức chính trị - xã hội của
đơn vị thống nhất lựa chọn, cử
đi đăng ký dự thi trên cơ sở chỉ tiêu
đã được phân bổ và tiêu chuẩn, điều
kịên theo quy định.
1.4 Để hoàn
thiện tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức của Bộ,
hiện nay Bộ đang tiến hành nghiên cứu, xây
dựng tiêu chuẩn chức danh đối với một
số chức danh đặc thù của Bộ như
đăng ký viên, thẩm tra viên, tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ để thực hiện tốt các
công tác cán bộ có liên quan.
Nhìn chung, trong thời gian qua
công tác quy hoạch, tuyển dụng, nâng ngạch và
thực hiện chế độ, chính sách cán bộ, công
chức đã có những bước cải tiến về
trình tự, thủ tục bảo đảm kịp
thời, công khai, dân chủ, khách quan và nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực hiện. Chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức qua
đó đã được nâng cao một bước;
hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức
đã đạt tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh
theo quy định; cơ cấu công chức
được điều chỉnh theo hướng
tăng cường đội ngũ chuyên viên cao cấp,
chuyên viên chính và tương đương cho các đơn
vị thuộc Bộ để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị ngày càng cao của Bộ và ngành.
Tuy nhiên, so với các mảng khác của hoạt
động CCHC của Bộ thì các hoạt động này
cũng chưa có nhiều biến chuyển rõ nét.
2. Vấn đề
cải cách tiền lương đối với cán
bộ, công chức của Bộ được triển khai
thực hiện trong tổng thể cải cách tiền
lương của Nhà nước. Với việc cải cách
tiền lương theo hướng thu gọn bảng
lương, phân nhóm các chức danh công chức đã
tạo điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện chính sách tiền lương khi điều
động, luân chuyển cán bộ, công chức. Tuy nhiên,
việc cải cách tiền lương chưa theo kịp
tốc độ trượt giá nên lương thực
tế của cán bộ, công chức vẫn còn thấp; vì
vậy, trong thời gian tới vẫn phải tiếp
tục kiến nghị với Đảng và Nhà nước
để nâng cao mức lương cho cán bộ, công
chức.
3. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức
Trong nhiều năm
qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ luôn là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của ngành Tư pháp.
Từ năm 2001
đến 2005, thực hiện tinh thần của Nghị
quyết 08 của Bộ Chính trị, Học viện Tư
pháp đã được thành lập trên cơ sở
Trường đào tạo chức danh Tư pháp, đi
đôi với việc củng cố công tác tổ chức,
lực lượng cán bộ, giảng viên của Học
viện. Đại học Luật hiện nay cũng
được xây dựng trở thành một trong hai trung
tâm đào tạo luật lớn nhất Việt Nam.
Bộ Tư pháp
đã dành nhiều sự quan tâm cho công tác đổi
mới, nâng cao chất lượng chương trình, giáo
trình, phương pháp giảng dạy, đội ngũ giảng
viên và cách thức tổ chức lớp học. Việc
kịp thời đổi mới này bước
đầu đã đáp ứng được yêu cầu
nâng cao chất lượng và năng lực đội
ngũ công chức tư pháp phục vụ cho công tác
cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong giai đoạn
hiện nay.
3.1 Về công tác
bồi dưỡng cán bộ:
Trong 5 năm
qua, Bộ luôn chú trọng đến việc chỉ
đạo, tổ chức bồi dưỡng, nâng cao
nghiệp vụ cho cán bộ ngành tư pháp, chủ yếu
thông qua hoạt động của các vụ chức
năng thuộc Bộ.
Quy trình xây dựng
chương trình, giáo trình đã có nhiều đổi
mới nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu
học tập của học viên. Để đảm
bảo nội dung chương trình, tài liệu thiết
thực, phù hợp, bám sát yêu cầu của thực
tiễn công tác tư pháp, Bộ Tư pháp đã chỉ
đạo việc khảo sát, phân tích và đánh giá nhu cầu
học tập của học viên trước khi xây
dựng chương trình, tài liệu. Sau khi chương
trình tài liệu được hoàn thành, Bộ Tư pháp
đã thành lập Hội đồng thẩm định
để đánh giá chất lượng và sự phù
hợp của chương trình với yêu cầu bồi
dưỡng và trình độ của học viên. Trong 05
năm qua, Bộ Tư pháp đã xây dựng và đưa vào
sử dụng 06 loại chương trình, tài liệu khác
nhau nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn
nghiệp vụ cán bộ Tư pháp, đặc biệt là
cán bộ Tư pháp cơ sở.[15]
3.2 Về đổi
mới, nâng cao chất lượng đào tạo
Giai đoạn
2001-2005, Bộ đã tăng cường chỉ đạo
các cơ sở đào tạo thuộc Bộ (Đại
học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp) tiến
hành các hoạt động cụ thể nhằm
đổi mới, nâng cao chất lượng chương
trình, giáo trình đào tạo, đổi mới phương
pháp giảng dạy, chất lượng đội ngũ
giảng viên và phương thức tổ chức lớp
học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Trên cơ sở
đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, Đại
học Luật Hà nội đang tiến hành triển khai
thực hiện ở giai đoạn I Chương trình
cải cách công tác quản lý chuyên môn, quản lý khoa học,
đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp đào tạo. Chương trình đã
được đưa vào Kế hoạch CCHC 2005 của
Bộ, gồm 06 Tiểu Đề án khác nhau.
Nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Học
Viện, Học viện Tư Pháp cũng triển khai
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu áp dụng
bộ tiêu chuẩn ISO 9000 vào việc quản lý chất
lượng hoạt động của Học viện
(thuộc Kế hoạch CCHC 2005 của Bộ).
Học viện Tư
pháp đã xây dựng, hoàn thiện và đưa vào sử
dụng các chương trình, giáo trình đào tạo các
chức danh tư pháp như giáo trình đào tạo Công
chứng viên, Chấp hành viên,… Đồng thời, Học
viện áp dụng phương pháp song giảng (một
giảng viên lý thuyết và một giảng viên thực hành)
nhằm gắn lý luận với thực tiễn và nâng cao
năng lực thực thi nhiệm vụ của học
viên.
Bên cạnh việc
không ngừng đổi mới hệ thống giáo trình,
chương trình giảng dạy, với phương châm
lấy người học làm trung tâm, Đại học
Luật Hà nội đã tổ chức áp dụng các
phương pháp giảng dạy mới như: Giảm
phương pháp độc thoại, tập trung
đối thoại, hướng dẫn, giải đáp những
vướng mắc về nghiệp vụ của học
viên; đưa ra nhiều bài tập tình huống để
học viên cùng thảo luận và nghiên cứu nhằm phát
triển kỹ năng nhận diện, phân tích và xử lý
vấn đề cho học viên.
Bên cạnh đó,
cả hai cơ sở đào tạo thuộc Bộ
đều từng bước ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác giảng dạy nhằm tăng khả năng
truyền đạt và tiếp nhận kiến thức cho
học viên.
Trong những năm
qua đội ngũ giảng viên của hai cơ sở
đào tạo thuộc Bộ đã từng bước phát
triển về số lượng, nâng cao về chất
lượng. Hiện tại, đội ngũ giảng
viên của Học viện đã có 11 tiến sỹ, 15
thạc sỹ. Số giảng viên thỉnh giảng
đều là những cán bộ, chuyên gia đầu ngành, có
uy tín trong các lĩnh vực pháp luật. Đội ngũ
giảng viên của Trường Đại học
Luật Hà Nội trong 05 năm qua cũng không ngừng
trưởng thành. Trường có 01 giáo sư, 05 phó giáo
sư, 48 tiến sỹ và 141 thạc sỹ.
Bộ Tư pháp
cũng đã chỉ đạo việc đa dạng hoá
các phương thức tổ chức lớp để phù
hợp hơn với điều kiện công tác và khối
lượng công việc mà công chức phải đảm
nhận. Cụ thể: Có lớp học tập trung, có
lớp mỗi tháng học một buổi, có lớp
phối hợp với chương trình bồi
dưỡng của địa phương…
Về kết quả
đào tạo: Chất lượng đội ngũ công chức
đã từng bước được nâng lên đáng
kể. Hiện tại, Bộ Tư pháp có 89 tiến
sỹ, 199 thạc sỹ. Bộ Tư pháp đã đào
tạo 4 khoá Chấp hành viên với 788 học viên, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho 2344 lượt chấp hành
viên. Đào tạo 5 khoá Công chứng viên với 245 học
viên và bồi dưỡng nghiệp vụ cho 609
lượt công chức phòng công chứng, đào tạo 3
khoá luật sư tập sự cho 217 học viên, 4 khoá
luật sư với 5863 học viên và bồi dưỡng
nghiệp vụ cho 884 lượt học viên. Đào
tạo 8 khoá đào tạo nghiệp vụ xét xử
với 1911 học viên, nghiệp vụ thư ký toà án cho 99
học viên. Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát cho 404
học viên. Ngoài ra, hàng năm có hàng ngàn lượt cán
bộ được bồi dưỡng nghiệp vụ
và ngoại ngữ: Năm 2003: 2222 lượt cán bộ,
năm 2004: 2018 lượt cán bộ và năm 2005: 3233
lượt cán bộ.
