BỘ NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
84/2014/TB-LPQT
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 12 năm 2014
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại khoản
3 Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005,
Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa A-déc-bai-gian về
tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế
đánh vào thu nhập và tài sản, ký tại Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 2014, có hiệu lực
kể từ ngày 11 tháng 11 năm 2014.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi Bản sao
Hiệp định theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Ngự
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA A-DÉC-BAI-GIAN VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU
THUẾ ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP VÀ TÀI SẢN
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa A-déc-bai-gian
Mong muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế
song phương giữa hai nước thông qua việc ký kết
một Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần
và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài
sản,
Đã thỏa thuận dưới đây:
Điều 1
ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG
Hiệp định này được áp dụng đối với
các đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
Điều 2
CÁC LOẠI THUẾ BAO GỒM TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các
loại thuế do một Nước ký kết hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc chính quyền
địa phương của Nước đó, đánh vào thu nhập và tài sản, bất kể hình thức áp dụng
của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng
thu nhập và tổng tài sản, hoặc những phần của thu nhập hoặc tài sản bao gồm các
loại thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại
thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp trả, cũng như
các loại thuế đánh vào giá trị tài sản tăng thêm đều được coi là thuế đánh vào
thu nhập và tài sản.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng
trong Hiệp định này cụ thể là:
(a) tại nước Cộng hòa A-déc-bai-gian:
(i) thuế đối với thu nhập của cá nhân;
(ii) thuế đối với lợi nhuận của pháp nhân;
(iii) thuế đối với tài sản; và
(iv) thuế đất;
(sau đây gọi là “Thuế A-déc-bai-gian”); và
(b) tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân;
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
(iii) thuế sử dụng đất nông nghiệp; và
(iv) thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
(sau đây gọi là “Thuế Việt Nam”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với các loại thuế có tính chất tương tự hoặc về cơ bản
giống như các loại thuế nêu trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện hành.
Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ thông báo cho nhau biết
những thay đổi cơ bản trong các luật thuế của từng Nước.
Điều
3
CÁC
ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác:
(a) thuật ngữ “A-déc-bai-gian” có nghĩa là nước Cộng hòa A-déc-bai-gian;
(b) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
(c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có
nghĩa là A-déc- bai-gian hoặc Việt Nam tùy
theo ngữ cảnh đòi hỏi;
(d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm một cá nhân, một
công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
(e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực
thể nào được coi là một tổ chức công ty dưới giác độ thuế;
(f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước ký kết” và
“doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo
thứ tự có nghĩa là một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết và một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia;
(g) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ
sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một doanh nghiệp
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết,
trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay đó chỉ hoạt động giữa những địa
điểm trong Nước ký kết kia; và
(h) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm quyền” có
nghĩa:
(i) tại A-déc-bai-gian: là Bộ Tài chính và Bộ Thuế;
(ii) tại Việt Nam: là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc
người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng;
(i) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”, liên quan
đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
(i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch của Nước ký kết đó; và
(ii) bất kỳ pháp nhân, công ty hợp danh hoặc hiệp hội
nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại Nước ký kết đó.
2. Khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định này vào bất
kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại Hiệp định này sẽ
có nghĩa theo như định nghĩa tại luật của Nước đó đối
với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng
vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào theo
các luật thuế được áp dụng của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ
đó theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp
ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
Điều
4
ĐỐI
TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của
Hiệp định này, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất
kỳ đối tượng nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ
vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở đăng ký, trụ sở điều hành hoặc bất kỳ các tiêu
chuẩn khác có tính chất tương tự. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm bất kỳ
đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu nhập từ các
nguồn tại Nước đó hoặc tài sản đặt tại Nước đó .
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1 khi một
cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
(a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân có nhà ở thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở cả
hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó
có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền lợi chủ
yếu);
(b) nếu không thể xác định được Nước mà ở đó cá
nhân đó có trung tâm của các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó thường sống;
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở cả hai Nước
hoặc không thường xuyên sống ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
(d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc
tịch của cả hai Nước này, các nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1, một đối
tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, khi đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước nơi đối tượng đó đăng ký.
