ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
225/BC-UBTVQH12
|
Hà Nội, ngày 18
tháng 5 năm 2009
|
BÁO CÁO KẾT QUẢ GIÁM SÁT
VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII đã ban hành Nghị
quyết số 28/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội khóa XII về Chương
trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2009, theo đó Quốc hội sẽ giám sát
chuyên đề “việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ
sinh, an toàn thực phẩm” tại kỳ họp thứ 5. Triển khai thực hiện Nghị quyết
này, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 715 NQ/UBTVQH12 ngày
22/12/2008 về việc thành lập Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội với
nhiệm vụ thực hiện giám sát chuyên đề nêu trên, báo cáo kết quả giám sát với Uỷ
ban thường vụ Quốc hội; chỉ đạo Chính phủ, các bộ có liên quan, các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương báo cáo, các Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức giám sát
và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Thực hiện Nghị quyết 715 NQ/UBTVQH12, Đoàn giám sát
đã làm việc tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc TW ([1]); làm việc với Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và PTNT,
Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc
thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm
(VSATTP); xem xét báo cáo việc thực hiện chính sách pháp luật về VSATTP của 63
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 61 báo cáo giám sát của các Đoàn ĐBQH
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngày 3/4/2009, Đoàn giám sát đã họp để xem xét, thảo
luận thông qua dự thảo Báo cáo kết quả giám sát. Ngày 20/4/2009, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã nghe Đoàn giám sát báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính
sách pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP. Sau phiên họp này, Ủy ban thường vụ
Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan hoàn thiện báo cáo trình Quốc hội.
Sau đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc
hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách pháp luật về quản
lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm”.
Phần I
TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VSATTP TỪ 2004 – 2008
I. TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN NHIỆM VỤ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM
1. Việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật theo thẩm quyền; ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
1.1. Việc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật
- Trong
5 năm từ 2004 đến 2008, các quy định liên quan đến quản lý chất lượng VSATTP đã
được ban hành trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) khác nhau như pháp
luật về VSATTP, pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa, pháp luật về bảo vệ
và kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y… Số văn bản QPPL có liên quan đến quản
lý chất lượng VSATTP do các cơ quan Trung ương ban hành là 337, do các cơ quan
địa phương ban hành là 930 (Xem Phụ lục I.a và I.b).
Nhìn chung, các văn bản QPPL đã ban
hành cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP, nâng
cao chất lượng hàng hóa thực phẩm; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ([2]), bảo vệ sức khỏe con người và môi trường. Tuy nhiên, khi triển khai thực
hiện còn bộc lộ một số bất cập, cụ thể là:
- Số văn bản QPPL có liên quan đến quản
lý chất lượng VSATTP là quá nhiều([3]). Theo thống
kê sơ bộ còn có 48 văn bản có sự chồng chéo, mâu thuẫn, một số nội dung quy định
không phù hợp với điều kiện thực tế, cần sửa đổi, bổ sung ([4])...; chế tài xử lý vi phạm pháp luật về VSATTP còn chưa đồng bộ giữa
các văn bản với cùng một hành vi vi phạm([5]) (Xem Phụ
lục II).
- Một số lĩnh vực quản lý còn thiếu
quy định cụ thể như quy định về quản lý thực phẩm chức năng, về lấy mẫu và lưu
mẫu thực phẩm, về phân công trách nhiệm phối hợp của thanh tra chuyên ngành về
VSATTP..; tiến độ ban hành văn bản dưới luật còn chậm([6]).
1.2. Việc ban hành tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật về VSATTP
Hiện tại, trên thị trường có hàng chục
ngàn loại thực phẩm, tuy nhiên, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để quản lý chất
lượng VSATTP còn thiếu và lạc hậu. Tính đến tháng 2/2009 mới có 406 tiêu chuẩn
Việt Nam (TCVN) liên quan đến VSATTP được ban hành cho sản phẩm thực phẩm (tỷ lệ
tiêu chuẩn Việt Nam hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế đạt 63%) ([7]).
Theo Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật có hiệu lực thi hành từ 1/1/2007 thì việc quản lý chất lượng VSATTP phải
theo quy chuẩn kỹ thuật và phải công bố phù hợp quy chuẩn kỹ thuật. Nghị định
127/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 1/8/2007 hướng dẫn thi hành Luật
Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã quy định rõ “việc chuyển đổi các tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành bắt buộc áp dụng
thành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCKTQG) phải hoàn thành trước ngày
31/12/2008” nhưng theo Báo
cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong năm 2008 không có QCKTQG nào về VSATTP
được thẩm định để ban hành. Việc thiếu QCKTQG trong quản lý VSATTP cũng gây khó khăn cho cơ
quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện và xử lý vi phạm.
2. Việc chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, các bộ, UBND cấp tỉnh
Triển khai thực hiện pháp luật về quản
lý chất lượng VSATTP, Chính phủ, các bộ, UBND các tỉnh đã quan tâm, tích cực chỉ
đạo việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản QPPL về quản lý chất lượng VSATTP.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 163/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh
VSATTP; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 43/2006/QĐ-TTg về “Kế hoạch hành động quốc gia bảo đảm an toàn thực phẩm
cho đến năm 2010” và Chỉ thị 06/2007/CT-TTg về triển khai các biện pháp
cấp bách bảo đảm VSATTP. Trên cơ sở đó, UBND các tỉnh đã ban hành quyết định
phê duyệt “Kế hoạch hành động bảo đảm chất lượng VSATTP” làm căn cứ cho hoạt động
quản lý chất lượng VSATTP của địa phương. Bên cạnh đó, để tăng cường công tác
phối hợp giữa các cơ quan chức năng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
48/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP ở Trung ương.
Các ban chỉ đạo liên ngành về VSATTP cũng được thành lập ở UBND các cấp. Ngoài
ra, công tác chỉ đạo, điều hành cũng được tăng cường khi có dịch bệnh như phòng
chống dịch cúm gia cầm, phòng chống dịch tiêu chảy cấp... (Xem Phụ lục I).
Do vậy đã tạo sự chuyển biến rõ rệt trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước và nhận thức của xã hội về bảo đảm chất lượng VSATTP.
3. Tổ chức bộ máy, năng lực thực
thi pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP
3.1. Về tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về chất lượng VSATTP
Hiện tại, việc quản lý nhà nước về chất
lượng VSATTP được phân công, phân cấp cho các bộ và địa phương theo pháp luật về
VSATTP.
Ở Trung ương, có 5 bộ chịu trách nhiệm
chính trong chuỗi cung cấp thực phẩm, trong đó Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về VSATTP. Tại mỗi bộ có đơn vị đầu mối là
cục hoặc vụ giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng
VSATTP đối với sản phẩm, hàng hóa thuộc phạm vi quản lý của bộ([8]). Ban chỉ đạo liên ngành VSATTP trung ương được thành lập để chỉ đạo việc
phối hợp hoạt động giữa các bộ trong các vấn đề liên ngành về VSATTP.
Ở địa phương, UBND cấp tỉnh có trách
nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP trong phạm vi địa phương. Tham mưu
giúp UBND tỉnh là Sở Y tế, Sở Nông nghiệp - PTNT, các sở, ban, ngành hữu quan
khác. Ban chỉ đạo liên ngành VSATTP các cấp (được thành lập tới cấp xã) có
trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp hoạt động liên ngành tại địa phương. Từ tháng
8/2008 đến nay, triển khai thực hiện Nghị định 79/2008/NĐ-CP đã có 17 tỉnh,
thành phố trực thuộc TW thành lập Chi cục quản lý chất lượng VSATTP trực thuộc
Sở Y tế hoặc Khoa VSATTP tại Trung tâm Y tế dự phòng của tỉnh; 16 tỉnh, thành
phố trực thuộc TW thành lập Chi cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản,
41 tỉnh, thành phố đã thành lập Phòng quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản
thuộc Sở Nông nghiệp - PTNT (Xem Phụ lục III.a).
Theo Báo cáo của Chính phủ, năm 2008
cả nước có 128 cơ quan chuyên ngành tham gia thực hiện các hoạt động liên quan
đến chất lượng VSATTP. Về nhân lực, ở cấp tỉnh, tham gia công tác VSATTP gồm có
cán bộ nghiệp vụ quản lý kiêm nhiệm 0,5 người/tỉnh, thanh tra 0,5 người/tỉnh,
khoa VSATTP 2,9 người/tỉnh, khoa xét nghiệm 3,2 người/tỉnh. Ở cấp huyện, không
kiêm nhiệm quản lý 0,3 người/huyện, kiêm nhiệm y tế dự phòng 0,9 người/huyện ([9]). Cấp xã chỉ có từ 0,5-1 người được
phân công giúp UBND xã về công tác VSATTP.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê từ
báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, nhân lực tham gia công tác quản lý chất lượng
VSATTP tăng dần hàng năm. Năm 2008, ở cấp tỉnh ước cả nước số người tham gia quản
lý chất lượng VSATTP là 1.970 người (trung bình là 31,3 người/tỉnh). Ở cấp huyện
ước cả nước số người tham gia quản lý chất lượng VSATTP là 1.949 người (trung
bình là 3,0 người/huyện) ([10]).