IV. CẢI CÁCH TÀI CHÍNH
CÔNG:
Việc triển khai
các hoạt động CCHC của Bộ trong lĩnh
vực tài chính công như sau:
1. Đổi mới
phương thức lập dự toán, cấp phát kinh phí,
thẩm tra xét duyệt quyết toán, công khai tài chính, thanh
tra- kiểm tra:
Về đổi
mới phương thức lập dự toán: Với
số lượng đơn vị dự toán là trên 700
đơn vị, hàng năm vào thời điểm cuối
tháng 6, Bộ đã kịp thời có công văn
hướng dẫn kèm theo các biểu mẫu và dự
kiến thông báo số kiểm tra ngân sách (NS) năm sau cho
các đơn vị để làm căn cứ lập
dự toán, gửi về Bộ tổng hợp báo cáo Chính
phủ trước ngày 20/7 hàng năm.
Về đổi
mới phương thức cấp phát kinh phí: Trước
năm 2004 (khi Luật Ngân sách 2002 chưa có hiệu lực
thi hành) thì hàng quý Bộ đều phải đánh máy ký
cấp phát kinh phí trực tiếp cho từng đơn
vị dự toán nên công việc sự vụ, mất
nhiều thời gian và đôi khi còn chậm, đơn
vị không chủ động trong kế hoạch chi tiêu,
việc cấp phát này còn nặng biểu hiện của
cơ chế bao cấp (xin- cho). Từ năm 2004, việc
cấp phát kinh phí đã có những đổi mới
đáng kể: Bộ thực hiện cấp NS hàng năm
cho các đơn vị dự toán bằng kế hoạch
thông qua hệ thống kho bạc nhà nước cấp phát
trực tiếp cho các đơn vị hưởng thụ
ngân sách, một năm chỉ cấp ngân sách một lần
vào trước ngày 31/12 năm trước đối
với các khoản chi thường xuyên (riêng mua sắm tài
sản cố định và sửa chữa lớn tài
sản cố định được cấp chậm
nhất ngày 31/3 năm ngân sách).
Trong công tác thẩm
tra xét duyệt quyết toán ngân sách hàng năm: Để
đảm bảo việc chi tiêu đúng nguyên tắc
chế độ tài chính, đảm bảo khách quan, minh
bạch trong quá trình thẩm tra, xét duyệt quyết toán
ngân sách hàng năm, từ năm 2004 Bộ đã thực
hiện đổi mới phương thức thẩm tra
xét duyệt quyết toán bằng cách thành lập 03 Tổ
công tác xét duyệt quyết toán ở ba miền, mỗi
Tổ có một Lãnh đạo cấp vụ trực
tiếp chỉ đạo, khi đến các đơn
vị mời các đơn vị dự toán (chủ tài
khoản, kế toán) xuất trình toàn bộ hồ sơ,
sổ sách chứng từ để kiểm tra (không cử
từng cán bộ đi xuống các đơn vị dự
toán để thẩm tra, xét duyệt như những
năm trước đây).
Về công khai tài
chính và công tác thanh tra, kiểm tra: Bộ đã kịp
thời phổ biến, quán triệt đến các chủ
tài khoản, kế toán các đơn vị yêu cầu
thực hiện theo đúng Quyết định 192/2004/QĐTTg
của Thủ tướng ; yêu cầu các đơn vị
chậm nhất sau 30 ngày phải công bố công khai toàn
bộ kinh phí trong năm đơn vị được
cấp (kinh phí chi thường xuyên, kinh phí cho các đề
án, kinh phí mua sắm sửa chữa XDCB,…) và công khai số
NS năm trước được duyệt quyết toán
đến tất cả các cán bộ, công chức trong
đơn vị, coi đây là tiêu chí để xem xét thi
đua khen thưởng cuối năm của đơn
vị.
Công tác thanh tra,
kiểm tra cũng được từng bước
tăng cường. Ngoài kiểm tra định kỳ,
Bộ còn thành lập các đoàn kiểm tra đột
xuất khi phát hiện các đơn vị có dấu
hiệu vi phạm hoặc có đơn thư tố cáo,…
Hàng năm, Bộ tổ chức thanh tra, kiểm tra ít
nhất từ 05 đến 07 đơn vị dự toán,
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quản lý,
sử dụng đất đai, đầu tư xây
dựng cơ bản.
2. Tình hình
thực hiện cơ chế khoán kinh phí hành chính theo
Quyết định 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của
Thủ tướng Chính phủ và Nghị định
số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 /01/2002 của Chính phủ về
chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị
sự nghiệp có thu.
Để đẩy
mạnh việc tổ chức triển khai thực
hiện Nghị định 10 và Quyết định 192,
Bộ đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện
hai văn bản nói trên.
Tính đến Quý
III/2005, sau khi có sự thẩm định của Bộ Tài
Chính, Bộ đã phê duyệt 06 Đề án cho 03
đơn vị thuộc Bộ và 03 Trung tâm Đăng ký
giao dịch tài sản tại ba thành phố lớn về
việc thực hiện quyền tự chủ về tài
chính và tự đảm bảo một phần kinh phí
hoạt động thường xuyên giai đoạn
2005-2007.[16]
Hiện tại Bộ đang yêu cầu các đơn
vị sự nghiệp khác như Nhà xuất bản Tư
pháp, Trung tâm tin học lập đề án. Đối
với các đơn vị quản lý (05 Cục như
Cục Thi hành án dân sự; Cục Trợ giúp pháp lý; Cục
đăng ký giao dịch bảo đảm,...) vẫn
chưa thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý.
Ngay cả việc áp dụng mô hình thí điểm (Cục
trợ giúp pháp lý) cũng chưa triển khai được
do sự chậm trễ từ chính đơn vị
được phân công làm thí điểm.
Qua giao quyền
tự đảm bảo một phần kinh phí thường
xuyên đã giúp cho các đơn vị chủ động
trong việc sử dụng kinh phí hàng năm
được NSNN cấp, chủ động khai thác các
nguồn thu trên cơ sở chính sách nhà nước quy
định; cải thiện tăng thu nhập cho cán
bộ viên chức ít nhất từ 01 đến 2,5 lần
so với lương trước khi giao quyền tự
chủ về tài chính; góp phần tăng cường cơ
sở vật chất cho đơn vị, nâng cao chất
lượng và hiệu quả trong công tác chuyên môn.
3 Nhận định
chung:
Trong những năm
từ 2001 đến nay, nhất là những năm từ
2003 trở lại đây, Bộ đã có những triển
khai tương đối tích cực nhằm cải cách
tài chính công và đã thu được những kết
quả đáng ghi nhận về đổi mới
phương thức, quy trình lập dự toán, cấp phát
kinh phí, về thẩm tra xét duyệt quyết toán, về
thực hiện cơ chế khoán chi hành chính và chế
độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự
nghiệp có thu,...
Tuy nhiên, đó
cũng mới chỉ là đổi mới, cải cách
bước đầu.Trong lĩnh vực tài chính công
vẫn còn khá nhiều tồn tại, đòi hỏi
nhiều đổi mới, khắc phục. Theo kết
quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC của
Bộ thì vẫn có đến 54,7% cán bộ, công chức
thuộc Bộ (những người được
hỏi ý kiến) cho rằng cải cách tài chính công của
Bộ có đổi mới nhưng chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra. Những tồn
tại chủ yếu tập trung vào các quy trình lập
dự toán, lập dự toán và thanh quyết toán kinh phí.Ví
dụ như: Thông báo về kinh phí được duyệt
cho các đơn vị đôi khi còn chậm, việc thanh
quyết toán kinh phí chưa thực sự thuận lợi,
thủ tục còn phức tạp; cơ chế kiểm
tra, thanh tra tài chính chưa thật sự phù hợp…[17] Đây là những điểm
cần được khắc phục và cần
được xem là trọng tâm cải cách tài chính công
thuộc thẩm quyền của Bộ trong thời gian
tới. Nguyên nhân của những hạn chế trên
đây khá đa dạng. Ví dụ về việc thông báo kinh
phí, có những nguyên nhân khách quan như việc thông báo kinh
phí chậm đôi khi không do phía Bộ Tư pháp mà do phía
cơ quan tài chính, nhưng cũng có những nguyên nhân
chủ quan từ phía Bộ như: Thông báo kinh phí chậm
do lề lối làm việc của các đơn vị có
thẩm quyền; thủ tục quyết toán phức
tạp, còn thiếu hướng dẫn chi tiết về
quy trình, thủ tục thanh quyết toán;…
VI. HIỆN
ĐẠI HOÁ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÀNH CỦA
BỘ MÁY CƠ QUAN BỘ
1. Về tăng
cường kỷ luật hành chính, đổi mới công
tác Văn phòng :
Tăng cường
kỷ luật hành chính trong cơ quan Bộ nói chung,
trọng tâm là đổi mới công tác Văn Phòng
được xác định là một trong những yêu
cầu hết sức cần thiết, trực tiếp góp
phần tăng cường hiệu quả của bộ
máy hành chính của cơ quan Bộ. Chính vì vậy mà trong các
kế hoạch, nhiệm vụ CCHC của Bộ trong
một vài năm gần đây, việc đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của
Văn Phòng Bộ luôn được xem là một trong
những nội dung được chú trọng.
