BỘ TÀI CHÍNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 16364/BTC-CST
V/v kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Quảng Trị
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2014
|
Kính
gửi: Văn phòng Chính phủ
Trả lời công văn số
87-17/VPCP-V.III ngày 3/11/2014 của Văn phòng Chính phủ về việc đề nghị có ý kiến
về các đề xuất, kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội và Lãnh đạo Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Trị tại công văn số 117/ĐĐBQH ngày 24/10/2014 về vướng mắc trong
việc thực hiện cơ chế, chính sách tại Khu kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo,
tỉnh Quảng Trị. Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
I. Về một số vướng mắc trong thực
hiện cơ chế, chính sách tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị (Phần
A):
1. Vướng mắc trong việc thực hiện
Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg:
a) Về thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa sản xuất tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo có sử dụng nguyên liệu, linh
kiện nhập khẩu từ nước ngoài khi nhập khẩu về tiêu thụ tại nội địa (đối với dự án
đầu tư sản xuất được cấp giấy chứng nhận đầu tư sau ngày 15/01/2014).
Theo quy định trước đây tại Quyết
định số 11/2005/QĐ-TTg ngày 12/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế
Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị, thuế suất thuế nhập
khẩu phải nộp tính trên nguyên liệu, linh kiện cấu thành trong hàng hóa đó. Tuy
nhiên, theo Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg , thuế suất nhập khẩu phải nộp được
tính trên hàng hóa. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất tại khu vực đang chịu bất
lợi hơn so với doanh nghiệp tại nội địa do phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn so
với doanh nghiệp sản xuất hàng hóa cùng loại tại nội địa khi nhập khẩu nguyên
liệu, linh kiện từ nước ngoài để sản xuất hàng hóa (đưa về tiêu thụ tại nội địa).
Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, đảm
bảo tính thống nhất về cơ chế, chính sách trước và sau khi có Quyết định
72/2013/QĐ-TTg , tạo điều kiện thu hút đầu tư vào khu vực, Đoàn đại biểu quốc hội
tỉnh Quảng Trị kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép: "Hàng hóa sản
xuất gia công tái, chế tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo có sử dụng nguyên liệu,
linh kiện nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa Việt Nam
chỉ phải nộp thuế nhập khẩu đối với phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước
ngoài cấu thành trong hàng hóa đó. Thuế nhập khẩu phải nộp căn cứ vào số lượng,
mức thuế suất và giá tính thuế của phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước
ngoài cấu thành trong hàng hóa nhập khẩu vào nội địa Việt Nam " áp dụng
đối với các dự án đầu tư sản xuất được cấp Giấy chứng nhận đầu tư cả trước đây
tại Quyết định 11/2005/QĐ-TTg , Quyết định 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ
tướng Chính phủ.
Về nội dung này, Bộ Tài
chính có ý kiến như sau:
- Theo Quyết định 11/2005/QĐ-TTg ,
Quyết định 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ thì hàng hóa sản
xuất, gia công tái chế tại Khu phi thuế quan có sử dụng nguyên liệu, linh kiện
nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa Việt Nam chỉ phải nộp
thuế nhập khẩu đối với phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài cấu
thành trong hàng hóa đó; thuế nhập khẩu phải nộp căn cứ vào số lượng, mức thuế
suất và giá tính thuế của phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài cấu
thành trong hàng hóa nhập khẩu vào nội địa Việt Nam.
- Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và khoản 1 Điều 6 Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu thì căn cứ tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là: Số
lượng từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong Tờ khai hải quan,
Giá tính thuế và Thuế suất từng mặt hàng.