Ở cấp xã, ước cả nước số người tham gia quản lý chất lượng VSATTP là 11.516 người
(trung bình là 1,05 người/xã)([11])
nhưng chưa được trả lương vì hiện tại cấp xã/phường không được giao chức năng quản lý về VSATTP. Như vậy, tính đến năm
2008 ước cả nước có 15.435 người tham gia vào công tác quản lý chất lượng
VSATTP (Xem phụ lục III.b).
Trên đây là con số ước tính số người
tham gia vào công tác quản lý chất lượng VSATTP. Con số này chưa cho thấy số
người trực tiếp tham gia công tác quản lý nhà nước về VSATTP và số người tham
gia quản lý ở từng công đoạn của chuỗi thực phẩm (như của ngành nông nghiệp,
ngành công thương, khoa học và công nghệ,...) để làm căn cứ cho việc tính chi
phí cho bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP.
3.2. Về hệ thống tổ chức kiểm
nghiệm, trang thiết bị kiểm nghiệm VSATTP
Thực hiện Nghị định
79/2008/NĐ-CP, mạng lưới kiểm nghiệm VSATTP đang được kiện toàn từ TW đến địa
phương([12]).Đây là văn bản quan trọng để kiện toàn hệ
thống kiểm nghiệm chất lượng VSATTP trong cả nước. Theo thống kê của Bộ Y tế, cả
nước có 72 cơ sở tham gia kiểm nghiệm VSATTP. Nhưng, qua thực tế giám sát cho
thấy, số lượng cơ sở tham gia vào công tác này lớn hơn nhiều. Việc tăng cường
trang thiết bị dịch vụ kỹ thuật theo Nghị định này cũng đã góp phần đổi mới
phương thức quản lý chất lượng VSATTP, tạo thuận lợi trong kinh doanh, dịch vụ
và quản lý hàng hóa thực phẩm. Tuy nhiên, nhiều cơ sở kiểm nghiệm còn thiếu hóa
chất, mẫu chuẩn, thiết bị hiện đại có độ chính xác cao, phân tích nhanh nên gây
khó khăn cho công tác quản lý VSATTP, đặc biệt là trong việc xử lý các tình huống
trong thực tế.
3.3. Về tổ chức thực hiện
Công tác quản lý chất lượng VSATTP đã
được các cấp chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện. Bộ máy tổ chức, trang thiết
bị kỹ thuật, kinh phí đang từng bước được tăng cường cho yêu cầu quản lý; nguồn
nhân lực phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về VSATTP đã được bổ sung, ở cấp
xã đã có cán bộ kiêm nhiệm theo dõi về VSATTP; các ban chỉ đạo liên ngành về
VSATTP đã được thành lập và đi vào hoạt động; công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức và kiến thức pháp luật và thanh tra, kiểm tra chất lượng VSATTP đã được
coi trọng…Tuy nhiên, qua giám sát các bộ và địa phương cho thấy, việc thực hiện
công tác quản lý chất lượng VSATTP vẫn bộc lộ một số bất cập. Cụ thể là: việc
triển khai thực hiện các văn bản pháp luật còn chậm, bộ máy tổ chức quản lý còn
cồng kềnh, nhiều đầu mối; công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng ở địa
phương còn chưa tốt (thể hiện rõ qua báo cáo gửi Đoàn giám sát, số liệu chủ yếu
là của ngành y tế chưa thấy sự kết nối số liệu giữa ngành y tế với ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn, ngành công thương, ngành khoa học và công nghệ…);
việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP, giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn
sản phẩm còn chậm; thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên; đầu tư kinh phí từ
ngân sách còn thấp nên việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ quản lý còn gặp
nhiều khó khăn.
4. Đầu tư kinh phí cho công tác quản
lý chất lượng VSATTP
Hiện tại, đầu tư cho công tác quản lý
chất lượng VSATTP còn thấp. Theo Báo cáo của Chính phủ, kinh phí được cấp cho công tác quản lý chất lượng
VSATTP giai đoạn 5 năm (từ 2004-2008) là 329 tỷ đồng, tính bình quân đầu người của cả nước chỉ đạt 780 đồng/người/năm
- chỉ bằng 1/19 mức đầu tư của Thái Lan và bằng 1/136 mức đầu tư cho công tác
ATVSTP của một cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc (FDA) của Mỹ.
Theo số
liệu thống kê từ báo cáo của 63 tỉnh, thành phố có 54 tỉnh báo cáo về kinh phí
cho công tác quản lý VSATTP trong 5 năm từ 2004 đến năm 2008 cho thấy, nguồn
ngân sách trung ương cấp cho công tác này là rất thấp, nguồn ngân sách các địa
phương dành cho công tác này còn thấp hơn nhiều, chỉ có một số ít tỉnh có đầu
tư từ nguồn ngân sách địa phương cho hoạt động này ([13]). Trung bình tổng kinh phí đầu tư cho một tỉnh
giai đoạn 2004-2006 là 484,76 triệu/tỉnh/năm, giai đoạn 2007-2008 là 762,1 triệu/tỉnh/năm
(Xem Phụ lục IV.a và IV.b), trong đó:
- Chi
cho việc ban hành văn bản giai đoạn 2004-2006 là 1,63 triệu/tỉnh/năm, giai đoạn
2007-2008 là 3,05 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho tổ chức bộ máy quản lý, chỉ đạo giai đoạn 2004-2006 là 24,56 triệu/tỉnh/năm,
giai đoạn 2007-2008 là 54,6 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho kiểm tra, thanh tra giai đoạn 2004-2006 là 108,23 triệu/tỉnh/năm, giai đoạn
2007-2008 là 184,3 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho mua trang thiết bị, dụng cụ, hóa chất giai đoạn 2004-2006 là 95,27 triệu/tỉnh/năm,
giai đoạn 2007-2008 là 97,25 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho xét nghiệm, kiểm nghiệm, giám định giai đoạn 2004-2006 là 20,03 triệu/tỉnh/năm,
giai đoạn 2007-2008 là 28,9 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho điều tra ngộ độc thực phẩm giai đoạn 2004-2006 là 13,97 triệu/tỉnh/năm,
giai đoạn 2007-2008 là 26,1 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho xây dựng mô hình điểm giai đoạn 2004-2006 là 36,1 triệu/tỉnh/năm, giai đoạn
2007-2008 là 81,15 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
cho tuyên truyền, giáo dục về VSATTP giai đoạn 2004-2006 là 119,3 triệu/tỉnh/năm,
giai đoạn 2007-2008 là 186,75 triệu/tỉnh/năm.
- Chi
khác trong giai đoạn 2004-2006 là 69,2 triệu/tỉnh/năm, giai đoạn 2007-2008 là
94,9 triệu/tỉnh/năm.
Mặc dù
trung bình kinh phí đầu tư cho công tác quản lý chất lượng VSATTP giai đoạn
2007-2008 đã tăng 1,57 lần so với giai đoạn 2004- 2006 nhưng vẫn còn thấp, gây
khó khăn trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về VSATTP tại
địa phương.
Mặt
khác, qua giám sát tại các tỉnh, thành phố cho thấy, đầu tư cho công tác quản
lý chất lượng VSATTP thực tế không chỉ có nguồn đầu tư từ ngân sách thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia về VSATTP (do bộ Y tế chủ trì) mà còn có các nguồn
khác như đầu tư cho việc thực hiện các chương trình nuôi trồng thủy sản, bảo quản,
chế biến nông sản sau thu hoạch; đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ,
xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật... do các bộ khác chủ trì thực hiện.
Bên cạnh đó còn có sự đầu tư rất lớn của các doanh nghiệp cho công tác này. Do
vậy, Chính phủ cần xem xét để có số liệu báo cáo sát thực, đầy đủ về vấn đề này
để thấy rõ hiệu quả của việc đầu tư sử dụng nguồn ngân sách cho công tác quản
lý chất lượng VSATTP.