Từ những
năm 2002-2003, đổi mới công tác Văn Phòng Bộ
đã nằm trong nội dung hoạt động hỗ
trợ của Dự án Tăng cường năng lực quản
lý hành chính của Bộ Tư pháp (do Sida Thuỵ Điển
tài trợ) và một loạt các hoạt động
nhằm đổi mới công tác Văn phòng đã
được thực hiện như: Tiến hành khảo
sát đánh giá thực trạng về Văn phòng (thực
trạng hoạt động trên từng mảng công
việc, cán bộ, phương tiện làm việc,…);
tổ chức các Toạ đàm nhằm thảo luận,
đóng góp ý kiến cải tiến hoạt động, quy
trình giải quyết công việc của Văn phòng,
nhất là các khâu như Văn thư, các hoạt
động hậu cần khác,…
Từ năm 2004,
hoạt động đổi mới, hoàn thiện công tác
Văn Phòng đã luôn được chú trọng đưa
vào Kế hoạch CCHC của Bộ Tư pháp. Một
loạt các hoạt động do Văn Phòng chủ trì
hoặc phối hợp với các đơn vị khác
chủ trì thực hiện đã và đang được
triển khai, như: Xây dựng nội quy công sở
mới; xây dựng Dự thảo Quy chế quản lý công
tác văn thư của Bộ, Quy chế sửa
đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài sản
của Bộ; … Kết quả là trong một hai năm
trở lại đây, công tác Văn phòng đã có những
chuyển biến nhất định, góp phần trực
tiếp phục vụ hoạt động điều hành
của Bộ. Trong đó, việc chấp hành kỷ
luật lao động, công tác bảo đảm an toàn và
thực hành tiết kiệm trong cơ quan ngày càng
được kiểm soát chặt chẽ và đưa vào
khuôn khổ.
Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả bước đầu, nhìn
chung kỷ luật hành chính trong cơ quan Bộ nói chung và
công tác Văn Phòng nói riêng còn khá nhiều tồn tại. Theo
nhận định của chính cán bộ, công chức
cơ quan Bộ thì việc chấp hành kỷ luật hành
chính của một bộ phận cán bộ, công chức
trong Bộ hiện nay vẫn còn mang tính đối phó,
thiếu ý thức tự giác.[18]
Công tác Văn phòng còn một số mảng hoạt
động chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu công việc của cơ quan
Bộ, ví dụ như công tác văn thư của Bộ,
chế độ cấp phát văn phòng phẩm,…Biểu
hiện thông qua việc xử lý công văn đi-
đến còn chậm, thiếu chuyên nghiệp; việc
cấp phát văn phòng phẩm cho các đơn vị còn
chưa kịp thời, cơ cấu văn phòng phẩm còn
bất hợp lý[19],…
2. Vấn
đề cải tiến chế độ hội họp,
biểu mẫu giấy tờ hành chính và chế độ
thông tin, báo cáo
i) Trên cơ sở
đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, tiết
kiệm, chống lãng phí trong hội họp, công tác tổ
chức hội họp của Bộ trong những năm
gần đây cũng được xem xét, rà soát
để cải tiến một bước, cả về
nâng cao chất lượng cuộc họp lẫn giảm
số lượng cuộc họp, cải tiến trình
tự thủ tục tổ chức cuộc họp. Tính
riêng năm 2004, do kết hợp được các cuộc
họp giao ban chung của ngành và giao ban, tập huấn theo
chuyên đề, Bộ Tư pháp đã cắt giảm
được 16 cuộc họp, hội nghị so với
kế hoạch. Từ đầu năm 2005, việc
duyệt danh mục các hội nghị, hội thảo chung
của Bộ được tiến hành khá chặt
chẽ. Trình tự, thủ tục tổ chức họp
cũng được cải tiến nhằm góp phần
tăng cường chất lượng các cuộc
họp: Bộ đã có chỉ đạo cho các đơn
vị chủ trì phải tổ chức kỹ về
nội dung, tài liệu phải gửi đến cho các
đại biểu trước khi tổ chức cuộc
họp, hội nghị, tại hội nghị chỉ trình
bày báo cáo tóm tắt, dành thời gian cho các đại
biểu phát biểu ý kiến,…Thực hiện Quy chế
làm việc mới của Bộ Tư pháp, họp Giao ban
cấp vụ giảm từ một kỳ/ tháng xuống
một kỳ /quý; Giao ban Thủ trưởng các đơn
vị chủ yếu tập trung vào thảo luận các
như nội dung như: Những vấn đề chuyên
môn có tính chất liên vụ, còn có vướng mắc;
thảo luận các dự án Luật do Bộ chủ trì,...
ii) Nhằm đáp
ứng yêu cầu hiện đại hoá công sở,
đổi mới lề lối làm việc, một hai
năm gần đây Bộ đã quan tâm đến việc
nghiên cứu cải tiến các biểu mẫu, giấy
tờ hành chính, trước hết là nhằm chuẩn hoá các
biểu mẫu hồ sơ trình xin ý kiến Lãnh
đạo Bộ, mẫu hồ sơ trình ký; mẫu báo cáo
định kỳ,… Đầu năm 2005, Văn Phòng
Bộ đã chủ trì việc xây dựng mẫu hồ
sơ báo cáo, trình xin ý kiến của các đơn vị
đối với Lãnh đạo Bộ và tổ chức
việc lấy ý kiến Lãnh đạo các đơn
vị thuộc Bộ về mẫu hồ sơ này.
Mẫu báo cáo định kỳ (bao gồm các yêu cầu
cơ bản đối với nội dung một báo cáo)
dành cho các đơn vị thuộc Bộ và địa
phương cũng đang được tiến hành xây
dựng.
Tuy nhiên, đó cũng
chỉ là những chuyển biến ở mức
độ nhất định. Chế độ hội
họp, thông tin báo cáo và chế độ chuẩn hoá
biểu mẫu giấy tờ hành chính trong cơ quan Bộ
còn khá nhiều hạn chế, đó là: Tổ chức
họp số lượng các cuộc họp còn nhiều,
một số cuộc họp nội dung còn thiếu
trọng tâm, còn lãng phí, kỷ luật hội họp của
một bộ phận cán bộ công chức kém; đa
số đơn vị không tuân theo mẫu hồ sơ hành
chính; nhiều loại báo cáo có thông tin trùng lặp , thời
gian yêu cầu báo cáo bất hợp lý, thiếu hướng
dẫn tiêu chí báo cáo,…
Thực trạng trên
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Bên
cạnh những nguyên nhân khách quan (như thiếu quy
định, quy chế riêng) thì các nguyên nhân chủ quan là
rất nhiều, như: Những hạn chế trong cách
thức tổ chức hội họp, hạn chế trong ý
thức chấp hành kỷ luật hội họp của
một bộ phận cán bộ công chức cơ quan, kể
cả cán bộ lãnh đạo các đơn vị; nội
dung các biểu mẫu, giấy tờ hành chính còn thiếu
thống nhất, bất hợp lý; hạn chế trong ý
thức làm việc, kỹ năng giải quyết công
việc của một bộ phận cán bộ, công
chức Văn phòng; hạn chế trong việc quan tâm,
chỉ đạo tổ chức công tác Văn phòng,…
Do vậy, trong thời gian sắp tới, tăng
cường kỷ luật hành chính, đổi mới công
tác Văn phòng cần được xem là một trong
những khâu trọng điểm trong hoạt động
CCHC của Bộ nhằm trực tiếp góp phần nâng
cao hiệu quả điều hành của bộ máy hành chính
của Bộ.
3. Công tác tin học
hoá phục vụ hoạt động quản lý
điều hành của Bộ
Với tinh thần,
gắn công tác cải cách hành chính với việc triển
khai Đề án Tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước theo hướng ứng dụng mạnh mẽ
CNTT trong các hoạt động quản lý của cơ quan
Bộ và các lĩnh vực quản lý nhà nước của
Bộ đồng thời thực hiện Đề án tin
học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2005, trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp đã
triển khai những hoạt động cơ bản
như sau nhằm đưa công tác tin học phục
vụ trực tiếp hoạt động của bộ
máy hành chính cơ quan Bộ.
Thứ nhất, đẩy mạnh một bước
việc áp dụng công nghệ tin học vào hoạt
động quản lý điều hành của bộ máy
cơ quan Bộ
i) Hiện nay, toàn bộ các
máy tính trong khu vực trụ sở của Bộ đã có
thể làm việc trong hệ thống mạng thống
nhất và có thể tra cứu, truy cập lượng thông
tin trên Internet;
ii) Vận hành,
quản trị Trung tâm Tích hợp dữ liệu của
Bộ. Cấp phát địa chỉ IP, địa chỉ
thư điện tử… Duy trì kết nối của Trung
tâm Tích hợp với mạng Chính phủ, mạng Internet;
iii) Hoàn thiện
hệ thống thư tín điện tử của Bộ : Hoàn
thành triển khai việc cài đặt,
hướng dẫn sử dụng Hệ thống thư
điện tử Bộ Tư pháp có dạng XXX@moj.gov.vn cho các cán bộ, công chức trong cơ
quan.
iv) Từng
bước hoàn thiện và phát triển Cổng giao tiếp
điện tử của Bộ để thực sự
trở thành công cụ thuận tiện, hiện đại
trên mạng, nâng cao hiệu quả của công tác
điều hành, tác nghiệp và giao tiếp của Lãnh
đạo và chuyên viên Bộ.
Trang WEB của
Bộ đăng tải các thông tin giới thiệu về
chức năng, nhiệm vụ và các thông tin về các
lĩnh vực hoạt động của Bộ cho
người dân và doanh nghiệp trên mạng
Internet.Đặc biệt, đã xây dựng trang tin cung
cấp thông tin hướng dẫn thủ tục hành chính
thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của
Bộ trên Cổng thông tin (công chứng, hộ tịch;
đăng ký giao dịch có bảo đảm ; trợ giúp
pháp lý,…);
v) Bộ cũng
đã tổ chức liên tục các lớp bồi
dưỡng kiến thức tin học văn phòng cho cán
bộ, công chức thuộc Bộ (từ cấp Vụ
trở xuống).