Điều
5
CƠ
SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở
thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh
doanh cố định mà qua đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động
kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
(a) trụ sở điều hành;
(b) chi nhánh;
(c) văn phòng;
(d) nhà máy;
(e) xưởng;
(f) kho hàng; và
(g) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ địa
điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao gồm:
(a) một địa điểm xây
dựng, dự án xây dựng, lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát
liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, dự án hoặc các hoạt động này kéo dài hơn 6
(sáu) tháng;
(b) việc cung cấp các dịch vụ do một doanh nghiệp
thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh
nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính
chất nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án
hoặc một dự án có liên quan) tại một Nước ký kết
trong một giai đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn 6 (sáu) tháng trong bất kỳ
giai đoạn 12 (mười hai) tháng; và
(c) một đối tượng tiến hành các hoạt động (bao gồm
cả các hoạt động ở ngoài khơi) tại một Nước ký kết liên quan đến việc thăm dò
và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tại Nước ký kết đó sẽ được coi như là tiến hành kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết đó.
4. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là
không bao gồm:
(a) việc sử dụng các phương tiện chỉ với mục đích
lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa của doanh nghiệp;
(b) việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp chỉ
với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
(c) việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp chỉ
với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
(d) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích mua hàng hóa hoặc thu thập
thông tin cho doanh nghiệp;
(e) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất chuẩn bị hoặc
phụ trợ cho doanh nghiệp;
(f) việc duy trì một địa điểm kinh doanh cố định chỉ
để phục vụ cho bất kỳ sự kết hợp nào của các hoạt động đã được nêu từ điểm (a)
đến điểm (e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định đó
trên cơ sở sự kết hợp này mang tính chất chuẩn bị hoặc phụ trợ.
5. Mặc dù có những quy định tại các khoản 1 và 2,
trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi
khoản 7 - hoạt động tại một Nước ký kết
thay mặt cho một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, doanh nghiệp đó sẽ được coi
là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối với bất kỳ hoạt động nào mà
đối tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, nếu đối tượng đó:
(a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước đó thẩm
quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối
tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những hoạt
động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định, sẽ không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở
thành một cơ sở thường trú theo những quy
định tại khoản đó; hoặc
(b) không có thẩm quyền trên, nhưng thường xuyên
duy trì tại Nước thứ nhất một kho hàng hóa,
qua đó đối tượng này thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, một
doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết,
trừ trường hợp tái bảo hiểm, sẽ được coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký
kết kia nếu doanh nghiệp đó thu phí bảo hiểm trên lãnh thổ của Nước kia hoặc bảo
hiểm các rủi ro tại đó thông qua một đối tượng không phải là một đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ không được
coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia chỉ vì doanh nghiệp đó thực
hiện kinh doanh tại Nước kia thông qua một đại lý môi giới, một đại lý hoa hồng
hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện những đối tượng
này hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường của mình. Tuy nhiên, khi
những hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ thay mặt cho
doanh nghiệp đó, và điều kiện được tạo ra hoặc áp đặt giữa doanh nghiệp đó và đại
lý đó trong quan hệ thương mại và quan hệ tài chính khác với điều kiện được tạo
ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư
cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi
một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới
hình thức khác), sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú
của công ty kia
Điều
6
THU
NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) có
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo như luật
của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ
kèm theo bất động sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm
nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền sản,
quyền sử dụng bất động sản và các quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định
hoặc không cố định trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng
sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy và máy bay sẽ không được coi
là bất động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối với thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử
dụng, cho thuê, hoặc sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào khác của bất động sản.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 3 cũng sẽ áp dụng
đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để
thực hiện các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
Điều
7
LỢI
NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của một Nước ký kết
sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có tiến hành hoạt
động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia. Nếu doanh nghiệp
có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp
có thể bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho (a)
cơ sở thường trú đó; (b) việc bán tại Nước ký kết kia những hàng hóa cùng loại hoặc tương tự như những hàng hóa bán qua cơ sở
thường trú đó; hoặc (c) các hoạt động kinh doanh khác được thực hiện tại Nước
ký kết kia cùng loại hoặc tương tự với những hoạt động được thực hiện thông qua
cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một doanh
nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở
thường trú nói trên mà cơ sở thường trú
đó có thể thu được, nếu nó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt cùng tham gia
vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các điều kiện như nhau hoặc
tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một cơ sở thường
trú, cơ sở thường trú này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh phục
vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều
hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở
thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính
vào các khoản chi phí được trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do cơ sở thường
trú trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ sở chính của
doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới hình thức tiền
bản quyền, các khoản phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự nào khác để được
phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả
cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc
dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở
thường trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của tổ
chức ngân hàng. Tương tự như vậy, khi xác định lợi nhuận của cơ sở thường
trú sẽ không tính đến các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường trú thu từ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng
nào khác của doanh nghiệp, dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản phí hoặc
các khoản thanh toán tương tự để cho phép sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác,
hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt
hoặc trả cho công việc quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ
sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn
phòng nào của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền cho vay của tổ chức
ngân hàng.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường xác định
các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở phân chia
tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có
nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế
theo cách phân chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được
áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những nguyên tắc nêu tại Điều
này.
5. Theo nội dung các khoản trên, các khoản lợi nhuận
được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một phương pháp giữa
các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu nhập được đề
cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó
không bị ảnh hưởng bởi các quy định tại Điều này.
Điều
8
VẬN
TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp là một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải
quốc tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho các
khoản lợi nhuận từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hoặc một hãng
hoạt động quốc tế.
Điều
9
CÁC
DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm
soát hoặc góp vốn vào một doanh
nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
(b) các đối tượng cùng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của một Nước
ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối quan hệ
thương mại hoặc tài chính giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện được
xác lập hoặc áp đặt khác với điều kiện được
đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh
nghiệp có thể thu được nếu không có các điều
kiện trên, nhưng nay vì các điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được, sẽ
vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương
ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các khoản lợi nhuận
của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các khoản lợi nhuận
mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước kia và những khoản
lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi nhuận lẽ ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những
điều kiện xác lập giữa hai doanh nghiệp trên là những điều kiện được xác lập giữa
các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh các khoản thuế tại Nước
mình đối với các khoản lợi nhuận trên cho phù hợp
nếu Nước kia xem xét việc điều chỉnh đó là hợp lý. Trong khi xác định sự điều
chỉnh trên sẽ xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này và các nhà chức
trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
tham khảo ý kiến của nhau khi cần thiết.
Điều
10
TIỀN LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể
bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần đó cũng
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi
công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là
đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì thuế được tính khi đó sẽ không vượt
quá 10 (mười) phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc đánh thuế
công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ
phần, cổ phần “jouissance” hoặc các quyền lợi “jouissance”, cổ phần khai thác mỏ,
cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi khác không phải là các khoản cho vay, được
hưởng lợi nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự
điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước
nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp
dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước
ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một
cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền
nắm giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy các quy
định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp,
sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia thì Nước ký kết
kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do công ty này
trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ
phần được trả có sự liên hệ thực tế với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố
định tại Nước ký kết kia, đồng thời Nước ký kết kia cũng không buộc các khoản lợi
nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi nhuận
không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần được trả hoặc các
khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi nhuận hoặc
thu nhập phát sinh tại Nước ký kết kia.
Điều
11
LÃI TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho vay này cũng có
thể bị đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi này là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia thì mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 10 (mười) phần
trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho
vay.