5. Việc
kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về VSATTP
5.1. Về kiểm tra, thanh tra, xử
lý vi phạm hành chính
Hoạt động kiểm tra, thanh tra chất lượng
VSATTP trong thời gian qua đã được tăng cường nên đã phát huy hiệu quả tích cực;
đã kịp thời phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật về VSATTP. Theo số liệu
từ báo cáo của các tỉnh, thành phố trong 5 năm 2004-2008 đã tổ chức 1.361.198 lần
kiểm tra và 56.113 đoàn thanh tra (Xem Phụ lục V.a và V.b). Trong số 13
loại hình cơ sở sản xuất kinh doanh (SXKD) liên quan đến bảo đảm chất lượng
VSATTP, số cơ sở SXKD được thanh tra hàng năm giai đoạn 2004-2006 là 77.184 cơ
sở/năm, giai đoạn 2007-2008 là 123.722 cơ sở/năm. Kết quả thanh tra cho thấy:
- Tỷ lệ các cơ sở SXKD đạt yêu cầu
tăng từ 55,7%/năm (2004-2006) lên 65,0%/năm (2007-2008).
- Tỷ lệ các cơ sở SXKD bị cảnh cáo giảm
từ 34,0%/năm (2004-2006) xuống 23,6%/năm (2007-2008).
- Tỷ lệ các cơ sở SXKD bị phạt tiền
tăng từ 5,5%/năm (2004-2006) lên 8,2%/năm (2007-2008), thể hiện tính răn đe mạnh
hơn.
- Tỷ lệ các cơ sở SXKD bị hủy sản phẩm
tăng từ 2,1%/năm (2004-2006) lên 3,0%/năm (2007-2008), thể hiện tính răn đe mạnh
hơn.
- Tỷ lệ các cơ sở SXKD bị đình chỉ sản
xuất tăng từ 0,1%/năm (2004-2006) lên 0,2%/năm (2007-2008), thể hiện tính răn
đe mạnh hơn.
Như vậy, tỷ lệ cơ sở SXKD đạt yêu cầu
có chiều hướng tăng ở những loại hình SXKD sau đây: cơ sở SXKD thuốc BVTV; sản
xuất rau an toàn (RAT); chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô trang trại; nuôi trồng
thủy sản; chế biến, bảo quản nông sản; chế biến, bảo quản thủy sản; tầu cá, cảng
cá; kinh doanh thực phẩm; cơ sở ăn uống, nhà hàng, khách sạn. Tỷ lệ cơ sở SXKD
đạt yêu cầu có chiều hướng giảm ở những loại hình SXKD sau đây: cơ sở SXKD thuốc
thú y; thức ăn chăn nuôi; chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể kết quả của 56.113 đoàn thanh tra tại 478.966 cơ sở SXKD của 13 loại hình
cơ sở SXKD liên quan đến bảo đảm chất lượng VSATTP cho thấy tỷ lệ cơ sở SXKD đạt
yêu cầu có xu hướng tăng. Điều này chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật về
VSATTP của các cơ sở SXKD đã được nâng lên.
Bên cạnh hoạt động thanh tra VSATTP của
ngành y tế, thanh tra chuyên ngành về thú y, thủy sản, bảo vệ và kiểm dịch thực
vật cũng đã tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra nên đã góp phần đảm bảo chất
lượng VSATTP, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản, thủy sản Việt Nam
trên thị trường thế giới, đồng thời ngăn chặn kịp thời hàng hóa không bảo đảm
chất lượng vào Việt Nam (như ngăn chặn kịp thời một số lô thực phẩm nhập khẩu từ
Trung Quốc nhiễm melamine).
Tuy nhiên, trong hoạt động thanh tra
còn bộc lộ một số điểm bất cập, mỗi tỉnh chỉ có 0,5 cán bộ được biên chế làm
công tác thanh tra VSATTP. Từ khi có Nghị định 79/2008/NĐ-CP, thanh tra chuyên
ngành về VSATTP mới được thành lập ở Trung ương, Bộ Y tế hiện có 9 người, Bộ
Nông nghiệp - PTNT có 3 người làm công tác thanh tra chuyên ngành VSATTP, ít
hơn rất nhiều so với lực lượng thanh tra VSATTP ở một số nước ([14]). Do vậy, hoạt động thanh tra còn chưa thường xuyên, chủ yếu tập trung
vào tháng hành động chất lượng VSATTP và các dịp lễ, tết... Mặt khác, trang thiết
bị phục vụ tác nghiệp còn thiếu; việc xử lý vi phạm còn chưa kiên quyết; mức xử
phạt thấp nên chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa (giai đoạn 2004-2006 có 9.251 cơ sở
SXKD bị phạt tiền, trung bình phạt 542 ngàn đồng/lần; giai đoạn 2007-2008 có
10.928 cơ sở SXKD bị phạt tiền, trung bình phạt 1.071 ngàn đồng/lần) ([15]). Bên cạnh đó, do phối hợp hoạt động giữa các lực lượng thanh tra
chuyên ngành còn chưa chặt chẽ nên có tình trạng trong một năm có nhiều đoàn
thanh tra đến 1 doanh nghiệp gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Qua kiểm tra, thanh tra phát hiện thấy
các vi phạm chủ yếu là vi phạm về điều kiện
VSATTP, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng,
hàng hoá không rõ nguồn gốc xuất xứ ([16]); vận chuyển,
buôn bán gia súc, gia cầm bị bệnh hoặc không rõ nguồn gốc; vi phạm về nhãn mác
hàng hóa, đặc biệt là tình trạng làm giả nhãn mác hàng hóa của các doanh nghiệp
có thương hiệu mạnh gây ảnh hưởng đến uy tín, doanh thu của doanh nghiệp và thiệt
hại cho người tiêu dùng.
5.2. Về xử lý hình sự
Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối
cao, về xét xử hình sự đối với các vi phạm trong lĩnh vực VSATTP trong 5 năm
2004-2008 toàn ngành tòa án đã thụ lý 160 vụ (chiếm 0,05% tổng số vụ án hình sự
đã thụ lý) với 292 bị cáo. Các Tòa án đã xét xử 152 vụ với 281 bị cáo (đạt tỷ lệ
giải quyết xử 95% về số vụ và 96% số bị cáo); đã tuyên phạt tù từ trên 15 đến
20 năm đối với 1 bị cáo, từ trên 7 năm đến 15 năm đối với 7 bị cáo, từ trên 3
năm đến 7 năm đối với 47 bị cáo, từ 3 năm trở xuống đối với 90 bị cáo, được hưởng
án treo đối với 128 bị cáo, cải tạo không giam giữ đối với 8 bị cáo... Tuy
nhiên, qua thực tiễn công tác xét xử vẫn tồn tại một số bất cập như căn cứ để
chuyển các vi phạm pháp luật sang xử lý hình sự; căn cứ xác định mức thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dùng do vi phạm quy định về VSATTP để
khởi tố các vụ vi phạm pháp luật hình sự còn chưa được quy định cụ thể.
6. Công
tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về quản lý
chất lượng VSATTP
Hoạt động tuyên truyền thời gian qua
tập trung vào việc phổ biến chính sách pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP,
nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người sản xuất kinh doanh,
người tiêu dùng thực phẩm; tập huấn kiến thức cho nông dân, cho người chế biến,
kinh doanh thực phẩm... Công tác truyền thông còn được tăng cường trong những
thời gian cao điểm như tháng hành động về chất lượng VSATTP, trong những ngày lễ,
tết hoặc những thời điểm xảy ra dịch bệnh... Theo báo cáo của Chính phủ, qua 4 năm từ 2005-2008, do đẩy mạnh
công tác tuyên truyền nên tỷ lệ người tiêu dùng có nhận thức đúng về VSATTP
tăng từ 38,3 % lên 48,6%, người sản
xuất thực phẩm có nhận thức đúng về VSATTP tăng từ 47,8% lên 55,7%, người kinh doanh dịch vụ có nhận thức đúng về VSATTP tăng từ 38,6 %
lên 49,4%.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật chưa thường
xuyên. Nội dung tuyên truyền giáo dục chưa chuyên sâu cho các nhóm đối tượng, từng
vùng miền; chưa chú trọng việc giáo dục đạo đức kinh doanh và ý thức trách nhiệm
của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng. Vì vậy, có tình trạng
người sản xuất, kinh doanh thực phẩm do lợi ích trước mắt, sẵn sàng bỏ qua hoặc
không thực hiện đúng các quy định về VSATTP gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng;
sự chênh lệch về nhận thức giữa khu vực đô thị và nông thôn còn lớn, tình trạng
người dân ăn cá nóc, nấm độc, uống rượu có hàm lượng metanol cao... vẫn xảy ra.