Thứ hai, tăng cường việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả cơ sở dữ liệu pháp
luật quốc gia do Bộ Tư pháp chủ trì và khẩn
trương xây dựng, phát triển các cơ sỡ dữ
liệu chuyên ngành khác của Bộ :
i) Cơ sở dữ
liệu pháp luật quốc gia đã và đang phát huy
hiệu quả, phục vụ trực tiếp cho công tác rà
soát, thẩm định, góp ý kiến văn bản quy
phạm pháp luật và các công tác khác của Bộ,
đồng thời tạo thêm một kênh thông tin cho
người dân và doanh nghiệp tiếp cận hệ
thống pháp luật của Việt Nam thông qua mạng
Internet (trong năm 2004 có trên 60 nghìn lượt người
truy cập trang WEB CSDLPLQG của Bộ để tra
cứu văn bản quy phạm pháp luật). Đã phát hành
miễn phí 2000 CD Rom CSDLPLVN (phiên bản 2.0) đến
tận Tư pháp quận, huyện phục vụ công tác xây
dựng, rà soát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật.
ii) Đẩy mạnh công
nghệ tin học trong lĩnh vực công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm:
- Ban dự án tin học hóa
công chứng của Bộ đã tiến hành lắp
đặt phần cứng cho 21 Phòng Công chứng và 01 Trung
tâm tin học công chứng của Bộ với tổng
số 22 máy chủ, 181 máy trạm và tiếp tục trang
bị phần cứng, cài đặt phần mềm,
lắp đặt mạng nội bộ (LAN) cho 20 Phòng Công
chứng thuộc giai đoạn II; xây dựng bổ sung
phần mềm đơn giản (LTCC) để áp dụng
tạm thời trong thời gian chưa cài đặt MASTER
tại một số phòng Công chứng. Việc đào
tạo tin học cho các công chứng viên và nhân viên nghiệp
vụ các phòng công chứng cũng được tăng
cường.
- Trong lĩnh vực
đăng ký giao dịch có bảo đảm: Toàn bộ
quá trình nghiệp vụ đăng ký giao dịch có bảo
đảm của Bộ đã được tin học
hoá và bước đầu xây dựng cơ sở dữ
liệu của cả hệ thống. Trong năm 2004 đã
nối mạng được với ba chi nhánh tại
Hải Phòng, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và
cũng trong năm 2004 đang xúc tiến việc chuẩn
bị cơ sở kỹ thuật để tiến
tới đăng ký giao dịch bảo đảm qua
mạng Internet và đăng ký trực tuyến .
iii) Triển khai
Đề án tiền khả thi xây dựng một số
CSDL chuyên ngành như kiểm tra văn bản QPPL, tuyên
truyền giáo dục pháp luật và triển khai xây dựng
các phần mềm CSDL chuyên ngành khác phục vụ quản
lý điều hành của Bộ trong từng lĩnh vực
(thi hành án dân sự; phần mềm Kế toán Văn Phòng ;
phần mềm Quản lý Luật sư ; phần mềm
quản lý nhân sự,…).
Thứ
ba, xây dựng và ban hành các quy
chế tạo cơ sở pháp lý cho việc khai thác,sử
dụng, quản lý mạng máy tính của Bộ
- Đã ban hành Quy
chế sử dụng hệ thống thư điện
tử của Bộ Tư pháp (09/3/2005)
- Đang soạn
thảo một số quy chế như: Dự thảo Quy
chế quản lý, khai thác mạng máy tính của Bộ;
Dự thảo Quy chế về chế độ nhuận
bút, thù lao đối với việc biên soạn, biên
tập tin đưa lên Cổng thông tin của Bộ Tư
pháp.
Hiện nay việc áp
dụng tin học vào hoạt động của Bộ
vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn
chế từ cả phía khai thác, sử dụng tin
đến việc quản lý thông tin qua mạng.Theo kết
quả khảo sát của Ban Chỉ đạo CCHC Bộ
thì trong số người được hỏi ý kiến
chỉ có gần một nửa cán bộ, công chức
của Bộ thường xuyên sử dụng trang thông tin
điện tử của Bộ (tỷ lệ 48,1%) số
còn lại sử dụng không thường xuyên (50,4%). Có
nhiều nguyên nhân khác nhau, bên cạnh nguyên nhân từ
phía người sử dụng,do chưa quen với
việc khai thác, trao đổi tin trên mạng còn có
những nguyên nhân như: Do chưa được tập
huấn sử dụng; do thông tin trên mạng của Bộ
nghèo nàn, không đáp ứng được yêu cầu công
việc hoặc do việc thiết kế sơ đồ
trang Web còn chưa hợp lý, khó khai thác.[20] Bên cạnh đó, một trong
những nguyên nhân đáng kể hạn chế quá trình
vận hành, sử dụng Trang thông tin điện tử
của Bộ chính là do thiếu cơ chế chia sẻ,
cung cấp và kiểm soát thông tin trong quá trình hình thành và
vận hành Trang thông tin này, thể hiện qua việc
Bộ còn thiếu một số quy chế cần thiết
như: Quy chế về cung cấp và cập nhật thông
tin vào trang thông tin điện tử của Bộ và
một số quy chế cần thiết khác. Việc khai
thác thông tin từ cơ sở dữ liệu pháp luật
(CSDL) của Bộ gặp một số tồn tại, khó
khăn tương tự: Số cán bộ, công chức
thường xuyên khai thác CSDL này cũng chỉ chiếm
một nửa trong số người được
hỏi ý kiến. Thực trạng này có những lý do
từ việc về đảm bảo kỹ thuật
lẫn việc đảm bảo cập nhật các thông
tin mới có những hạn chế nhất định.[21]
Tóm lại, trong
mấy năm qua Bộ Tư pháp đã có nhiều nỗ
lực trong việc ứng dụng công nghệ tin học
vào hoạt động quản lý điều hành của
Bộ, những kết quả đạt được
là đáng ghi nhận trong quá trình hiện đại hoá công
sở, góp phần nâng cao năng lực của bộ máy
hành chính. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những kết
quả còn rất khiêm tốn và chưa thể đáp
ứng được nhiều các nhu cầu bức xúc
trong công tác tin học hoá hoạt động quản lý
điều hành của Bộ. Trong thời gian tới
Bộ sẽ tăng cường hơn nữa công tác này.
3. Về xây dựng
quy trình chuẩn giải quyết công việc của các đơn
vị và các chức danh công chức khác nhau trong các
đơn vị thuộc Bộ và nghiên cứu áp dụng
thí điểm hệ thống quản lý chất
lượng vào hoạt động của một số
đơn vị thuộc Bộ
Xây dựng, hoàn
thiện hệ quy trình chuẩn giải quyết công
việc (của từng đơn vị và của từng
chức danh công chức/ viên chức thuộc Bộ)
với những đặc tính như: khoa học,
đơn giản, công khai, minh bạch,... nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả công việc của từng
khâu trong bộ máy hành chính và của từng chức danh công
chức, trên cơ sở những yêu cầu của cải
cách hành chính là một trong những mảng hoạt
động nhằm đổi mới phương thức
điều hành và hiện đại hoá công sở cơ
quan Bộ. Từ năm 2004, các hoạt động này
đã được chính thức đưa vào Kế
hoạch CCHC của Bộ (với nguồn kinh phí
chủ yếu do Tiểu Dự án Tăng cường
năng lực quản lý hành chính, do Sida Thuỵ
điển tài trợ).
Từ năm 2004, theo
Kế hoạch CCHC, Bộ đã giao Viện khoa học pháp
lý chủ trì tổ chức thực hiện một loạt
các hoạt động nhằm xây dựng quy trình
chuẩn giải quyết công việc của một số
đơn vị, công chức, viên chức thuộc Bộ.
Các hoạt động xây dựng quy trình chuẩn
được triển khai dưới những hình
thức như: Tổ chức lớp tập huấn
về lý thuyết quản lý dựa trên kết quả công
việc(RBM/ PM), với sự tham gia của các chuyên gia
Thuỵ điển; Tổ chức hoạt động
tự nghiên cứu mô tả thực trạng một số
quy trình giải quyết công việc và thiết kế quy
trình chuẩn (dựa trên cơ sở vận dụng lý
thuyết P.M);Tổ chức Toạ đàm thảo luận,
đóng góp ý kiến trực tiếp vào các phương án
thiết kế quy trình chuẩn giải quyết công
việc của một số đơn vị/ công
chức/ viên chức thuộc Bộ.
Nhìn chung, xây dựng
quy trình chuẩn giải quyết công việc là nội dung
cải cách động chạm đến thói quen giải
quyết, xử lý công việc của các đơn vị
và từng cá nhân công chức nên đòi hỏi thời gian
nghiên cứu, thử nghiệm và tác động dần
dần đến nhận thức của cả công
chức, viên chức lãnh đạo lẫn công chức, viên
chức chuyên môn. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát
của Ban chỉ đạo CCHC của Bộ thì hoạt
động này được sự ủng hộ của
đa số cán bộ, công chức trong Bộ.[22]
Trong thời gian
sắp tới, Bộ sẽ tăng cường việc tuyên
truyền về lý thuyết ISO trong các cơ quan hành chính cho
cán bộ, công chức thuộc Bộ và tổ chức xây
dựng Đề án dụng thí điểm mô hình hệ
thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9000 vào hoạt động của một số đơn
vị (như Văn Phòng Bộ, một số đơn
vị sự nghiệp thuộc Bộ) cũng như
tăng cường việc chỉ đạo hoàn thiện
hệ thống quy trình chuẩn (cơ bản) giải
quyết công việc của từng loại đơn
vị, từng loại chức danh cán bộ, công chức,
viên chức thuộc Bộ.