Theo đó, nội dung quy định, về thuế
nhập khẩu đối với hàng hóa sản xuất, gia công, tái chế tại khu phi thuế quan có
sử dụng nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa
Việt Nam được điều chỉnh cho phù hợp với quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu và Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ và quy định
tại khoản 6 Điều 12 Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg như sau: "Hàng
hóa sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp tại khu phi thuế quan không sử dụng
nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài khi nhập khẩu vào nội địa Việt
Nam được miễn thuế nhập khẩu; trường hợp có sử dụng nguyên liệu, linh kiện nhập
khẩu từ nước ngoài thì khi nhập khẩu vào nội địa Việt Nam chỉ phải nộp thuế nhập
khẩu tính trên phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu cấu thành trong hàng hóa
đó (trừ hàng hóa sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp của dự án đầu tư có tổng vốn
đầu tư trên 20 tỷ đồng tại khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, tỉnh Hà Tĩnh
và khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị có sử dụng nguyên
liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài, khi nhập khẩu vào nội địa Việt Nam thì
được miễn thuế nhập khẩu 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất). Việc xác định thuế
nhập khẩu phải nộp đối với phần nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài
cấu thành trong hàng hóa nhập vào nội địa Việt Nam thực hiện như sau:
a) Trường hợp tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh tại khu phi thuế Quan nhập khẩu vào nội địa đã có đăng ký với
cơ quan Hải quan về danh mục hàng hóa nhập khẩu sử dụng làm nguyên liệu, linh
kiện sản xuất hàng nhập khẩu vào nội địa và định mức nguyên liệu, linh kiện
dùng để sản xuất hàng nhập khẩu trước khi nhập vào nội địa Việt Nam thì việc
xác định thuế nhập khẩu phải nộp căn cứ vào số lượng, mức thuế suất của mặt
hàng nhập khẩu vào nội địa Việt Nam và trị giá tính thuế tính trên phần nguyên
liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài cấu thành trong hàng hóa nhập khẩu vào
nội địa Việt Nam;
b) Trường hợp không xác định được
trị giá tính thuế theo quy định tại điểm a khoản này thì cơ quan hải quan ấn định
thuế đối với phần nguyên liệu, linh kiện cấu thành trong mặt hàng nhập khẩu vào
nội địa Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý thuế và trị giá hải
quan
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi đối
với dự án đầu tư đã được cấp Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư trước
ngày Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành, Thông tư số
109/2014/TT-BTC ngày 15/8/2014 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn đối với các dự án
đầu tư đã được cấp Giấy phép đầu tư. Giấy chứng nhận đầu tư trước ngày Quyết định
số 72/2013/QĐ-TTg có hiệu lực thi hành được lựa chọn việc xác định thuế nhập khẩu
phải nộp đối với phần nguyên liệu, vật tư, linh kiện, bán thành phẩm nhập khẩu
từ nước ngoài cấu thành trong hàng hóa nhập khẩu vào nội địa Việt Nam theo một
trong hai cách (dựa trên nguyên liệu hoặc hàng hóa thành phẩm) cho thời gian
còn lại của dự án.
b) Về Danh mục hàng hóa không
bán miễn thuế cho khách du lịch khi tham quan khu phi thuế quan thuộc khu kinh
tế cửa khẩu
Trước đây, tại Quyết định số
11/2005/QĐ-TTg không có quy định danh mục này. Tại Quyết định 72/2013/QĐ-TTg có
quy định: Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ có liên quan, Ủy ban nhân
dân tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu quy định danh mục mặt hàng không bán miễn thuế
cho khách tham quan du lịch khu phi thuế quan bao gồm hàng hóa chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt, hàng hóa quản lý theo hạn ngạch thuế quan. Theo đó, Bộ Tài chính
đã ban hành Danh mục mặt hàng không bán miễn thuế cho khách tham quan du lịch
khu phi thuế quan kèm theo Thông tư số 109/2014/TT-BTC quy định gồm 13 nhóm mặt
hàng, trong đó có mặt hàng rượu bia là các mặt hàng hấp dẫn tiêu dùng, thu hút
khách tham quan và nghiên cứu đầu tư tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, trong thời
gian qua công tác quản lý đối với những mặt hàng này vẫn thực hiện tốt, không
có bất cập xảy ra. Sau khi có quy định về điều kiện kinh doanh bán hàng miễn
thuế và ban hành Quy chế mua, bán hàng miễn thuế (theo Quyết định số
72/2013/QĐ-TTg và hướng dẫn tại Thông tư số 109/2014/TT-BTC sẽ ủy quyền cho
UBND các tỉnh ban hành và tổ chức thực hiện) thì công tác quản lý sẽ chặt chẽ
hơn.
Vì vậy, Đoàn đại Biểu Quốc hội tỉnh
Quảng Trị kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép: Đối với Khu KT-TM đặc biệt
Lao Bảo, được phép bán miễn thuế cho các mặt hàng bia, rượu cho khách tham quan
trong định mức 1.000.000 đồng/1 người/1 ngày theo quy định tại Quyết định số
72/2013/QĐ-TTg .