7. Quản lý hoạt động thông
tin, quảng cáo về thực phẩm
Việc quản lý hoạt động thông tin, quảng
cáo về thực phẩm còn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Tình trạng phổ biến
là doanh nghiệp đăng quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phân
phát các tài liệu quảng cáo khi chưa có giấy tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo,
chưa được cơ quan y tế thẩm định về nội dung. Nhiều trường hợp lợi dụng các hội
chợ để quảng cáo không đúng về tác dụng của sản phẩm, đặc biệt là thực phẩm chức
năng. Theo báo cáo của Bộ Y tế, từ 2004 - 2008, trong số 3.033 giấy phép quảng
cáo được cấp chỉ có 1.867 quảng cáo có giấy tiếp nhận hồ sơ của cơ quan y tế. Tổng
số giấy phép quảng cáo thực phẩm đã cấp tăng dần từ 76 (năm 2004) lên 1.028
(năm 2008) và giấy phép cấp cho thực phẩm chức năng tăng từ 0 (năm 2005) lên 20
(năm 2008). Việc đăng tải, thông tin quảng cáo về chất lượng VSATTP trên phương
tiện thông tin đại chúng tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên, cũng đã có thông
tin, quảng cáo chưa đúng sự thật gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người tiêu
dùng.
8. Xã hội hóa công tác quản lý và
bảo đảm chất lượng VSATTP
Chất lượng VSATTP chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố như điều kiện KT-XH, năng lực quản lý, điều kiện SX-KD, khoa học
công nghệ, trình độ dân trí, tập quán, thói quen tiêu dùng,...Quản lý VSATTP
đòi hỏi phải thường xuyên, liên tục trong tất cả các công đoạn của chuỗi cung cấp
thực phẩm. Do vậy, cần huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào công
tác quản lý và bảo đảm chất lượng VSATTP.
Hiện tại, quản lý chất lượng VSATTP
đã được xã hội hóa trong một số hoạt động dịch vụ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà
nước; xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn như HACCP, GMP, Viet GAP...; đào tạo, tập
huấn kiến thức về VSATTP, tuyên truyền giáo dục pháp luật về VSATTP...Tuy
nhiên, công tác này vẫn chưa được đẩy mạnh, nhiệm vụ quản lý nhà nước giao cho
các cơ quan quản lý khá nặng nề, trong khi nguồn kinh phí nhà nước cấp còn hạn
chế; chưa có cơ chế chính sách để huy động các nguồn lực từ các đoàn thể, tổ chức
xã hội, xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp... trong việc bảo đảm chất lượng VSATTP,
đặc biệt là trong hoạt động giám sát của cộng đồng.
II. TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VSATTP TRONG SẢN XUẤT, KINH
DOANH THỰC PHẨM
1. Quản lý chất lượng VSATTP trong
sản xuất rau quả, lương thực, trong nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản,
trong chăn nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm
1.1. Trong sản xuất rau,
quả tươi sống
Hiện nay nước ta sản xuất 11,5 triệu
tấn rau các loại. Hiện tại có 43 tỉnh, thành phố đã quy hoạch vùng sản xuất rau
an toàn (RAT). Tuy nhiên, diện tích đất
đủ điều kiện trồng RAT mới chỉ đạt 8,5% tổng diện tích rau cả nước, diện tích trồng cây ăn quả an toàn đạt khoảng
20%, số còn lại do sản xuất nhỏ lẻ, không trong vùng quy hoạch nên khó kiểm
soát về chất lượng. Một số mô hình sản xuất quả an toàn được chứng nhận đạt
tiêu chuẩn Global GAP, rau quả Việt nam đã xuất khẩu sang thị trường Châu Âu và
một số nước khác ([17]). Năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu rau quả đạt 396 triệu USD ([18]).
Ở một số
thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh cũng chỉ kiểm soát được 20- 30% nhu cầu rau
xanh của thành phố.
Về ô nhiễm vi sinh vật: Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, kết quả kiểm tra ngẫu nhiên
trên rau, quả tại TP. Hà Nội, Tiền Giang, Vĩnh Phúc, TP. Hồ Chí Minh trong Quý
3-4/2008 của Dự án Xây dựng và kiểm soát chất lượng nông sản thực phẩm cho thấy,
trong 76 mẫu rau thì 40 mẫu nhiễm E.Coli vượt quá giới hạn cho phép (chiếm
52,6%); 6 mẫu rau nhiễm Salmonella (chiếm 7,9%) ([19]). Số liệu trên
cho thấy, môi trường đất và nước để trồng rau là chưa đáp ứng tiêu chuẩn để sản
xuất RAT. Việc này đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng quy hoạch vùng trồng RAT
theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và PTNT để bảo đảm chất lượng rau.
Về tồn dư hóa chất: Kết quả kiểm tra dư lượng
thuốc BVTV trên rau, quả tại các chợ đầu mối, các siêu thị và vùng sản xuất tại
TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận trong năm 2008 cho thấy, trong
412 mẫu rau các loại được kiểm tra phát hiện 48 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt
quá giới hạn tối đa cho phép (chiếm 11,65%), 1 mẫu có dư lượng thuốc BVTV cấm sử
dụng Endosunfal (chiếm 0,2%); trong 99 mẫu quả được kiểm tra có 15 mẫu có dư lượng
thuốc BVTV vượt quá giới hạn tối đa cho phép (chiếm 15,15%) ([20]).
Theo số liệu từ báo cáo của 63 tỉnh,
thành phố, trong số mẫu chưa đạt yêu cầu, bên cạnh các nguyên nhân ô nhiễm khác
thì nguyên nhân ô nhiễm do tồn dư hóa chất BVTV giai đoạn 2004-2006 là 4,9%,
giai đoạn 2007-2008 là 5,72%; ô nhiễm do hóa chất bảo quản là 0,005%; ô nhiễm
do dụng cụ, bao gói là 0,01% (trong 2 năm 2007-2008). Trong giai đoạn
2007-2008, hoạt động lấy mẫu giám sát đã được tăng cường và tập trung vào các địa
điểm có nguy cơ ô nhiễm cao nên đã kịp thời phát hiện, cảnh báo nhiều trường hợp
ô nhiễm do tồn dư thuốc BVTV. Ô nhiễm do hóa chất bảo quản và do dụng cụ, bao
gói đối với rau là không đáng kể. Theo báo cáo của 22 tỉnh, thành phố, với
11.716 mẫu kiểm tra thì tồn dư hóa chất trong rau năm 2008 chiếm 7,08%, đây là
mức cao nhất trong 4 năm gần đây (Xem Phụ lục VI.a).
Kết quả
phân tích số liệu trong báo cáo của 63 tỉnh, thành phố cho thấy, trung bình số mẫu rau quả tươi đạt yêu cầu giai đoạn 2004-2006 là 91,0
%, giai đoạn 2007-2008 là 90,5%. (Xem Phụ lục VI.b).
Nhìn chung, các quy định về sản xuất,
kinh doanh rau, quả được ban hành khá đầy đủ. Tuy nhiên, việc thực hiện không
đúng các quy định về sử dụng thuốc BVTV và thời gian cách ly trước khi thu hoạch
rau quả nên tồn dư hóa chất trong rau, quả vẫn ở mức cao. Thực tiễn giám sát
cho thấy, việc quy hoạch vùng sản xuất RAT còn chậm; việc xây dựng thương hiệu,
hệ thống phân phối RAT, quản lý chất lượng RAT trên thị trường còn chưa được thực
hiện tốt, tình trạng giả thương hiệu RAT vẫn xẩy ra gây tâm lý không an tâm cho
người tiêu dùng.
1.2.
Trong sản xuất một số nông sản chủ lực
Đối với
một số nông sản chủ lực như lúa gạo, ngô... của nước ta cơ bản đạt yêu cầu
VSATTP do kiểm soát được thuốc BVTV trong canh tác ([21]) và áp dụng khoa học công nghệ trong chế biến, bảo
quản. Vì vậy mà mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 4,5 - 5 triệu tấn/năm, đứng thứ 2
trên thế giới. Riêng năm 2008, tổng sản lượng lúa đạt 38,6
triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 2,9 tỷ USD.