3. Mặc dù có các quy định tại khoản 2, lãi từ tiền
cho vay phát sinh tại một Nước ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết đó nếu:
(a) đối tượng trả lãi từ tiền cho vay là Chính phủ
của Nước ký kết đó hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc chính quyền địa phương
của Nước đó;
(b) lãi từ tiền cho vay được trả cho Chính phủ của
Nước ký kết kia hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó;
(c) đối tượng nhận lãi từ tiền cho vay là một trong
các tổ chức sau của Nước ký kết kia, với điều kiện các tổ chức này thuộc sở hữu
toàn bộ của Nước ký kết đó:
(i) tại A-déc-bai-gian:
(a) Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa
A-déc-bai- gian;
(b) Quỹ Dầu Nhà nước của nước Cộng hòa
A-déc-bai-gian;
(ii) tại Việt Nam:
(a) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
(b) Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng tại
Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản
cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc
không có quyền được hưởng lợi nhuận của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu
nhập từ chứng khoán của chính phủ và thu
nhập từ trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng và
giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán,
trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Các khoản phạt trả chậm sẽ không được
coi là lãi từ tiền cho vay theo quy định của Điều này.
5. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không được
áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú
tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi
phát sinh các khoản lãi từ tiền cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia hoặc thực hiện tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc
lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước
đó và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ
sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh nêu
tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong trường
hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp
dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả là Nhà nước đó, cơ quan hành chính-lãnh thổ
hoặc một tổ chức của cơ quan hành chính-lãnh thổ đó, chính quyền địa phương hoặc
một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy
nhiên, khi đối tượng trả lãi từ tiền cho vay có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi từ tiền
cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố
định đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của một Nước ký kết hay
không, khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ
sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
7. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng
khác, khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được
trả vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ
áp dụng đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt
trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của
từng Nước ký kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
Điều
12
TIỀN BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước ký kết và
được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước này,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 (mười) phần trăm tổng số
tiền bản quyền đó.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản
thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, bất
kỳ bản quyền tác giả của một tác phẩm văn
học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả phim điện ảnh, hoặc các loại phim hoặc
băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, phần mềm máy tính, bất kỳ sáng chế,
nhãn hiệu, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hoặc trả
cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hoặc khoa
học hoặc trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại
hoặc khoa học.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp
dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản
quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước đó hoặc thực hiện tại
Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước ký kết kia, và quyền hoặc tài
sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với
(b) các hoạt động kinh doanh nêu tại điểm (c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp
này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát sinh tại một
Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản
quyền là Nhà nước đó, cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc một tổ chức của cơ quan
hành chính-lãnh thổ đó, chính quyền địa phương hoặc một đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một
Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm
trả tiền bản quyền đã phát sinh, và khoản tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì
khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng
khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng, quyền hoặc thông tin có
số tiền bản quyền được trả, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng
trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các
quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có
mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế
theo các luật của từng Nước ký kết có xem
xét đến các quy định khác của Hiệp định
này.
Điều
13
PHÍ DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại một Nước ký kết
và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản phí dịch vụ kỹ thuật đó
cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước
này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng phí dịch vụ kỹ thuật là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 (mười) phần
trăm tổng số tiền phí dịch vụ kỹ thuật.
3. Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật” được sử dụng tại
Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào được trả
cho một đối tượng, không phải là một người làm
công của đối tượng trả tiền phí dịch vụ, vì các dịch vụ mang tính chất kỹ thuật,
quản lý hoặc tư vấn.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp
dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản phí dịch vụ kỹ thuật, là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết kia nơi
có khoản tiền dịch vụ kỹ thuật phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại
Nước ký kết kia hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá
nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định, và phí dịch vụ kỹ thuật được trả có sự
liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh nêu tại điểm (c)
khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này các quy định của Điều 7 hoặc Điều 15, tùy
từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là phát sinh tại
một Nước ký kết khi đối tượng trả phí dịch vụ kỹ thuật chính là Nhà nước đó, cơ
quan hành chính-lãnh thổ hoặc một tổ chức của cơ quan hành chính-lãnh thổ đó,
chính quyền địa phương hoặc một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi một
đối tượng trả phí dịch vụ kỹ thuật, là hoặc
không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở
thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả phí dịch vụ kỹ
thuật đã phát sinh và phí dịch vụ kỹ thuật
đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản phí dịch vụ kỹ thuật
này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó đóng.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng
trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với các đối tượng khác, khoản phí dịch vụ kỹ thuật
vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực
hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ
chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán
khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị
đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định khác của
Hiệp định này.