Về vấn đề này, Bộ Tài chính
có ý kiến như sau:
Theo quy định tại các Quyết định
riêng của Thủ tướng Chính phủ ban hành cho từng KKTCK thì có chính sách bán
hàng miễn thuế cho khách tham quan du lịch khu phi thuế quan với trị giá không
quá 500.000 đồng/1 người/1 ngày, trường hợp trị giá hàng hóa vượt quá 500.000 đồng
thì người có hàng hóa phải nộp đủ thuế nhập khẩu, thuế GTGT, thuế TTĐB (nếu có)
đối với phần vượt quá định mức theo quy định của pháp luật hiện hành. Tại Quyết
định 93/2009/QĐ-TTg quy định áp dụng danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu bán miễn
thuế cho khách tham quan du lịch khu phi thuế quan (gồm thuốc lá điếu, bia
và rượu các loại). Trên thực tế các mặt hàng rượu, bia, thuốc lá là những mặt
hàng không khuyến khích tiêu dùng, nhập khẩu, nên có mức thuế cao và thường bị
lợi dụng chính sách ưu đãi này để thu gom, buôn lậu hàng vào nội địa. Do đó,
Quyết định số 72/2013./QĐ-TTg quy định "danh mục mặt hàng không bán miễn
thuế cho khách tham quan du lịch khu phi thuế quan bao gồm hàng hóa chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt, hàng hóa quản lý theo hạn ngạch thuế quan".
Về nội dung hướng dẫn tại Thông tư
số 109/2014/TT-BTC về vấn đề này, Bộ Tài chính xin báo cáo như sau:
- Hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt: Đã được quy định cụ thể tại Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (gồm 11 loại
hàng hóa, như: thuốc lá, rượu, bia,. xe ô tô dưới 24 chỗ...).
- Hàng hóa quản lý theo hạn ngạch
thuế quan: Được thực hiện theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), gồm 4 loại hàng hóa là: đường, trứng, muối, thuốc lá lá
chưa chế biến.
Thông tư số 109/2014/TT-BTC tổng hợp
lại những quy định này, không bổ sung thêm nội dung gì mới so với quy định của
Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg , Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, cam kết của Việt Nam
khi gia nhập WTO,
2. Vướng mắc trong việc thực hiện
Thông tư số 109/2014/TT-BTC .
a) Tại Thông tư số
109/2014/TT-BTC đã có quy định khác nhau về chính sách ưu đãi về thuế đối với
khu phi thuế quan (KPTQ) thuộc khu kinh tế cửa khẩu được ngăn cách với lãnh thổ
bên ngoài bằng hàng rào cứng và KPTQ không được ngăn cách với lãnh thổ bên
ngoài bằng hàng rào cứng.
Theo Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg ,
về cơ bản thì KPTQ được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng và
KPTQ không được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng được hưởng
các cơ chế, chính sách tài chính giống và bình đẳng như nhau. Điểm khác nhau là
khi quy định về thuế giá trị gia tăng (tại Điều 10) thì KPTQ không được ngăn
cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng có Danh mục hàng hóa không thực
hiện thủ tục hải quan khi xuất khẩu từ các khu chức năng khác trong KKTCK và từ
nội địa Việt Nam vào Khu vực này.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại
Thông tư số 109/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính đã có nhiều quy định khác nhau về
cơ chế, chính sách ưu đãi về tất cả các loại thuế đối với KPTQ thuộc khu kinh tế
cửa khẩu được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng và KPTQ không
được ngăn cách, với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng. Với quy định như
trên đã làm xuất hiện và tạo ra sự phân biệt đối xử đối với 02 loại hình KPTQ,
làm giảm bớt ưu đãi đối với KPTQ không được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng
hàng rào cứng có tính đặc thù cao như Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị
và Khu KTCK Quốc tế Cầu Treo Hà Tĩnh, chưa phù hợp với các quy định tại Quyết định
số 72/2013/QĐ- TTg.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính
có ý kiến như sau:
Thực tế thời gian qua tại một số
khu phi thuế quan không có hàng rào cứng ngăn cách với nội địa Việt Nam nên có
hiện tượng lợi dụng chính sách được áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0%
khi xuất khẩu hàng hóa từ nội địa Việt Nam vào trong khu, sau đó quay vòng hàng
hóa, rút tiền hoàn thuế GTGT từ NSNN, trong khi người dân trong khu không được
hưởng lợi gì (giá cả của hàng hóa sản xuất ở nội địa Việt Nam bên ngoài khu và
trong khu là như nhau). Vì vậy, tại khoản 4 Điều 10 Quyết định
số 72/2013/QĐ-TTg quy định:
"4. Hàng hóa, dịch vụ từ
các khu chức năng khác trong khu kinh tế cửa khẩu và hàng hóa, dịch vụ từ nội địa
Việt Nam xuất khẩu vào khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng
mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 0%, trừ những trường hợp sau:
a) Hàng hóa, dịch vụ không được
áp dụng thuế giá trị gia tăng 0% theo quy định tại khoản 1 Điều
8 Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
b) Hàng hóa không thực hiện thủ
tục hải quan khi xuất khẩu từ các khu chức năng khác trong khu kinh tế cửa khẩu
và từ nội địa Việt Nam vào khu phi thuế quan không được ngăn cách với lãnh thổ
bên ngoài bằng hàng rào cứng."