VII. VỀ HOẠT
ĐỘNG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH CỦA BỘ
1. Thực hiện các biện pháp
về tổ chức nhằm tập trung việc chỉ
đạo thực hiện các nhiệm vụ CCHC của
Bộ
Để triển khai các
nhiệm vụ cải cách hành chính của Ngành Tư pháp
theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo CCHC
của Chính phủ, từ năm 2004, Ban Cán sự Đảng
và Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã tập trung kiện
toàn, thành lập một số Ban Chỉ đạo
để thực hiện các nhiệm vụ CCHC của
Bộ. Cụ thể là:
i) Thứ nhất: Thành
lập Ban Chỉ đạo Chương trình đổi
mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất
lượng văn bản quy phạm pháp luật
(gọi tắt là Ban Chỉ đạo Chương trình
909) nhằm triển khai một trong 07 Chương trình hành
động cấp quốc gia triển khai Chương
trình tổng thể CCHC nhà nước từ 2001- 2010 do
Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chủ trì (Bộ
Trưởng Uông Chu Lưu làm Trưởng Ban)
ii) Thứ hai: Thành
lập Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ Tư pháp
để chỉ đạo tổ chức triển khai các
hoạt động CCHC chung của Bộ (Bộ
trưởng Uông Chu Lưu làm Trưởng Ban).
iii) Thứ ba: Nhằm
chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị
quyết 08/2004/NQ-CP của Chính phủ ngày 30/6/2004 về
việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp
quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, đã thành lập Ban Chỉ đạo
thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về
công tác tư pháp (Bộ trưởng Uông Chu Lưu làm
Trưởng Ban);
iv) Thứ tư:
Để đẩy mạnh nhiêm vụ cải cách tài chính
công thuộc thẩm quyền của Bộ, đã thành
lập Ban Chỉ đạo chỉ đạo việc
xây dựng và thực hiện các đề án giao quyền
tự chủ tài chính cho các đơn vị sự
nghiệp có thu và mở rộng thí điểm khoán biên
chế, kinh phí quản lý hành chính đối với các
cơ quan nhà nước theo yêu cầu của Nghị
định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ và
Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ (Thứ trưởng Lê Thị Thu Ba làm
Trưởng Ban Chỉ đạo).
2. Thực hiện việc kế
hoạch hoá hoạt động CCHC của Bộ:
Ngay sau khi thành
lập, Ban Chỉ đạo CCHC của Bộ đã
khẩn trương xây dựng Kế hoạch CCHC hàng
năm (năm 2004 năm 2005) và Chương trình CCHC giai
đoạn 2005-2010 của Bộ. Đây là điểm
đánh dấu sự chuyển biến tương
đối mạnh mẽ trong phương thức chỉ
đạo - triển khai hoạt động CCHC của
Bộ, thể hiện xu hướng tiến hành hoạt
động CCHC một cách bài bản, có hệ thống.
Kế hoạch CCHC năm 2004 và Chương trình CCHC giai
đoạn 2005-2010 có nội dung bám sát các yêu cầu của
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước
đến 2010, phù hợp với yêu cầu cải cách
tư pháp và gắn kết mật thiết, phục vụ
tích cực cho các nhiệm vụ chuyên môn của ngành (các
Kế hoạch, Chương trình này đã được
gửi lên báo cáo Ban Chỉ đạo CCHC của Chính
phủ trong các báo cáo trước đây).
3. Tiến hành các
hoạt động cụ thể triển khai công việc
CCHC
Ngoài các công việc
chỉ đạo chung như: Tổ chức xây dựng và
thông qua Kế hoạch nội dung và Kế hoạch kinh phí
CCHC hàng năm; chỉ đạo việc thanh quyết toán
kinh phí;tổ chức các cuộc họp định
kỳ,…Ban chỉ đạo CCHC của Bộ còn
trực tiếp chỉ đạo tiến hành một
số hoạt động như:
- Trực tiếp
chỉ đạo, tổ chức một số hoạt
động CCHC có tính chất liên đơn vị như
tổ chức Đoàn công tác liên vụ để tiến
hành khảo sát dư luận xã hội về thủ
tục hành chính trong một số lĩnh vực như bán
đấu giá tài sản, thi hành án, trợ giúp pháp lý (tháng
10/2004).
- Tổ chức
hoạt động tổng kết CCHC giai đoạn I
(2001-2005) của Bộ Tư pháp và bổ sung nội dung
Chương trình CCHC 2006-2010 của Bộ. Cụ thể:
+ Xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch tổng kết CCHC
giai đoạn I của Bộ (gồm những hoạt
động chính như: Hoạt động khảo sát; Xây
dựng các báo cáo tổng kết nhánh trong từng lĩnh
vực; xây dựng báo cáo Tổng kết CCHC chung của
Bộ,…).
+ Đặc biệt,
để có thêm cơ sở đánh giá chính xác về
những kết quả, ưu điểm, tồn tại
và khó khăn, những bài học kinh nghiệm của CCHC
giai đoạn 2001-2005 nhằm phục vụ cho hoạt
động Tổng kết, đồng thời để
tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm đẩy
mạnh CCHC của Bộ trong giai đoạn tới
2006-2010, Ban Chỉ đạo đã tổ chức
điều tra khảo sát thực tiễn (chủ yếu
bằng phương thức phiếu điều tra) trong
thời gian từ cuối tháng 7 đến đầu tháng
9/2005. Đối tượng được hỏi ý
kiến bao gồm một số cán bộ, công chức
của các đơn vị thuộc Bộ (công chức lãnh
đạo và công chức chuyên môn), cán bộ lãnh đạo
và chuyên viên, chấp hành viên của một số Sở
Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, đại
diện cho các vùng, miền khác nhau trong cả nước.[23]
VIII. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT
VỀ KẾT QUẢ CCHC CỦA BỘ GIAI ĐOẠN I,
NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CCHC
1. Đánh giá khái quát về
kết quả CCHC của Bộ giai đoạn I:
Hoạt động
CCHC giai đoạn 2001-2005 của Bộ bước
đầu đã thu được những kết quả
nhất định, góp phần vào quá trình thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của ngành. Bên cạnh
đó, các hoạt động này còn đóng vai trò khá quan
trọng, tạo nhằm tạo tiền đề cho
việc triển khai các hoạt động CCHC của
Bộ trong giai đoạn tiếp theo.
Trong 04 nội dung
lớn cần tiến hành cải cách hành chính (cải cách
thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ và tài
chính công) thì có thể nói thành công nhất trong hoạt
động CCHC của Bộ tập trung vào lĩnh vực
thể chế, thông qua qua khá nhiều nội dung của các
dự án, dự thảo do Bộ chủ trì soạn
thảo trình ban hành (hoặc ban hành theo thẩm quyền)
đã thể hiện được tương
đối rõ tinh thần cải cách hành chính nhà nước
(về phân cấp, về đổi mới các trình tự,
thủ tục hành chính, về đổi mới quy trình,
thủ tục soạn thảo văn bản,…). Tiếp đến
là một số thành công nhất định trong cải
cách tổ chức bộ máy, thông qua việc hình thành
một bộ máy cơ quan Bộ khá gọn nhẹ, phân
định được tương đối rõ
chức năng, thẩm quyền của các đơn
vị thuộc Bộ và lĩnh vực cán bộ.[24]
Tuy nhiên, đánh giá
một cách khách quan, toàn diện thì những thành công của
hoạt động CCHC của Bộ trong giai đoạn I
còn rất khiêm tốn, mới đáp ứng được
một phần những yêu cầu đặt ra trong các
nhiệm vụ CCHC nhà nước trong phạm vi nhiệm
vụ của Bộ, xét cả về tiến độ
triển khai lẫn hiệu quả tác động.
Những hoạt động CCHC của Bộ trong giai
đoạn vừa qua chưa tạo ra những thay
đổi có tính đột phá, mang tính cải cách từ
trong ý thức đến hành động và hiệu quả
thực tế mà có thể chỉ được xem là
bước khởi động đầu tiên trong một
quy trình hoạt động đòi hỏi thời gian lâu
dài, đòi hỏi những nỗ lực cả về
bề rộng lẫn bề sâu.
2. Những bất
cập, khó khăn chủ yếu và nguyên nhân:
2.1 Những bất
cập, khó khăn:
i) Còn nhiều
hoạt động không đảm bảo đúng tiến
độ triển khai:
Đánh giá tổng
thể, khoảng trên một nửa các nhiệm vụ CCHC
được hoàn thành theo đúng tiến độ
kế hoạch, các nhiệm vụ còn lại hoặc là đang
thực hiện, hoặc là chưa được triển
khai thực hiện, phải lùi sang kế hoạch của
năm sau. Mặc dù từ năm 2004, các hoạt
động CCHC đã được tiến hành bài
bản, có kế hoạch hơn hẳn so với các năm
trước đây, nhưng một số hoạt
động CCHC vẫn còn triển khai chậm, thiếu
đồng bộ, nên trong chừng mực nhất định
chưa hỗ trợ kịp thời cho các hoạt
động khác của Bộ, nhất là hoạt
động xây dựng pháp luật;
ii) Việc triển
khai các nhiệm vụ CCHC của Bộ vẫn chưa có
sự phối hợp, kết nối chặt chẽ
với việc triển khai các hoạt động CCHC của
địa phương, nhiều mô hình thí điểm CCHC
của địa phương trong một số lĩnh
vực chưa được kịp thời sơ
kết, tổng kết để rút kinh nghiệm và áp
dụng chung trong phạm vi toàn ngành tư pháp (như trong
lĩnh vực công chứng, hộ tịch, thi hành án, bán
đấu giá tài sản,...);
iii) Mặc dù Bộ Tư pháp
đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh các
hoạt động cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực tư pháp, nhưng những kết quả
đạt được trong lĩnh vực này nhìn chung
còn khiêm tốn, một số thủ tục hành chính
hiện hành vẫn chưa được sửa
đổi, bổ sung kịp thời, gây phiền hà cho dân,
đặc biệt là trong lĩnh vực công chứng,
hộ tịch.
iv) Việc thanh
quyết toán kinh phí CCHC được cấp còn khá
chậm, chưa đảm bảo yêu cầu tiến
độ thanh quyết toán kinh phí của cơ quan tài
chính.Các đơn vị còn thiếu chủ động
trong việc thanh quyết toán kinh phí CCHC được
cấp, không ít thủ trưởng của một số
đơn vị còn rất ít quan tâm đến vấn
đề này nên thiếu sự đôn đốc, nhắc
nhở, kiểm tra việc thanh quyết toán kinh phí CCHC
của đơn vị mình.