1.3. Trong chăn nuôi, giết mổ,
vận chuyển, kiểm tra vệ sinh thú y, kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và
PTNT, số lượng gia súc, gia cầm giết mổ trong năm 2008 được kiểm soát giết mổ đạt
58,1%. Tỷ lệ gia súc, gia cầm giết mổ được kiểm soát tuy có tốt hơn trước nhưng
vẫn còn thấp. Theo báo cáo của các địa phương (Xem Phụ lục V.a), tuy số
lượng gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt hơn trước nhưng kết quả thanh tra
6.891 cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm cho thấy số cơ sở đạt yêu cầu giảm
từ 61,8% (giai đoạn 2004-2006) xuống 51,8% (giai đoạn 2007-2008). Một số địa
phương đã có quy hoạch cơ sở giết mổ tập trung nhưng triển khai gặp nhiều khó
khăn, không duy trì hoạt động của các cơ sở giết mổ do giá thành quá cao, nhiều
địa phương khác vẫn chưa có quy hoạch giết mổ ([22]). Tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm ở các lò mổ tư nhân không đảm bảo
điều kiện VSATTP là phố biến. Hiện nay, chỉ có 617 cơ sở giết mổ tập trung (chiếm
3,6% tổng số cơ sở giết mổ trong cả nước), trong đó 20 cơ sở có đủ điều kiện để
giết mổ xuất khẩu; 16.512 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ, khó kiểm soát. Tình trạng vận
chuyển thịt gia súc, gia cầm tươi sống không tuân thủ điều kiện vệ sinh thú y vẫn
diễn ra ở nhiều tỉnh, thành phố, trong đó có cả Thủ đô Hà Nội. Có nơi, có lúc,
việc kiểm tra vệ sinh thú y, lấy mẫu kiểm tra dư lượng thuốc thú y trong thịt
và sản phẩm từ thịt còn mang tính hình thức, hành chính,([23]) chưa kịp thời, thường xuyên. Công tác kiểm dịch động vật còn kém hiệu
quả. Ở nhiều địa phương vẫn có tình trạng cấp giấy chứng nhận kiểm dịch sai quy
định; trang thiết bị cho các chi cục thú y, trạm, chốt kiểm dịch còn hạn chế,
hoạt động kiểm dịch chủ yếu vẫn dựa trên giấy tờ hoặc theo cảm quan.
Ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong
thịt và sản phẩm thịt: Tại Hà Nội, trong số 72 mẫu thịt
lợn được kiểm tra có 3 mẫu nhiễm Salmonella (chiếm 4,1%) và 4 mẫu nhiễm
S.aureus vượt quá giới hạn cho phép (chiếm 5,5%); trong số 72 mẫu thịt gà có 6
mẫu nhiễm Salmonella (chiếm 8,3%) và 7 mẫu nhiễm S.aureus vượt quá giới hạn cho
phép (chiếm 9,7%). Tại TP Hồ Chí Minh, trong số 69 mẫu thịt lợn có 4 mẫu nhiễm
Salmonella (chiếm 5,8%) và 37 mẫu nhiễm S.aureus vượt quá giới hạn cho phép
(chiếm 53,6%); trong số 69 mẫu thịt gà có 6 mẫu nhiễm Salmonella (chiếm 8,7%)
và 41 mẫu nhiễm S.aureus vượt quá giới hạn cho phép (chiếm 59,4%) ([24]). Số liệu trên cho thấy, điều kiện giết mổ,
vận chuyển và kinh doanh sản phẩm thịt tươi sống hiện nay vẫn còn là một khâu yếu
trong chuỗi cung cấp sản phẩm thịt.
Ô nhiễm hóa chất trong thịt và sản
phẩm thịt: Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, một
số hoóc môn tăng trưởng như Salbutamol và Clenbuterol là chất cấm sử dụng do có
ảnh hưởng đến sức khỏe con người nhưng vẫn còn tồn dư trong thịt ([25]).
Theo số liệu từ báo cáo của các tỉnh,
thành phố, tồn dư hóa chất trong thịt và sản phẩm thịt tươi sống (trong đó có
thủy sản) giai đoạn 2004-2006 là 3,91%, giai đoạn 2007-2008 là 6,39% (đặc biệt
với 2.275 mẫu kiểm tra ở 19 tỉnh trong năm 2008, số mẫu thịt và sản phẩm thịt
tươi sống có tồn dư hóa chất chiếm 11,08% là cao nhất trong 5 năm gần đây); ô
nhiễm hóa chất bảo quản thực phẩm giai đoạn 2004 – 2006 là 19,43%, giai đoạn
2007-2008 là 8,87%; ô nhiễm do dụng cụ, bao gói giai đoạn 2004- 2006 là 5,13%,
giai đoạn 2007-2008 là 15,27%. Như vậy, tồn dư hóa chất và hóa chất bảo quản thực
phẩm trong thịt và sản phẩm động vật tươi sống là vấn đề rất cần được quan tâm
(Xem Phụ lục VI.a).
Số liệu thống kê từ báo cáo của 63 tỉnh,
thành phố cũng cho thấy, trung bình số mẫu thịt, sản phẩm từ thịt tươi sống
(trong đó có thủy sản) đạt yêu cầu giai đoạn 2004-2006 là 68,2%, giai đoạn 2007-2008
là 62,9% (Xem Phụ lục VI.b).
Như vậy, từ khi Pháp lệnh Thú y có hiệu
lực thi hành (10/2004), công tác kiểm dịch, vệ sinh thú y có được cải thiện hơn
trước. Tuy nhiên, công tác quy hoạch giết mổ tập trung còn chậm, thực hiện quy
định về vệ sinh thú y còn chưa nghiêm túc, quản lý thuốc thú y còn chưa tốt, việc
trộn chất kích thích sinh trưởng bị cấm trong thức ăn chăn nuôi vẫn xẩy ra ở
các cơ sở chăn nuôi nhỏ lẻ, hộ gia đình. Do vậy, tình trạng ô nhiễm vi sinh vật,
tồn dư hóa chất trong thịt và sản phẩm thịt còn cao và khó kiểm soát.
1.4. Trong nuôi trồng, khai
thác, chế biến thủy sản tươi sống
Việc kiểm soát chất lượng VSATTP được
thực hiện thông qua các chương trình như Chương trình an toàn vệ sinh vùng thu hoạch
nhuyễn thể hai mảnh vỏ, Chương trình kiểm soát dư lượng hoá chất độc hại trong
thủy sản và sản phẩm thủy sản nuôi, Chương trình kiểm soát sản phẩm thủy sản
sau thu hoạch, các quy định về điều kiện vùng nuôi,.. nên chất lượng VSATTP đối
với sản phẩm thủy sản được cải thiện rõ rệt, đặc biệt chất lượng thủy sản xuất
khẩu ngày càng có uy tín ([26]). Vì vậy, sản
lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới, trong đó thủy sản
nuôi trồng đứng thứ 2. Riêng năm 2008, xuất khẩu thủy sản đạt 4,6 tỷ USD.
Tuy nhiên, việc quản lý chất lượng
VSATTP đối với thủy sản tiêu dùng nội địa vẫn còn bất cập như tình trạng sử dụng
ure để bảo quản, sử dụng chất kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản. Năm 2007, kết
quả phân tích 571 mẫu thủy sản sau thu hoạch với hơn 1.870 lượt chỉ tiêu phân
tích, trong đó tập trung vào các chỉ tiêu kháng sinh bị cấm như
Chloramphenicol, Nitrofuran, hoá chất bảo quản (urê) cho thấy có 1 mẫu nhiễm dẫn
xuất của nitrofuran (chiếm 0,17%); 1 mẫu có hàm lượng Cadimi vượt mức giới hạn
cho phép (chiếm 0,17%). Kiểm tra về vi sinh vật gây bệnh thấy có 21 mẫu vượt mức
cho phép (chiếm 3,68%), 17 mẫu có kết quả TPC, Coliforms vượt mức cho phép (chiếm
2,98%); 2 mẫu nhiễm Salmonella (chiếm 0,35%), 2 mẫu nhiễm E.coli (chiếm 0,35) ([27]).
Thực trạng trên cho thấy, yêu cầu kiểm
soát chất lượng VSATTP đối với thủy sản xuất khẩu rất cao nhưng các doanh nghiệp
xuất khẩu thủy sản thực hiện nghiêm túc vì nếu không bảo đảm chất lượng VSATTP
thì hàng bị trả lại gây thiệt hại lớn về kinh tế. Tuy nhiên, với thủy sản nội địa,
mặc dù quy định của pháp luật là đầy đủ nhưng việc kiểm tra và xử lý vi phạm
chưa được chú trọng nên chất lượng VSATTP của thủy sản tiêu thụ nội địa còn
chưa cao.
2. Quản lý chất lượng VSATTP trong
xuất khẩu, nhập khẩu thực phẩm
2.1.
Trong xuất khẩu thực phẩm
Việc kiểm soát
VSATTP xuất khẩu được thực hiện theo hợp đồng. Việc tự kiểm soát chất lượng
VSATTP sản phẩm xuất khẩu được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Hiện tại,
các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là gạo, thủy sản, chè, cà phê, hồ
tiêu, điều, thịt lợn, mật ong ([28]), v.v...