Về Danh mục hàng hóa không thực hiện
thủ tục hải quan "khi xuất khẩu từ nội địa vào KPTQ và Danh mục hàng hóa
kiểm tra trước khi hoàn thuế giá trị gia tăng" khi đưa từ nội địa vào KPTQ
không được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng, Bộ Tài chính đã
có công văn số 8364/BTC-CST ngày 24/6/2014 báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đưa
vào hướng dẫn tại Thông tư số 109/2014/TT-BTC (quy định tại mục I phụ lục I)
theo đúng quy định của Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg .
b) Về Danh mục hàng hóa
không thực hiện thủ tục hải quan "khi xuất khẩu từ nội địa vào KPTQ và
Danh mục hàng hóa kiểm tra trước khi hoàn thuế giá trị gia tăng" khi đưa từ
nội địa vào KPTQ không được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng.
Tại điểm b, Mục 4
Điều 10 Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg có quy định "Bộ Tài chính ban
hành danh mục hàng hóa không thực hiện thủ tục Hải quan và danh mục hàng hóa
này kiểm tra trước khi hoàn thuế GTGT áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ quy định
tại khoản này rên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh có KKTCK".
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng
Thông tư số 109/2014/TT-BTC , mặc dù có một số tỉnh (Tây Ninh, Quảng Trị, Hà
Tĩnh) chưa thống nhất với danh mục do Bộ Tài chính dự thảo nhưng vẫn được ban
hành kèm theo Thông tư số 109/2014/TT-BTC (tại bản dự thảo Thông tư thứ 3) cũng
làm bản dự thảo cuối cùng, tại cuộc họp do Bộ Tài chính ban hành. Như vậy, việc
ban hành các danh mục trên đối với các KPTQ không được ngăn cách với lãnh thổ
bên ngoài bằng hàng rào cứng ngăn cách với bên ngoài, nảy sinh khó khăn, bất cập
trong quá trình tổ chức thực hiện.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính
có ý kiến như sau:
Qua tổng kết đánh giá việc thực hiện
chính sách thuế GTGT (áp dụng thuế suất 0%) đối với hàng hóa xuất khẩu vào các
khu phi thuế quan không có hàng rào cứng trong thời gian qua cho thấy có hiện
tượng bị lợi dụng chính sách được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% khi xuất khẩu
hàng hóa từ nội địa Việt Nam vào trong khu phi thuế quan, sau đó quay vòng hàng
hóa, rút tiền hoàn thuế GTGT từ NSNN; trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các địa
phương trả lời công văn số 198/BTC-CST của Bộ Tài chính gửi xin ý kiến các Bộ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu về dự thảo Thông tư hướng dẫn thực
hiện một số điều của Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg và căn cứ ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ (tại công văn số 5776/VPCP-KTTH ngày 30/7/2014 của Văn
phòng Chính phủ), Bộ Tài chính đã đưa vào quy định tại mục I và
mục II phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 109/2014/TT-BTC Danh mục
hàng hóa kiểm tra trước khi hoàn thuế giá trị gia tăng (đối với hàng hóa xuất
khẩu từ nội địa Việt Nam vào khu phi thuế quan không được ngăn cách với lãnh thổ
bên ngoài bằng hàng rào cứng) và Danh mục hàng hóa không thực hiện thủ tục hải
quan khi xuất khẩu từ các khu chức năng khác trong khu kinh tế cửa khẩu và từ nội
địa Việt Nam vào khu phi thuế quan không được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài
bằng hàng rào cứng để đảm bảo tính công khai của chính sách; góp phần hạn chế
việc lợi dụng chính sách để rút tiền hoàn thuế từ NSNN.
3. Về "Danh mục hàng hóa
chịu thuế ngay khi nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan".
Quy định "Danh mục hàng
hóa chịu thuế ngay khi nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan "
tại danh mục II thuộc phụ lục II Thông tư số 109/2014/TT- BTC của Bộ Tài chính
không phù hợp với khái niệm, đặc điểm, tính chất của "Khu phi thuế quan
" (là khu vực không có thuế), không phù hợp với quy định tại các Luật thuế
hiện hành, như: Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 (Khoản 5,
Điều 3), Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 được sửa đổi, bổ
sung năm 2013 (Khoản 20, Điều 5), Luật Thuế xuất khẩu, Thuế
nhập khẩu năm 2005 (Khoản 3, Điều 3), do tại các Luật thuế nêu trên đã quy
định: "Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào Khu phi thuế quan thuộc đối
tượng không chịu thuế các loại thuế: Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và
thuế giá trị gia tăng, trừ xe ô tô chở dưới 24 chỗ phải chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt".