2.2 Nguyên nhân chính:
Có nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, có thể kể ra
một trong những nguyên nhân chính như sau:
i) Nhận thức
về nhiệm vụ CCHC của cán bộ, công chức,
viên chức của Bộ (kể cả một số cán
bộ lãnh đạo cấp Vụ) còn chưa cao. Trên thực
tế, tỷ lệ cán bộ công chức trong Bộ không
quan tâm đến hoạt động CCHC trong Bộ là
đáng kể.Thể hiện qua việc không nắm
được chính xác Bộ Tư pháp bắt đầu
chính thức ban hành kế hoạch CCHC từ năm nào, 2003
hay 2004, Bộ đã có Chương trình CCHC 05 năm hay
chưa,…[25] Tuy
đại đa số ý kiến khẳng định là
triển khai CCHC ở Bộ thực sự cần
thiết (97,1 %) nhưng trên thực tế không ít cán bộ
lãnh đạo đơn vị và công chức vẫn cho
rằng nhiệm vụ CCHC chỉ là nhiệm vụ
thứ yếu bên cạnh các nhiệm vụ chuyên môn
được giao, vì vậy thiếu nỗ lực
triển khai các nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, thói
quen làm việc theo lối cũ, tâm lý ngại thay
đổi, ngại áp dụng phương pháp làm việc
mới vẫn tồn tại trong nhiều đơn
vị, nhiều cá nhân cán bộ, công chức dẫn
đến “ sức ỳ” đáng kể trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ CCHC (đây cũng có
thể được xem là tình trạng chung của đa
số các cơ quan trong bộ máy hành chính hiện nay);
ii) Mặc dù có
nhiều cố gắng, nhưng ngoại trừ Ban Chỉ
đạo Chương trình 909 thì Ban Chỉ đạo CCHC
của Bộ và các Ban Chỉ đạo khác (thực hiện
nhiệm vụ CCHC cụ thể) vẫn chưa phát huy
hết vai trò của mình trong công tác chỉ đạo,
điều hành việc triển khai nhiệm vụ CCHC
của Bộ, thiếu sự chỉ đạo sát sao
đối với việc triển khai các nhiệm vụ
CCHC. [26]Do
khối lượng công việc chuyên môn của các thành viên
trong Ban khá bận rộn nên các Ban Chỉ đạo
(nhất là Ban Chỉ đạo CCHC) ít duy trì
được chế độ họp định kỳ
hoặc họp theo chuyên đề. Đặc biệt,
sự phối hợp,chia sẻ trách nhiệm giữa các
thành viên trong từng Ban chỉ đạo còn khá lỏng
lẻo.Tuy số lượng thành viên từng Ban Chỉ
đạo khá đông (mỗi Ban khoảng trên dưới 10
người), nhưng hầu hết công việc của Ban
chỉ đạo đều dồn trách nhiệm lên
một số ít thành viên trong Ban (như Phụ trách Ban
Chỉ đạo; Thường trực Ban chỉ
đạo và một vài thành viên khác), vì vậy trong một
số lĩnh vực nhất định, công tác chỉ
đạo triển khai nhiệm vụ CCHC còn lơi
lỏng, thiếu kịp thời, thiếu đồng
bộ. Việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả
thực hiện các nhiệm vụ CCHC theo kế hoạch
hàng năm của Bộ thiếu sát sao, cụ thể. Bên
cạnh đó, sự phối hợp, chia sẻ thông tin
giữa các Ban Chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ CCHC khác nhau trong Bộ cũng còn hạn chế.
iii) Tuy trong quá trình xây
dựng kế hoạch CCHC hàng năm Ban Chỉ đạo
CCHC luôn cố gắng xác định những vấn
đề trọng tâm, trọng điểm cần cải
cách nhưng các nội dung trong kế hoạch CCHC của
Bộ trong hai năm vừa qua vẫn còn tương
đối ôm đồm, dàn trải. Nhìn chung khối
lượng công việc đề ra trong kế hoạch
khá lớn so với khả năng thực hiện. Các
phương pháp tiến hành hoạt động CCHC trong
một số trường hợp còn chưa thực
sự có hiệu quả.
iv)
Do Bộ phải đảm nhiệm một khối
lượng công việc được giao rất lớn
hàng năm, từ các công việc thuộc nhiệm vụ
xây dựng pháp luật đến các công việc thuộc
nhiệm vụ quản lý nhà nước của ngành tư
pháp như Thi hành án, công chứng, hộ tịch,... Chính vì
vậy hầu như tất cả các đơn vị
chức năng thuộc Bộ đều phải tập
trung ưu tiên giải quyết các nhiệm vụ chuyên môn
được giao mà khó có thể cân đối thời
gian để thực hiện đúng tiến độ các
nhiệm vụ CCHC giao cho đơn vị, trong
điều kiện hạn hẹp cả về thời
gian lẫn nhân sự.
v)
Để đổi mới, đơn giản hoá các
thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng,
hộ tịch, thi hành án thì việc xây dựng, sửa
đổi các văn bản pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực này là rất cần thiết,
đặc biệt là các văn bản có giá trị pháp lý
cao như pháp lệnh, nghị định. Tuy nhiên, cho
đến quý III/2005 một số văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng, chứa đựng
nhiều thủ tục hành chính liên quan đến
người dân, tổ chức chưa được ban
hành kịp thời (VD: Nghị định thay thế
Nghị định số 83 về đăng ký hộ
tịch, Pháp lệnh công chứng...). Đây là một trong
những nguyên nhân khách quan dẫn đến những
vướng mắc, bất cập trong các thủ tục
hành chính. Bên cạnh đó, việc thanh, kiểm tra tình hình
thực hiện công tác tư pháp địa phương
cũng chưa được thực hiện
thường xuyên nên việc chấn chỉnh, xử lý các
cán bộ có hành vi sai trái, quan liêu, sách nhiễu dân trong
quá trình giải quyết các thủ tục hành chính trong
một số trường hợp còn chưa kịp
thời.
3. Bài học kinh
nghiệm:
Qua quá trình thực
hiện các hoạt động CCHC trong giai đoạn I
của Bộ Tư pháp (2001-2005) có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất: Cần tăng
cường trách nhiệm của Ban Chỉ đạo trong
việc tổ chức triển khai các nhiệm vụ CCHC (đặc
biệt là trách nhiệm của cá nhân từng thành viên Ban
Chỉ đạo), từ khâu phân công các thành viên trong Ban
phụ trách từng mảng công việc đến khâu theo
dõi, đôn đốc kiểm tra thực hiện các
nhiệm vụ CCHC trong phạm vi được phân công.
Đồng thời tăng cường các hoạt
động chung của Ban chỉ đạo để
kịp thời rút kinh nghiệm tổ chức công việc
và tăng cường phối hợp công tác giữa các thành
viên trong Ban chỉ đạo. Thực hiện việc
thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp
công việc giữa các Ban Chỉ đạo CCHC trong Bộ
(04 Ban Chỉ đạo).
Thứ hai: Đổi
mới cách thức xác định thứ tự ưu tiên
của các nhiệm vụ CCHC.
Xây dựng kế
hoạch theo hướng tập trung vào các nhiệm vụ
thực chất là nhiệm vụ CCHC. Hạn chế
việc đưa vào kế hoạch những nhiệm
vụ vừa là nhiệm vụ chuyên môn, vừa là nhiệm
vụ CCHC (đặc biệt là các nhiệm vụ xây
dựng pháp luật).Cần tập trung vào những
nhiệm vụ thiết thực, hiệu quả cải
cách thể hiện rõ ràng, có tác động trực tiếp
đến quy trình vận hành của bộ máy cơ quan
Bộ như: Tăng cường kỷ luật hành chính
trong cơ quan; cải tiến chế độ hội
họp, thông tin báo cáo, chế độ văn thư cơ
quan,…; tăng cường công tác tin học hoá trong hoạt
động điều hành của bộ máy cơ quan
Bộ; đổi mới quy trình giải quyết công
việc của từng đơn vị và từng chức
danh công chức theo hướng xây dựng quy trình chuẩn
giải quyết công việc,… Đây là những nhiệm
vụ thuộc một trong 04 lĩnh vực lớn cần
cải cách. Tuy nhiên, việc thực hiện thành công
những nhiệm vụ này thực sự sẽ mang tính
"đột phá", tạo chuyển biến cơ
bản trong đổi mới phương thức lề
lối, làm việc của cả cơ quan Bộ, góp
phần hỗ trợ cho việc thực hiện các
nhiệm vụ CCHC khác, góp phần tăng cường
năng lực của cả bộ máy hành chính cơ quan và
góp phần trực tiếp tạo ra những chuyển
biến thật sự trong nhận thức của cán
bộ, công chức của Bộ về những tác động
tích cực, sự cần thiết của cải cách hành
chính.
Thứ ba: Cải tiến
phương pháp tổ chức triển khai các nhiệm
vụ CCHC
Cần tìm kiếm, lựa chọn
những phương thức thích hợp để tăng
cường hiệu quả của việc thực
hiện các nhiệm vụ triển khai kế hoạch CCHC,
như:
- Đẩy mạnh
việc kiểm tra của Ban Chỉ đạo đối
với việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC
bằng các phương thức như: Kiểm tra đột
xuất, kiểm tra định kỳ.