Nhìn chung, sản phẩm thực phẩm xuất khẩu đã cơ bản đáp ứng yêu cầu về chất lượng
VSATTP, tỷ lệ hàng bị trả về hoặc phải tiêu hủy thấp. Kim ngạch xuất khẩu nông
sản, thủy sản năm 2008 ước đạt 10,2 tỷ USD.
2.2.
Trong nhập khẩu thực phẩm
Năm 2008, cả nước
nhập khẩu các loại sản phẩm nông nghiệp trị giá 1.558,7 triệu USD (sữa và sản
phẩm sữa 553,9 triệu USD, lúa mỳ 292,6 triệu USD, bột mỳ 25,5 triệu USD, dầu mỡ
động thực vật 665,5 triệu USD, đường 35,8 triệu USD) ([29]). Việc nhập khẩu thực phẩm được thực hiện theo các quy định của pháp luật
về VSATTP, về hải quan, về thương mại, về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, về bảo
vệ và kiểm dịch thực vật, về thú y,... Kiểm tra nhà nước về chất lượng VSATTP của
thực phẩm nhập khẩu được giao cho 12 cơ quan nhà nước do Bộ Y tế chỉ định. Hiện
tại, các cơ quan này mới chỉ tập trung vào kiểm soát thực phẩm nhập khẩu chính
ngạch và kết quả kiểm tra cho thấy chỉ có 0,07% số lượng thực phẩm không đạt
yêu cầu ([30]). Việc quản lý nhập khẩu qua đường tiểu ngạch,
phát hiện, phòng chống buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ ([31]). Tình trạng nhập khẩu thực phẩm, phụ gia thực phẩm không có giấy xác
nhận chất lượng nhập khẩu của cơ quan kiểm tra nhà nước..., nhập lậu động vật
và sản phẩm động vật, hoa quả tươi không qua kiểm dịch còn xảy ra([32]). Qua khảo sát thực tế của Đoàn giám sát ở một số cửa khẩu, tình trạng
chung là trang thiết bị phục vụ kiểm nghiệm còn thiếu và lạc hậu, thiếu các
phương tiện kiểm tra cơ động, thiết bị kiểm tra nhanh. Việc kiểm tra chất lượng
VSATTP chủ yếu dựa vào cảm quan. Mặt khác, tình trạng thiếu kho ngoại quan tại
các cửa khẩu cũng là trở ngại lớn cho việc kiểm soát VSATTP vì khi hàng hoá được
đưa về kho của chủ hàng để đợi kết quả kiểm tra thì nhiều trường hợp chủ hàng
phát tán hàng hóa trước khi có kết quả kiểm tra. Bên cạnh đó, theo Quyết định
254/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý hoạt động thương mại
biên giới giữa các nước có chung đường biên thì việc mua bán, trao đổi hàng hóa
của cư dân biên giới trị giá dưới 2 triệu VNĐ không phải khai báo thủ tục hải
quan. Quy định này cũng gây khó khăn cho công tác kiểm soát VSATTP ở các tỉnh
biên giới.
Nhìn chung, văn
bản pháp luật quy định đối với nhập khẩu thực phẩm khá đầy đủ, tuy nhiên, trong
việc thực thi pháp luật còn một số điểm chưa hợp lý. Ví dụ: rau quả tươi, trứng,
động vật và sản phẩm động vật... ngoài việc kiểm tra chất lượng VSATTP do cơ
quan y tế thực hiện còn đồng thời phải kiểm dịch thực vật, kiểm dịch động vật,
kiểm tra vệ sinh thú y do cơ quan nông nghiệp thực hiện. Do vậy, vấn đề thủ tục
nhập khẩu đối với hàng hóa thực phẩm cần được xem xét, thống nhất đầu mối để
tránh gây phiền hà cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời bảo đảm hiệu
quả quản lý.
3. Quản lý chất lượng VSATTP trong
chế biến, kinh doanh thực phẩm
3.1. Việc cấp giấy chứng nhận đủ
điều kiện VSATTP đối với cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm; cấp giấy chứng
nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm thực phẩm
Việc quản lý chất lượng VSATTP đối với
các cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm được thực hiện thông qua việc cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện VSATTP và giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm.
Tuy nhiên, công tác này còn bộc lộ nhiều bất cập:
- Việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP cho cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm còn chậm, tỷ lệ cơ sở được cấp
giấy chứng nhận tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý (Năm 2006, số
cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP mới chỉ đạt 0,3% ([33]), năm 2008
có tiến bộ nhưng cũng chỉ đạt 11,2%). Tỷ lệ cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ
điều kiện VSATTP có sự chênh lệch khá lớn giữa các tỉnh (ví dụ ở Đà Nẵng đạt
76.1%, ở Quảng Trị đạt 56,7%, ở TP. Hồ Chí Minh đạt 50,6%, ở Đắc Lắc đạt 22,3%)
và giữa các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm (hiện nay, có tới
93,9% cơ sở dịch vụ ăn uống chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP) ([34]). Điều này cho thấy đây là khâu yếu trong tổ
chức thực hiện. Mặc dù khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh VSATTP quy định kinh doanh thực
phẩm là kinh doanh có điều kiện, nhưng giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP lại
không được coi là điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh. Vì vậy, nhiều địa
phương Đoàn đến giám sát đề nghị nên quy định Giấy chứng nhận này là một điều
kiện để cấp giấy phép kinh doanh.
- Việc cấp giấy chứng nhận công bố
tiêu chuẩn sản phẩm cũng ở tình trạng tương tự, trong hàng chục ngàn sản phẩm
thực phẩm mới chỉ có 25.224 sản phẩm được cấp giấy chứng nhận công bố
tiêu chuẩn sản phẩm ([35]). Sở dĩ có tình trạng trên là do việc phân
công, phân cấp thẩm quyền cấp giấy chứng nhận còn chưa hợp lý, nguồn nhân lực,
trang thiết bị phục vụ công tác này còn hạn chế.
3.2. Đối với thực phẩm chế biến
thủ công và thực phẩm chế biến công nghiệp
Số liệu từ báo cáo của một số tỉnh
cho thấy, số mẫu thực phẩm chế biến công nghiệp đạt yêu cầu giai đoạn 2004-2006
là 91,3%, giai đoạn 2007-2008 là 89,7%; số mẫu thực phẩm chế biến thủ công đạt
yêu cầu giai đoạn 2004-2006 là 77,9%, giai đoạn 2007-2008 là 83,5% (Xem Phụ
lục VI.b). Như vậy, 2 năm gần đây thực phẩm chế biến thủ công có nhiều tiến
bộ nhưng độ an toàn của thực phẩm chế biến thủ công thấp hơn thực phẩm chế biến
công nghiệp.
Về ô nhiễm sản phẩm chế biến thủ công
do hóa chất tồn dư và do dụng cụ, bao gói là cao hơn so với sản phẩm chế biến
công nghiệp; ô nhiễm do hóa chất bảo quản thực phẩm trong chế biến công nghiệp
là cao hơn so với chế biến thủ công (Xem Phụ lục VI.a), cụ thể là:
- Tồn dư hóa chất trong sản phẩm chế
biến thủ công giai đoạn 2004-2006 là 1,10%, giai đoạn 2007-2008 là 2,45%. Ô nhiễm
do hóa chất bảo quản thực phẩm giai đoạn 2004-2006 là 5,59%, giai đoạn
2007-2008 là 3,35%. Ô nhiễm do dụng cụ, bao gói giai đoạn 2004-2006 là 15,21%,
giai đoạn 2007-2008 là 10,22%. Như vậy, tồn dư hóa chất có chiều hướng tăng, ô
nhiễm do hóa chất bảo quản và do dụng cụ, bao gói có chiều hướng giảm.
- Tồn dư hóa chất trong sản phẩm chế
biến công nghiệp giai đoạn 2004-2006 là 0,73%, giai đoạn 2007-2008 là 0,81%.
Trong đó, ô nhiễm do hóa chất bảo quản thực phẩm giai đoạn 2004-2006 là 6,22%,
giai đoạn 2007-2008 là 13,29%; ô nhiễm do dụng cụ, bao gói giai đoạn 2004-2006
là 1,91%, giai đoạn 2007-2008 là 2,10%. Như vậy, tồn dư hóa chất và ô nhiễm do
dụng cụ, bao gói có chiều hướng tăng nhẹ, đối với hóa chất bảo quản thực phẩm
tăng nhiều hơn.