Điều
14
THU NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và có tại Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản là một phần của
tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của một Nước ký
kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định
của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để tiến
hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường
trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập do một doanh nghiệp là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt
động trong vận tải quốc tế hoặc từ chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt động
của các tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ chuyển nhượng các cổ phần trong vốn cổ phần của một công ty, hoặc
phần quyền lợi trong một công ty hợp danh, tín thác hoặc di sản, mà tài sản của
các tổ chức này chủ yếu trực tiếp hoặc gián tiếp bao gồm bất động sản có tại Nước
ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước
đó. Theo nội dung của khoản này, khái niệm “chủ yếu” liên quan đến quyền của bất
động sản có nghĩa là giá trị của bất động sản đó vượt quá 50 phần trăm giá trị
gộp của tất cả các tài sản do công ty, công ty hợp danh, tín thác hoặc di sản sở
hữu.
5. Thu nhập thu được từ chuyển nhượng các cổ phiếu
không phải là các cổ phiếu được đề cập tới tại khoản 4 trong một công ty là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết có thể bị
đánh thuế tại Nước đó.
6. Thu nhập thu được từ chuyển nhượng bất kỳ tài sản
nào khác với những tài sản đã được nêu tại các khoản 2, 2, 3, 4 và 5 sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
Điều
15
DỊCH VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân là đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các dịch vụ
ngành nghề hoặc các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước đó trừ các trường hợp dưới đây khi đó các khoản thu nhập đó cũng có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia:
(a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có tại Nước ký kết kia một cơ sở
cố định để thực hiện các hoạt động này; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập
phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
(b) Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký kết kia
trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hoặc vượt
quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng
nào bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp
đó, chỉ phần thu nhập phát sinh từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao gồm chủ yếu
những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy mang
tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của
các thầy thuốc, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ, kế toán viên và kiểm toán
viên.
Điều
16
DỊCH VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại các Điều 17, 19, 20 và
21 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự khác do
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ khi lao động làm công của đối tượng đó được thực hiện
tại Nước ký kết kia. Nếu công việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền
công trả cho lao động đó có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1, tiền công
do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công tại
Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
(a) người nhận tiền công có mặt tại Nước ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều
khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào
bắt đầu hoặc kết thúc trong năm tài chính có liên quan; và
(b) chủ lao động hoặc đối tượng đại diện chủ lao động
trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia; và
(c) số tiền thù lao không phải phát sinh tại một cơ
sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều này, tiền
công thu được từ lao động làm công được thực hiện trên tàu thủy hoặc máy bay do
một doanh nghiệp là đối tượng cư trú của một Nước ký kết điều hành trong vận tải
quốc tế có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều
17
THÙ LAO GIÁM ĐỐC VÀ THÙ LAO NHÂN VIÊN QUẢN LÝ CAO CẤP
1. Các khoản thù lao cho giám đốc và các khoản
thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được
với tư cách là thành viên của ban giám đốc hoặc bất kỳ bộ phận tương tự nào
khác của một công ty là đối tượng cư trú
của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Các khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền
thù lao tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận được với
tư cách là một nhân viên quản lý cao cấp của một công ty là đối tượng cư trú của
Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết kia.