- Tổ chức
kịp thời việc sơ kết đánh giá những
nhiệm vụ CCHC được xác định là mô hình
thí điểm hoặc trọng điểm (như mô hình "một
cửa" trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
đối với công tác tư pháp; sơ kết đánh giá
kết quả rà soát các thủ tục hành chính liên quan
đến dân, doanh nghiệp trong một số lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ,…)
Thứ tư: Nâng cao nhận
thức và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên
chức các đơn vị (công chức lãnh
đạo và công chức chuyên môn) trong việc thực
hiện các nhiệm vụ CCHC. Cần có chính sách khen
thưởng, khuyến khích đơn vị, cá nhân
triển khai CCHC có hiệu quả.
Thông qua các biện
pháp như:
- Tăng
cường kỷ luật hành chính cơ quan;
- Tổ chức
để các đơn vị luân phiên báo cáo, trao
đổi kết quả thực hiện các nhiệm
vụ CCHC của đơn vị mình;
- Tăng cường
việc thông tin về các hoạt động CCHC của
Bộ trên trang thông tin điện tử của Bộ;
- Mức độ
thực hiện các nhiệm vụ CCHC được giao
cần được coi là một trong những căn
cứ để xét thi đua của các đơn vị,
thủ trưởng đơn vị hàng năm,..
Thứ năm: Tăng cường
các biện pháp phối hợp với địa
phương trong quá trình triển khai các nhiệm vụ CCHC
được giao
- Đặc biệt
chú ý việc đảm bảo thu thập,tổng hợp,
xử lý các thông tin của địa phương phản
ánh về những bất cập, tồn tại trong các
hoạt động chỉ đạo điều hành
của Bộ (có liên quan đến những yêu cầu
về CCHC);
- Tăng cường
trao đổi thông tin giữa Bộ và địa
phương về các hoạt động CCHC, kết
quả thu được, những bài học kinh nghiệm
rút ra từ quá trình triển khai các nhiệm vụ CCHC.
PHẦN II
PHƯƠNG
HƯỚNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA BỘ TƯ PHÁP GIAI
ĐOẠN 2006-2010
Bộ Tư pháp
đã có Chương trình cải cách hành chính giai
đoạn 2005-2010 (ban hành kèm theo Quyết
định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
số 460/QĐ- BTP ngày 12 tháng 8 năm 2004). Phương
hướng cải cách hành chính của Bộ Tư pháp
2006-2010 về cơ bản dựa trên cơ sở của
Chương trình này, có bổ sung,cụ thể hoá một
số nội dung nhất định nhằm đáp
ứng yêu cầu mới hiện nay về CCHC Nhà
nước nói chung và CCHC của Bộ Tư pháp nói riêng.
Cụ thể như sau:
I. MỤC TIÊU VÀ
NHỮNG YÊU CẦU CHUNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH CỦA BỘ
1. Mục tiêu khái quát
của cải cách hành chính của Bộ từ 2006
đến 2010.
Tiếp tục
đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ máy
hành chính, tăng cường năng lực quản lý hành
chính của Bộ Tư pháp với đầy đủ
những thuộc tính của một nền hành chính công
vụ hiện đại như dân chủ, vững
mạnh, gọn nhẹ, linh hoạt, chuyên nghiệp và
hoạt động có hiệu quả nhằm đáp
ứng ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ của
Bộ và của ngành trong quá trình cải cách hành chính nhà
nước và cải cách tư pháp cả trong thời gian
trước mắt và lâu dài. Phấn đấu đến
năm 2010 tạo nên sự chuyển biến cơ bản
trong hoạt động của bộ máy hành chính cơ quan
Bộ.
Các mục tiêu chủ
yếu như sau:
1.1. Hoàn thiện và
nâng cao chất lượng thể chế trong các lĩnh
vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ;
1.2. Nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả và hiện
đại hoá hoạt động của bộ máy cơ
quan Bộ Tư pháp và các đơn vị thuộc Bộ;
1.3. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp trong
sạch, vững mạnh, chính quy, hiện đại;
đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu, giỏi về trình độ năng lực,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Bộ, ngành trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và nhu cầu hội nhập quốc
tế;
1.4. Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế quản lý về tài chính công trong
phạm vi thẩm quyền của Bộ.
2. Các yêu cầu
đối với nội dung chương trình cải cách
hành chính của Bộ
2.1. Được
xác định trên cơ sở các mục tiêu, nguyên tắc,
yêu cầu,nội dung, của Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010 của 07 Chương trình hành động của
Chính phủ, các yêu cầu của Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đến năm 2010 và định hướng 2020,
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 (theo tinh thần của các Nghị quyết của
Bộ Chính trị số 48 - NQ/TW ngày 21/5/2005 và số 49
-NQ/TW ngày 02/6/2005).
2.2. Phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của Bộ, của ngành,
bám sát các yêu cầu đặt ra từ Chương trình
hành động của ngành Tư pháp giai đoạn
2002-2007; có sự kết hợp chặt chẽ với
nội dung của các Đề án, Dự án trong
nước và quốc tế của Bộ đã
được phê duyệt liên quan đến cải cách
hành chính;
2.3. Các nội dung
cải cách hành chính phải thể hiện được
tư tưởng: Xác định rõ được trách
nhiệm cá nhân của thủ trưởng đơn vị
ở từng cấp quản lý, từng tổ chức,
bộ phận đơn vị và trách nhiệm cá nhân
của từng công chức; một đơn vị,
một người có thể được giao nhiều
việc, nhưng từng việc chỉ có một đơn
vị hoặc một cá nhân công chức chịu trách
nhiệm chính;
2.4. Phục vụ
thiết thực nhiệm vụ của Bộ, ngành,
nhưng không thay thế, chồng chéo các kế hoạch,
chương trình công tác khác nhằm thực hiện các
nhiệm vụ thường xuyên của Bộ, ngành;
2.5. Đảm
bảo tính kế thừa, liên thông trong từng giai
đoạn kế hoạch; đảm bảo sự rõ
ràng, tính khoa học, tính khả thi trong toàn bộ nội
dung Chương trình;
2.6. Được
xem xét để chỉnh sửa, bổ sung qua từng giai
đoạn ngắn (01- 02 năm) nhằm đảm
bảo phù hợp với các điều kiện cụ
thể, các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành.
II. XÁC ĐỊNH
BƯỚC ĐI, NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
CỦA CHƯƠNG TRÌNH
1. Xác định
bước đi
1.1 Giai đoạn một
(2006 - 2009)
Tổ chức triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ CCHC thuộc
Chương trình, trên cơ sở ưu tiên những
nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình.
1.2. Giai đoạn hai (2010)
i)
Hoàn
thành các nhiệm vụ CCHC thuộc Chương trình.
ii)
Tổng
kết, rút ra bài học kinh nghiệm về CCHC trong
phạm vi của Bộ, ngành trong giai đoạn 5 năm
2006-2010 để chuẩn bị xây dựng Chương
trình CCHC cho 5 năm tiếp theo của Bộ trên cơ
sở định hướng của Chương trình
tổng thể về CCHC Nhà nước ở giai
đoạn sau.
2. Những
nhiệm vụ trọng tâm trong toàn bộ quá trình triển
khai Chương trình
2.1. Các nhiệm vụ
về cải cách thể chế
Các nhiệm vụ ở
lĩnh vực này được thực hiện
đồng thời từ hai vị trí khác nhau của
Bộ
i) Một là, vị trí
ở tầm quốc gia, giúp Chính phủ thực hiện thành
công các nhiệm vụ cải cách thể chế thuộc
Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà
nước giai đoạn 2001- 2010 thông qua việc tổ
chức thực hiện Chương trình Đổi
mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất
lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(gọi tắt là Chương trình 909), nhằm tạo ra
một bước chuyển biến cơ bản về
chất trong công tác xây dựng,ban hành các dự án, dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ
chủ trì xây dựng hoặc ban hành.
Tham mưu cho Chính phủ
trong kế hoạch triển khai Nghị Quyết 48 của
Bộ Chính trị về Xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010 và
định hướng đến 2020 những nội
dung liên quan đến Cải cách hành chính; gắn cải
cách hành chính với triển khai các nội dung công tác
của chiến lược Cải cách Tư pháp và xây
dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
ii) Hai là, vị trí ở
tầm Bộ, ngành, trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tư pháp,
nhằm thực hiện những yêu cầu về cải
cách thể chế được đặt ra đối
với các Bộ trong khuôn khổ Chương trình tổng
thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2001- 2010.
Từ năm 2006 tập
trung vào:
- Triển khai áp dụng
kết quả nghiên cứu từ các Đề án của
Chương trình 909 vào chính hoạt động CCHC của
Bộ nhằm tạo ra những chuyển biến thực
sự cơ bản trong quy trình, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản, nhằm nâng cao chất lượng
nội dung các dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn
thảo;
- Đẩy mạnh các
hoạt động nhằm tạo ra được
một cơ chế phối hợp chặt chẽ,
thực sự hiệu quả giữa các đơn vị
thuộc Bộ trong quá trình soạn thảo (hoặc
thẩm định) dự án, dự thảo văn bản
do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo (chủ
yếu thông qua việc hoàn thiện nội dung và tổ
chức thực hiện nghiêm các quy chế nội bộ
của Bộ trong lĩnh vực này).
- Áp dụng các biện pháp
có hiệu quả nhằm tăng cường hoạt
động phối hợp giữa Bộ với
địa phương trong quá trình soạn thảo các
văn bản nói trên.