Việc sản xuất, kinh doanh loại thực
phẩm là thức ăn chín, chế biến ăn liền đã được cải thiện so với những năm trước
đây, tuy nhiên, việc sử dụng các chất bị cấm sử dụng trong chế biến thức ăn
chín vẫn còn phổ biến... Theo báo cáo của Bộ Y tế, kết quả kiểm tra thức ăn đường
phố các năm 2005-2008 cho thấy tình trạng sử dụng một số hóa chất bị cấm sử dụng
trong chế biến thực phẩm vẫn ở tỷ lệ cao ([36]).
3.3. Đối
với chất phụ gia, chất hỗ trợ chế biến, chất bảo quản thực phẩm
Chất phụ gia thực
phẩm, chất hỗ trợ chế biến, nguyên liệu thực phẩm được kiểm tra năm 2008 là
27.587.658 kg/298 lô. Việc quản lý VSATTP đối với chất phụ gia, chất hỗ trợ chế
biến, chất bảo quản thực phẩm còn bất cập: văn bản QPPL trong lĩnh vực này còn
thiếu cụ thể; việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa thường xuyên; phương
tiện, trang thiết bị kiểm tra còn hạn chế. Tình trạng mua bán, sử dụng các chất
phụ gia, chất bảo quản, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không rõ nguồn gốc,
ngoài danh mục cho phép sử dụng còn phổ biến ở các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ
lẻ, chế biến thủ công. Đoàn giám sát được các địa phương phản ảnh, có nhiều loại
phụ gia thực phẩm không bảo đảm chất lượng VSATTP vẫn lưu thông trên thị trường.
3.4. Đối với rượu, bia, nước giải
khát, nước uống đóng chai
Nhìn chung, các quy định quản lý chất
lượng VSATTP; tiêu chuẩn đối với rượu, nước giải khát, nước uống đóng chai được
ban hành khá đầy đủ. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh đồ uống quy mô công nghiệp
tuân thủ khá đầy đủ các quy định về VSATTP. Nhiều doanh nghiệp đầu tư công nghệ
hiện đại và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhưng phần lớn cơ sở
sản xuất rượu, bia, nước giải khát, nước uống đóng chai quy mô nhỏ, thủ công
còn chưa thực hiện đầy đủ các quy định về VSATTP.
Sản xuất rượu thủ công vẫn chiếm tỷ lệ
khá lớn (250-300 triệu lít/năm) ([37]) và có tới
95,7% người uống rượu sử dụng loại rượu này. Tuy nhiên, việc kiểm soát hàm lượng
methanol, aldehyt trong rượu còn chưa tốt. Hiện tại, chưa có tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật đối với rượu sản xuất thủ công. Do vậy, tình trạng tử vong do ngộ
độc rượu còn cao ([38]). Lượng rượu giả bị thu giữ tuy có giảm
nhưng vẫn ở mức cao; nước giải khát kém chất lượng bị thu giữ ngày càng tăng ([39]). Các vi phạm chủ yếu trong lĩnh vực này là vi phạm quy định về ghi
nhãn, quy trình sản xuất, dụng cụ, bình chứa không bảo đảm VSATTP, vị trí sản
xuất không bảo đảm cách ly với khu vực gây ô nhiễm (có cơ sở sản xuất bia, nước
uống đóng chai Đoàn giám sát đến làm việc có địa điểm sản xuất nằm sát nghĩa
trang). Gần đây, qua kiểm tra của nhiều tỉnh, thành phố đã phát hiện hàng loạt
cơ sở sản xuất nước uống đóng chai vi phạm nghiêm trọng các quy định về VSATTP
như các phương tiện thông tin đại chúng đã đăng tải ([40]).
3.5. Đối với thực phẩm chức
năng và sữa
- Đối với thực phẩm chức năng:
Thực phẩm chức năng xuất hiện trên thị
trường ngày càng nhiều, chủ yếu là nhập khẩu (riêng thực phẩm chức năng nhập khẩu
được kiểm tra nhà nước về chất lượng VSATTP năm 2008 đã là 7.887.000 kg/106 lô)
nhưng tiêu chí và phương thức quản lý loại thực phẩm này hiện còn nhiều quan điểm
khác nhau. Quy định về quản lý thực phẩm chức năng còn thiếu cụ thể, như quy định
về việc bán hàng đa cấp, quy định về điều kiện kinh doanh thực phẩm chức
năng,... Bên cạnh đó, do năng lực của các cơ sở kiểm nghiệm còn hạn chế nên nhiều
khi không xác định được các hoạt chất của mẫu kiểm tra để xác định đó là thực
phẩm hay dược phẩm để có phương thức quản lý thích hợp. Do vậy, việc quản lý loại
thực phẩm này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc xử lý vi phạm.
- Đối với sữa:
Lượng sữa ở Việt Nam chủ yếu do nhập
khẩu. Năm 2008 sữa nhập khẩu chiếm 72% (trong đó 50% là sữa bột nhập về để hoàn
nguyên thành sữa lỏng, 22% là sữa thành phẩm - nhập khẩu 553 triệu USD), 28 %
là sữa tươi tự sản xuất trong nước ([41]). Tiêu thụ
sữa của Việt Nam tăng 14,1%/năm, 78% sản phẩm sữa do trẻ em tiêu thụ. Tính trung
bình người Việt Nam tiêu thụ khoảng 9,5 lít sữa/người/năm (Thái Lan tiêu thụ 25
lít/người/năm, Pháp tiêu thụ 130 lít/người/năm, Australia tiêu thụ 320 lít/người/năm).
Theo báo cáo của Bộ Công thương, sản
phẩm sữa là hàng giả, hàng kém chất lượng bị thu giữ có xu hướng tăng đáng kể:
năm 2004 là 967 hộp, năm 2005 là 9.666 hộp, năm 2006 là 3.043 hộp, năm 2007 là
21.998 hộp, năm 2008 là 71.728 hộp ([42]).Kinh doanh
sản phẩm sữa có nhiễm melamine, sữa có hàm lượng protein thấp, không đúng tiêu
chuẩn công bố,... là vấn đề cần có các biện pháp kiểm soát để bảo vệ người tiêu
dùng. Tồn dư thuốc kháng sinh, các chất độc hại khác như melamine, chất độc do
vi khuẩn thải ra trong sữa là vấn đề rất cần được quan tâm trong quản lý chất
lượng VSATTP.
3.6. Đối với các bếp ăn tập thể
của khu công nghiệp, cơ quan, trường học, bệnh viện
Hiện tại, việc tổ chức bếp ăn tập thể
đông người đã được người đứng đầu cơ sở quan tâm nhưng tình trạng ngộ độc thực
phẩm tại các khu công nghiệp vẫn có chiều hướng gia tăng. Từ năm 2004-2008 số vụ
ngộ độc thực phẩm trung bình xảy ra tại khu công nghiệp là 7 - 32 vụ/năm với số
người mắc là 905 - 3.589 người/năm (trung bình 113 người/vụ) ([43]). Trong 5 năm qua có 1 trường hợp tử vong.
Điều kiện VSATTP tại các bếp ăn tập
thể của cơ quan, trường học... đã được cải thiện đáng kể về cơ sở vật chất,
trang thiết bị, dụng cụ, nguyên liệu chế biến bảo đảm VSATTP. Tuy nhiên, nhiều
bếp ăn, căng tin của bệnh viện chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP.
3.7. Đối với các cơ sở dịch vụ
ăn uống, thức ăn đường phố, khu du lịch
Hoạt động bảo đảm VSATTP đối với các
cơ sở này đã được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện theo Chỉ thị
05/2005/CT-BYT về việc tăng cường công tác bảo đảm VSATTP của thức ăn đường phố
và các quy định về điều kiện của cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường
phố. Hiện tại, 48/63 tỉnh trên cả nước đã triển khai xây dựng phường điểm về
VSATTP thức ăn đường phố. Do vậy, VSATTP của các cơ sở dịch vụ ăn uống đã được
cải thiện so với những năm trước đây ([44]).Tuy nhiên,
tỷ lệ các cơ sở dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố tại các phường điểm này được
cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP vẫn còn thấp (chiếm 16,5%), còn trung
bình năm 2008 tỷ lệ được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP của cả nước đối
với thức ăn đường phố là 6,1%.