Điều
18
NGƯỜI BIỂU DIỄN VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại các Điều 15 và 16,
thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
thu được với tư cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát
thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những
hoạt động cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước ký kết kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động
trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả
cho bản thân người biểu diễn hoặc vận động viên, mà trả cho một đối tượng khác
thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động
trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động viên, mặc dù đã có những quy định
tại các Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định tại các khoản 1 và
2, thu nhập do người biểu diễn hoặc vận động viên là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết thu được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết kia theo một
chương trình trao đổi văn hóa giữa Chính
phủ của hai Nước ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
Điều
19
TIỀN LƯƠNG HƯU
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều 20, tiền
lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết do các công việc đã làm trước
đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều
20
PHỤC VỤ CHÍNH PHỦ
1. (a) Tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù
lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc cơ quan hành
chính-lãnh thổ hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó trả cho một cá
nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc
chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
(b) Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền công và các
khoản tiền thù lao tương tự khác nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết
kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước ký kết kia và nếu cá nhân này
là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, đồng thời:
(i) là đối tượng mang quốc
tịch của Nước ký kết kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. (a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu do một Nước ký kết
hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó
hoặc do các quỹ của những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các
công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ hoặc chính quyền
địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
(b) Tuy nhiên, khoản tiền lương hưu và các khoản tiền
thù lao này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là đối tượng
cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia.
3. Những quy định tại các Điều 16, 17, 18 và 19 sẽ
áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công và các khoản tiền thù lao
tương tự khác và tiền lương hưu đối với các công việc liên quan đến một hoạt động
kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc cơ quan hành chính- lãnh thổ
hoặc chính quyền địa phương của Nước ký kết đó.
Điều 21
SINH VIÊN VÀ THỰC TẬP SINH
Những khoản tiền mà một sinh viên hoặc thực tập
sinh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo mà người
sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước ký kết đang hoặc
đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại Nước thứ nhất chỉ
với mục đích học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều
kiện những khoản thanh toán đó phát sinh từ các nguồn ở bên ngoài Nước đó.
Điều
22
THU NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những Điều
trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản
được định nghĩa tại khoản 2 Điều 6, nếu đối tượng nhận thu nhập là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia, hoặc thực hiện tại Nước kia những
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước kia, và
quyền hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập được trả có sự liên hệ thực tế với
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp như vậy những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng
trường hợp, sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại các khoản 1 và 2,
các khoản thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết dưới hình thức
trúng thưởng từ đánh bạc và xổ số, phần thưởng từ chương trình khuyến mãi, các
cuộc thi, thu nhập từ thừa kế, quà tặng và các khoản thu nhập khác có bản chất
tương tự chưa được đề cập đến tại các Điều trên của Hiệp định này và phát sinh
tại Nước ký kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
Điều
23
THUẾ ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1. Tài sản là bất động sản nêu tại Điều 6, do một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết sở hữu và có tại Nước ký kết kia, có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tài sản là động sản là một phần của tài sản kinh
doanh của một cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại
Nước ký kết kia hoặc là động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết
kia để thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
kia.
3. Tài sản là các tàu thủy và máy bay do một doanh
nghiệp là đối tượng cư trú của một Nước ký kết
điều hành trong vận tải quốc tế hoặc-tài sản là động sản liên quan đến hoạt động
của các tàu thủy và máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Mọi thành phần khác của tài sản của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước đó.
Điều
24
CÁC BIỆN PHÁP XÓA BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Tại A-déc-bai-gian, việc tránh đánh thuế hai lần
sẽ được thực hiện như sau:
Trường hợp một đối tượng cư trú của A-déc-bai-gian
nhận được thu nhập hoặc sở hữu tài sản, phù hợp với các quy định của Hiệp định
này, có thể bị đánh thuế tại Việt Nam, khi đó A-déc-bai-gian sẽ cho phép:
(a) khấu trừ vào thuế đối với thu nhập của đối tượng cư trú đó, một khoản tiền bằng số tiền thuế
thu nhập đã nộp tại Nước kia;
(b) khấu trừ vào thuế đối với tài sản của đối tượng
cư trú đó, một khoản tiền bằng số tiền thuế tài sản đã nộp tại Nước kia.