2.2. Cải
cách thủ tục hành chính trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ
Cải cách về cơ
bản các thủ tục hành chính trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ, ngành thể hiện
qua việc thường xuyên rà soát, loại bỏ những
thủ tục hành chính rườm rà, bất hợp lý trong
các văn bản do Bộ chủ trì soạn thảo
để trình ban hành hoặc tự ban hành.
Phấn đấu
đến 2010 loại bỏ được hầu
hết các thủ tục hành chính rườm rà, bất
hợp lý trong nội dung các văn bản quy phạm pháp
luật do Bộ chủ trì xây dựng hoặc ban hành.
Kịp thời sơ
kết, tổng kết các mô hình thí điểm CCHC của
địa phương, đặc biệt là áp dụng
thủ tục ‘ một cửa”, để rút kinh nghiệm
và áp dụng chung trong phạm vi toàn ngành tư pháp
đối với những mô hình thành công.
2.3. Kiện toàn
tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính cơ quan Bộ
Tạo nên những
chuyển biến mạnh mẽ trong việc chỉ
đạo, điều hành, giải quyết công việc
của Lãnh đạo Bộ, nội bộ từng
đơn vị thuộc Bộ Tư pháp và trong
điều hành công việc của các cơ quan tư pháp
địa phương thông qua việc kiện toàn bộ
máy, phân công trách nhiệm rõ ràng, có địa chỉ
để kiểm tra, đánh giá đối với từng
cấp, từng đơn vị và Thủ trưởng
đơn vị.
Tập trung vào các
khâu:
- Tăng cường
kỷ luật, kỷ cương hành chính trong chính nội
bộ cơ quan Bộ;
- Nâng cao năng
lực của Văn phòng Bộ.
- Xây dựng, hoàn
thiện các quy trình giải quyết công việc hợp lý,
khoa học, có hiệu quả của cả bộ máy cơ
quan và cá nhân từng chức danh công chức.
- Triển khai thí
điểm và mở rộng từng bước việc áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng vào
hoạt động của một số đơn vị
thuộc Bộ.
2.4. Về đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ thuộc thẩm quyền quản lý của
Bộ:
i)
Đẩy
mạnh việc thực hiện các hoạt động
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng
của đội ngũ cán bộ của Bộ và của
toàn ngành trên các phương diện: Đổi mới công
tác quản lý cán bộ; tham gia cải cách tiền
lương, các chế độ, chính sách đãi ngộ
đối với cán bộ, công chức; tăng
cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
công chức cả về chuyên môn, nghiệp vụ,
ngoại ngữ và tin học; nâng cao tinh thần trách
nhiệm và đạo đức của cán bộ, công
chức trong ngành. Phấn đấu đến năm 2010
có những chuyển biến, đổi mới về
cơ bản trong công tác cán bộ của Bộ.
ii)
Hình thành
được chiến lược phát triển
đội ngũ cán bộ của Bộ Tư pháp
đến năm 2020.
2.5. Hiện
đại hoá về cơ bản hoạt động
của bộ máy hành chính của Bộ Tư pháp và tăng
cường hiện đại hoá trong công tác của các
cơ quan tư pháp địa phương.
i)
Phấn
đấu đến năm 2010 tập trung hoàn thành
việc xây dựng toàn bộ các cơ sở dữ
liệu chuyên ngành phục vụ hoạt động
chỉ đạo, điều hành của Bộ (như
kiểm tra văn bản; công chứng; hộ tịch; thi
hành án, đăng ký giao dịch có bảo đảm,...);
ii)
Hoàn
thành các phần mềm chuyên dụng để áp dụng
cho từng lĩnh vực quản lý nhà nước, các
hoạt động khác thuộc nhiệm vụ của
Bộ và áp dụng cho công tác quản lý trong nội bộ
từng đơn vị thuộc Bộ;
iii) Thực hiện
việc hỗ trợ về cơ bản công tác hiện
đại hoá công sở của các cơ quan tư pháp
địa phương, trong đó tập trung vào việc
tin học hoá đối với tất cả các Phòng công
chứng và đối với phần lớn các đội
thi hành án trên phạm vi toàn quốc (trang bị phần cứng,
cài đặt các phần mềm chuyên dụng, thực
hiện nối mạng trên phạm vi toàn quốc).
2.6 Tạo chuyển
biến thực sự trong lĩnh vực tài chính công
thuộc thẩm quyền của Bộ
i) Đổi
mới về căn bản quy trình, thủ tục lập
dự toán, cấp phát, thanh quyết toán kinh phí trong nội
bộ cơ quan Bộ và đối với hệ thống
các cơ quan thi hành án; tăng cường cơ chế
kiểm tra, thanh tra tài chính trong phạm vi quản lý.
ii) Triển khai đồng
bộ việc thực hiện Nghị định 130/
NĐ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 10 năm 2005 về
việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính đối với tất cả các
đơn vị thuộc Bộ có tài khoản và con dấu
riêng./.
PHỤ LỤC SỐ 1
SỐ LIỆU VỀ
CẢI CÁCH THỂ CHẾ
(Kèm theo Công văn số 3441/BTP- CCHC, ngày 11 tháng 11 năm
2005)
Năm
Nội dung
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
Tổng hợp
|
Ghi chú
|
1. Số lượng văn bản đã
ban hành
|
27
|
21
|
19
|
14
|
24
|
105
|
Trong đó:
- 01 Bộ luật
- 02 Luật
- 05 Pháp lệnh
- 03 Nghị quyết
- 21 Nghị định
- 22 Quyết định
- 08 Chỉ thị
- 23 Thông tư
- 20 Thông tư liên tịch
|
2. Số lượng văn bản đã
được rà soát
|
6
|
152
|
267
|
20
|
11
|
492
|
-Lĩnh vực hành chính tư pháp:25 văn
bản
-Lĩnh vực Bổ trợ tư pháp: 4
văn bản
-Lĩnh vực trợ giúp pháp lý:16 văn
bản
-Lĩnh vực thi hành án dân sự: 36 văn
bản
-Các văn bản liên quan hội nhập
kinh tế quốc tế: 411 văn bản
|
- Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự bãi bỏ
|
1
|
|
2
|
1
|
2
|
12
|
-Lĩnh vực bổ trợ tư pháp:5
văn bản
-Lĩnh vực trợ giúp pháp lý:1 văn
bản
-Lĩnh vực thi hành án dân sự: 6 văn
bản
|
+ Tự sửa đổi
|
|
1
|
|
|
1
|
11
|
-Lĩnh vực hành chính tư pháp: 1 văn
bản
-Lĩnh vực bổ trợ tư pháp: 1
văn bản
-Lĩnh vực thi hành án dân sự: 9 văn
bản
|
+ Đề nghị cấp trên sửa
đổi hoặc bãi bỏ
|
1
|
64
|
99
|
5
|
4
|
188
|
-Lĩnh vực hành chính tư pháp: 4 văn
bản
-Lĩnh vực bổ trợ tư pháp: 8
văn bản
-Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: 4 văn
bản
-Lĩnh vực thi hành án : 15 văn bản
-Các văn bản liên quan hội nhập
kinh tế quốc tế: 157 văn bản
|
3. Số lượng thủ tục hành
chính qua rà soát
|
1
|
1
|
1
|
62
|
23
|
88
|
-Lĩnh vực hành chính tư pháp:48 văn
bản
-Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: 5 văn
bản
-Lĩnh vực thi hành án dân sự: 35 văn
bản
|
-Chia ra:
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Các thủ tục hành chính đặt ra
ngoài quy định
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự bãi bỏ
|
|
|
|
|
|
|
|
+ Tự sửa đổi
|
|
|
|
|
10
|
10
|
-Lĩnh vực thi hành án : 10 văn bản
|
+ Đề nghị cấp trên sửa
đổi hoặc bãi bỏ
|
|
|
|
19
|
29
|
48
|
-Lĩnh vực hành chính tư pháp :29 văn
bản
-Lĩnh vực thi hành án dân sự: 19 văn
bản
|
PHỤ LỤC SỐ 2
SỐ LIỆU VỀ TỔ CHỨC BỘ
MÁY, BIÊN CHẾ
VÀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG
(đối với các
Bộ, ngành)
(Kèm theo Công văn số
3441/BTP- CCHC, ngày 11 tháng 11 năm 2005)
1. Các đơn vị
thuộc Bộ:
|
2001
|
2005
|
Ghi chú
|
- Tổng cục và
tương đương
|
0
|
0
|
|
- Cục và tương
đương
|
3
|
5
|
|
- Vụ và tương
đương
|
10
|
11
|
|
- Đơn vị sự
nghiệp, dịch vụ công
|
5
|
7
|
|
2. Kết quả thực
hiện cơ chế theo Quyết định 192 và
Nghị định 10
|
|
|
|
Tổng số đơn
vị sự nghiệp, dịch vụ công … đã
thực hiện Nghị định 10:…..
|
|
Tổng số cơ quan
hành chính………đã thực hiện QĐ 192:
|
|
3. Biên chế:
|
2001
|
2005
|
|
- Biên chế quản lý nhà
nước
|
284
|
349
|
|
- Biên chế sự
nghiệp
|
536
|
568
|
|
Kết quả giảm
biên chế theo Nghị quyết 16 và 09 của Chính phủ
tính đến thời điểm báo cáo (tháng 7 năm
2005)
|
|
|
|
|
|
5. Số lượng cán
bộ, công chức qua đào tạo, bồi dưỡng
|
|
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
Tổng
|
|
- Công chức hành chính
|
164
|
151
|
139
|
150
|
139
|
743
|
|
- Viên chức sự
nghiệp
|
35
|
32
|
26
|
28
|
27
|
148
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|