Từ những vướng mắc, bất cập nêu
trên, để bình ổn UBND tỉnh Quảng Trị kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ có ý kiến
chỉ đạo Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh một số nội dung đã hướng dẫn tại các
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của nhà nước, dựa trên tinh thần chủ
trương ban đầu của Bộ Chính Trị hai nước Việt Nam và Lào, tạo sự nhất quán bình
đẳng và tính bền vững về cơ chế chính sách đối với Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo,
tỉnh Quảng Trị trong mối quan hệ chung với các KKTCK trên toàn quốc và phía bạn
Lào.
Về vấn đề này, Bộ Tài chính
có ý kiến như sau:
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật
thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể về
khu phi thuế quan.
- Theo quy định tại khoản
1 Điều 5 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: "Khu phi thuế quan là
khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; quan hệ mua bán, trao đổi
hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu".
Căn cứ quy định của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu nêu trên thì Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền quyết định
thành lập khu phi thuế quan, quyết định một khu vực nhất định được áp dụng cơ
chế khu phi thuế quan, quy định áp dụng cơ chế khu phi thuế quan đối với các loại
hàng hóa khi xuất khẩu, nhập khẩu vào một khu vực nhất định. Theo đó, Thủ tướng
Chính phủ có thẩm quyền quy định không áp dụng cơ chế khu phi thuế quan đối với
những loại hàng hóa nhất định. Vì vậy, tại điểm c khoản 5 Điều
20 Quyết định số 72/2013/QĐ-TTg có quy định: "Danh mục mặt hàng chịu
thuế ngay khi nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa
khẩu" là không trái với quy định của các Luật thuế. Nội dung quy định
này cũng thống nhất với ý kiến của Ủy ban Tài chính- Ngân sách của Quốc hội khi
thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
để trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII.
Trên cơ nội dung báo cáo nêu trên,
Bộ Tài chính xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh tại KKT TM-ĐB Lao Bảo thực hiện theo quy định của Quyết định số
72/2013/QĐ-TTg và hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 109/2014/TT-BTC và
trả lời Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Trị theo nội dung báo cáo nêu trên để
Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Quảng Trị được biết, trả lời cử tri.
II. Xin hỗ trợ vốn và cơ chế đầu
tư cho Khu cửa khẩu quốc tế La Lay (Phần B)
1. Về đề nghị bố trí vốn cho các dự
án, hạng mục công trình cấp bách thuộc Khu vực cửa khẩu quốc tế La Lay, Bộ Tài
chính đã có ý kiến tại công văn số 8325/BTC-ĐT ngày 23/6/2014 thống nhất với đề
nghị của UBND tỉnh Quảng Trị trình Thủ tướng Chính phủ cho tỉnh được ứng trước
từ nguồn vốn NSTW số vốn là 300 tỷ đồng để thực hiện; đồng thời giao UBND tỉnh
Quảng Trị lập Đề án quy hoạch đầu tư, xây dựng các hạng mục, công trình, hạ tầng
cần thiết phù hợp với quy mô cửa khẩu quốc tế, trong đó xác định rõ các nguồn vốn
đầu tư cho Đề án trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo đúng Chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1899/VPCP-NC ngày 21/3/2014 của Văn
phòng Chính phủ.
2. Về đề nghị Thủ tướng Chính phủ
cho phép lập Đề án thành lập KKT cửa khẩu La Lay:
Tại công văn số 1899/VPCP-NC ngày
21/3/2014 của Văn phòng Chính phủ về việc nâng cấp cửa khẩu chính La Lay tỉnh
Quảng Trị thành cửa khẩu quốc tế, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý nâng cấp cửa khẩu
chính La Lay tỉnh Quảng Trị thành cửa khẩu quốc tế.
Tại mục b điểm 1
Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 02/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh
công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KKT, KCN, cụm công nghiệp
Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo: "....Trước mắt, trong quá trình thực
hiện rà soát điều chỉnh Quy hoạch, yêu cầu tạm dừng việc bổ sung quy hoạch,
thành lập mới các KKT, KCN trên cả nước cho đến khi có chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ".
Với các nội dung trên, trước mắt đề
nghị UBND tỉnh Quảng Trị trước mắt chưa thành lập KKT cửa khẩu La Lay, tập
trung bố trí nguồn lực nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của cửa khẩu quốc
tế La Lay.
Bộ Tài chính xin báo cáo để Văn
phòng Chính phủ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Vũ Thị Mai
|