Tuy nhiên, số thuế khấu trừ sẽ không vượt quá số tiền
thuế được tính đối với thu nhập hoặc tài sản đó phù hợp với luật pháp và các
quy định về thuế của A-déc-bai-gian.
2. Tại Việt Nam, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được
thực hiện như sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận
được thu nhập hoặc sở hữu tài sản, lợi
nhuận hoặc giá trị tăng thêm mà theo các luật của A-déc-bai-gian và phù hợp với
Hiệp định này có thể bị đánh thuế tại A-déc-bai-gian, khi đó Việt Nam sẽ cho
phép khấu trừ vào thuế đối với thu nhập hoặc tài sản một khoản tiền bằng số tiền
thuế đã nộp tại A-déc-bai-gian. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt
quá số thuế Việt Nam đối với thu nhập, lợi
nhuận hoặc giá trị tăng thêm hoặc tài sản được tính phù hợp với các luật và quy định về
thuế của Việt Nam.
(b) Trường hợp
một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được thu nhập hoặc sở hữu tài sản mà
theo các quy định của Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế tại A-déc-bai-gian,
trong khi tính số thuế đối với thu nhập còn lại của đối tượng cư trú đó tại Việt
Nam, Việt Nam có thể xét đến phần thu nhập được miễn thuế.
Điều
25
KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết
sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất
kỳ chế độ thuế nào hoặc bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến chế độ thuế đó khác với
hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc có thể áp dụng
cho những đối tượng mang quốc tịch của Nước
ký kết kia trong cùng các hoàn cảnh như
nhau, nhất là trên phương diện cư trú.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một cơ sở thường trú
của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ không kém
thuận lợi hơn tại Nước ký kết kia so với
chế độ thuế áp dụng cho các doanh nghiệp của Nước ký kết kia cùng tiến hành các
hoạt động tương tự.
3. Trừ trường hợp áp dụng các quy định tại khoản 1
Điều 9, khoản 6 Điều 11, khoản 6 Điều 12 hoặc khoản 6 Điều 13, lãi từ tiền cho
vay, tiền bản quyền, phí dịch vụ kỹ thuật và các khoản thanh toán khác do một
doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia,
khi xác định các khoản lợi nhuận chịu thuế của
doanh nghiệp đó, sẽ được trừ theo cùng các điều kiện như thể các khoản tiền đó
được trả cho đối tượng cư trú của Nước thứ nhất. Tương tự như vậy, bất kỳ một
khoản nợ nào của một doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia khi xác định tài sản chịu thuế của doanh nghiệp đó, sẽ
được trừ theo cùng các điều kiện như thể các khoản nợ đó được giảm trừ đối với một đối tượng cư trú của Nước thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết có toàn bộ
hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu
hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước thứ nhất bất
kỳ chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế đó khác với hoặc nặng hơn
chế độ thuế và các yêu cầu liên quan hiện
đang hoặc có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ
nhất.
5. Không có nội dung nào của Điều này sẽ được giải
thích là buộc một Nước ký kết phải cho cá nhân không cư trú tại Nước đó được hưởng
bất kỳ khoản miễn thu cá nhân, khoản miễn thuế và giảm thuế vì các quy định dân
sự hoặc trách nhiệm gia đình mà Nước đó dành cho đối tượng cư trú của mình.
6. Các quy định tại Điều này sẽ áp dụng đối với các
loại thuế bao gồm trong Hiệp định.
Điều
26
THỦ TỤC THỎA THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết nhận thấy rằng việc giải quyết của nhà chức trách có thẩm quyền
của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho
hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng
với các quy định của Hiệp định này, đối tượng này có thể giải trình trường hợp
của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối tượng đó là đối
tượng cư trú, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước đã quy định về các
chế độ xử lý khiếu nại. Trường hợp đó phải
được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo đầu tiên dẫn đến chế độ
thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một
giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục
đích tránh đánh thuế không phù hợp với quy định
của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận đạt được
sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian quy định tại luật
trong nước của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc vướng mắc
nảy sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này. Nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi
với nhau nhằm xóa bỏ việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp không
được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm mục đích đạt được một thỏa thuận theo nội
dung những khoản trên đây.
Điều
27
TRAO ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký
kết sẽ trao đổi với nhau các thông tin dự
đoán có thể cần thiết cho việc triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định
này hoặc việc quản lý hoặc thực thi nội luật của từng Nước ký kết liên quan đến
các loại thuế được đánh bởi các Nước ký kết, hoặc cơ quan hành chính-lãnh thổ
hoặc chính quyền địa phương trong phạm vi việc đánh thuế không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin
không bị giới hạn bởi Điều 2.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được theo
khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Nước
này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức
năng (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính
toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại
thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung trên. Các đối tượng hoặc các
cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu
trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong
quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp nào mà các quy định tại khoản
1 và khoản 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ;
(a) thực hiện các biện pháp hành chính khác với pháp
luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết
kia;
(b) cung cấp các thông tin không thể đạt được theo
các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước ký kết
đó hoặc của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật
về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc
các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp
các thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước.
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết yêu cầu phù hợp
với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng
các biện pháp thu thập thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu,
mặc dù Nước kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của
mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản
3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho phép một
Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông
tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước đối với các thông tin như
vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định tại khoản 3 sẽ
không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì thông tin
do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng với
tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác
khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
Điều
28
CÁC THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO VÀ CƠ QUAN ĐẠI
DIỆN LÃNH SỰ
Không nội dung nào tại Hiệp định này sẽ ảnh hưởng đến
các ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan đại
diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hoặc các quy định
tại các hiệp định đặc biệt.
Điều
29
HIỆU LỰC
1. Từng Nước
ký kết sẽ thông báo cho Nước ký kết kia bằng văn bản thông qua đường ngoại giao
việc hoàn thành các thủ tục cần thiết theo luật pháp của nước mình để Hiệp định
có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày nhận được thông báo sau
cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành tại cả hai
Nước ký kết:
(a) đối với các khoản thuế khấu trừ tại nguồn, liên
quan đến các khoản thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên
của tháng Một tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
(b) đối với các khoản thuế khác, liên quan đến thu
nhập, lợi nhuận, giá trị tăng thêm hoặc tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau
ngày đầu tiên của tháng Một tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực, và
trong các năm dương lịch tiếp theo.
Điều
30
CHẤM DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực cho tới khi một
Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường ngoại
giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia một văn bản thông báo chấm dứt hiệu lực Hiệp định
ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu từ sau thời
hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định
sẽ hết hiệu lực thi hành tại cả hai Nước ký kết:
(a) đối với các loại thuế khấu trừ tại nguồn thu
trên các khoản thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau ngày đầu tiên của
tháng Một của năm dương lịch nhận được thông báo kết thúc hiệu lực, và trong
các năm dương lịch tiếp theo; và
(b) đối với các loại thuế khác, liên quan đến thu
nhập, lợi nhuận, giá trị tăng thêm hoặc tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau
ngày đầu tiên của tháng Một tiếp sau năm
dương lịch nhận được thông báo kết thúc
hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo.
Để làm bằng những người có tên dưới đây, được sự ủy
quyền hợp thức phù hợp với pháp luật và
thực tiễn của từng Nước ký kết đã ký vào Hiệp định này.
Làm tại Hà Nội ngày “19”/5/2014 thành hai bản, mỗi
bản bằng tiếng Việt, tiếng A-déc-bai-gian và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều
có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Đinh Tiến Dũng
Bộ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY MẶT CHÍNH
PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA A-DÉC-BAI-GIAN
Fazil Mammadov
Bộ trưởng Bộ Thuế
|