3.8. Đối với các khách sạn, nhà
hàng
Các khách sạn, nhà hàng đã có sự đầu
tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ chế biến nên cơ bản đáp ứng yêu cầu
bảo đảm VSATTP. Do vậy, trong nhiều năm qua, ít có các vụ ngộ độc thực phẩm tại
các cơ sở khách sạn, nhà hàng. Tuy nhiên, việc chế biến, sử dụng thực phẩm tại
một số khách sạn, nhà hàng còn một số tồn tại như sử dụng nhiều loại phụ gia thực
phẩm không rõ nguồn gốc hoặc không có trong danh mục được phép sử dụng để chế
biến thức ăn…
3.9. Đối với các chợ, các siêu thị
Tính đến nay, trong cả nước đã xây dựng
được 8.333 chợ các loại, trong đó có 86 chợ đầu mối. Việc xây dựng các chợ đầu
mối đã góp phần kiểm soát chất lượng VSATTP của nguồn nguyên liệu thực phẩm.
Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định về VSATTP tại các chợ ở nông thôn, nội
đô, chợ cóc, chợ tạm hiện vẫn còn bất cập. Vẫn xảy ra tình trạng tư thương sử dụng
các hóa chất bảo quản thực phẩm không rõ nguồn gốc, đặc biệt là với hoa quả, nội
tạng động vật. Nhiều trường hợp không qua kiểm tra vẫn đóng dấu vệ sinh thú y,
bán vé kiểm dịch tại chợ...
Hiện nay, cả nước có 386 siêu thị,
103 trung tâm thương mại đạt tiêu chuẩn ([45]), nhiều hệ
thống siêu thị lớn đã có sự đầu tư cho việc kiểm soát chất lượng VSATTP đối với
nguồn nguyên liệu cung cấp cho siêu thị nên nhìn chung thực phẩm tại siêu thị
đáp ứng yêu cầu về VSATTP.
4. Tình hình ngộ độc thực phẩm,
các bệnh truyền qua thực phẩm
4.1. Tình hình ngộ độc thực phẩm
(NĐTP)
Theo Báo cáo của Chính phủ, từ năm
2004-2008 đã có 906 vụ NĐTP, trung bình 181,2 vụ/năm, số người bị NĐTP là 6.036
người/năm, số người chết là 267 người (53,4 người/năm), tính trung bình tỷ lệ
người bị NĐTP cấp tính là 71 người/1 triệu dân/năm (Xem Phụ lục VII.a). Riêng
2008 có 205 vụ ngộ độc với 7.828 người bị mắc, trong đó NĐTP do vi sinh vật
7,8%, do hóa chất 0,5%, do độc tố tự nhiên 25,4% và không rõ nguyên nhân 66,3%.
Theo
số liệu thống kê từ báo cáo của 62 tỉnh, thành phố, số vụ ngộ độc 2004-2008 là
2.160 vụ, trung bình là 432 vụ/năm; số người bị ngộ độc là 8.565,6 người/năm; số
người chết do ngộ độc là 391 người (78,2 người/năm). Riêng năm 2008, số vụ ngộ
độc là 468 vụ, với 8.656 người mắc, số người chết là 89 người. Kết quả thống kê
cũng cho thấy số vụ NĐTP có xu hướng tăng, tuy nhiên trong 3 năm gần đây số người
bị ngộ độc có xu hướng giảm dần (Xem Phụ lục VII.b).
Phân tích nguyên nhân NĐTP giai đoạn
2004-2008 của 1.489 vụ thì:
- Tỷ lệ vụ NĐTP do vi sinh vật giảm,
giai đoạn 2004-2006 là 46,5%, giai đoạn 2007-2008 là 36,8 %.
- Tỷ lệ vụ NĐTP do thực phẩm biến chất
giảm, giai đoạn 2004-2006 là 10,0%, giai đoạn 2007-2008 là 9,3 %.
- Tỷ lệ vụ NĐTP do hóa chất tồn dư giảm,
giai đoạn 2004-2006 là 10,2%, giai đoạn 2007-2008 là 9,3 %.
- Tỷ lệ vụ NĐTP do độc tố tự nhiên
tăng, giai đoạn 2004-2006 là 23,8%, giai đoạn 2007-2008 là 30,2%.
- Tỷ lệ vụ NĐTP do nguyên nhân khác,
giai đoạn 2004-2006 là 9,5%, giai đoạn 2007-2008 là 14,3%.
Nhìn chung, NĐTP do vi sinh vật, thực
phẩm biến chất, hóa chất tồn dư có xu thế giảm, do độc tố tự nhiên có xu thế
tăng. Riêng năm 2008, NĐTP do vi sinh vật là 36,3%, do độc tố tự nhiên là
30,3%, do hóa chất tồn dư là 11,7% và là tỷ lệ cao nhất trong 5 năm gần đây, do
thực phẩm biến chất là 9,1% và do nguyên nhân khác là 12,7% (Xem Phụ lục
VII.c).
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong số
116 ca tử vong do NĐTP gây ra trong 2 năm 2007 và 2008, thì tử vong do ăn tại
gia đình chiếm 87,1%, do ăn tại nhà hàng, khách sạn, nhà trẻ, bếp ăn trường học
chiếm 0,0%, do ăn tại bếp ăn tập thể chiếm 1,7%, do ăn thức ăn đường phố 1,7%,
do ăn tại đám cưới, đám giỗ 1,7%, do ăn tại các nơi khác là 7,8%. Phân tích
nguyên nhân tử vong của 80/116 người chết (chiếm 69%) vì ngộ độc do độc tố tự
nhiên cho thấy, có tới 58 người chết không do ăn thực phẩm từ sản xuất, chế biến
trong chuỗi thực phẩm gây ra ([46]).
Số liệu báo cáo của Chính phủ, của
các bộ và các tỉnh cho thấy có sự khác nhau. Điều đó chứng tỏ việc điều tra, thống
kê, chia sẻ dữ liệu về ngộ độc thực phẩm giữa các cơ quan quản lý nhà nước là
chưa thống nhất.
4.2. Các bệnh truyền qua thực
phẩm
Bệnh truyền qua thực phẩm là nguy cơ
lớn đối với sức khỏe con người và giống nòi do sử dụng lâu dài thực phẩm không
bảo đảm VSATTP. Hiện có tới 400 các bệnh truyền qua thực phẩm, chủ yếu là tả, lỵ
trực trùng, lỵ amip, tiêu chảy, thương hàn, cúm gia cầm... Hiện tại, Bộ Y tế vẫn
chưa có con số thống kê, đánh giá về vấn đề này.
Mặc dù đã có quy định về điều kiện sản
xuất, kinh doanh thực phẩm bảo đảm VSATTP, quy chế điều tra ngộ độc thực phẩm
nhưng việc tuân thủ các quy định trong lĩnh vực này còn chưa nghiêm túc. Ý thức
trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với sức khỏe cộng đồng
còn chưa cao. Còn thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong việc khắc phục, xử lý hậu quả ngộ độc thực phẩm tập thể và truy cứu
trách nhiệm đối với các chủ thể gây ra ngộ độc thực phẩm, nguồn kinh phí để thực
hiện công tác này.
III. ĐÁNH GIÁ VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG VSATTP
1. Kết quả đạt được
Nhìn chung, trong 5 năm 2004-2008,
công tác quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP đã có những kết quả đáng kể trên
nhiều lĩnh vực, cụ thể là:
1.1. Hệ thống văn bản QPPL về quản lý
chất lượng VSATTP được ban hành với số lượng lớn tạo hành lang pháp lý để kiểm
soát chất lượng VSATTP từ “trang trại đến bàn ăn”, bước đầu đã đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP và yêu cầu hội nhập quốc tế.
1.2. Bộ máy tổ chức cơ quan quản lý
nhà nước về VSATTP đang từng bước được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương,
có sự phân công, phân cấp trách nhiệm giữa các Bộ và địa phương nên đã phát
huy hiệu lực và hiệu quả trong công tác quản lý chất lượng VSATTP.
1.3. Đã có thanh tra chuyên ngành
VSATTP tại Trung ương và đang triển khai thành lập ở cấp tỉnh. Mặc dù lực lượng
thanh tra, kiểm tra còn rất mỏng nhưng công tác thanh tra, kiểm tra được tăng
cường hơn trước, góp phần nâng cao chất lượng VSATTP trong tất cả các khâu từ sản
xuất, chế biến đến tiêu dùng thực phẩm, thể hiện qua các năm chất lượng VSATTP
đã được tăng dần.
1.4. Hình thành được mạng lưới kiểm
nghiệm chất lượng VSATTP ở Trung ương và khu vực với sự tham gia của nhiều
phòng thí nghiệm của các thành phần kinh tế; trang thiết bị kiểm nghiệm phục vụ
quản lý nhà nước đang từng bước được đầu tư, nâng cấp.
1.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến
kiến thức và pháp luật về VSATTP đã bước đầu tạo sự chuyển biến về nhận thức của
nhà quản lý, người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng.
1.6. Công tác quản lý và bảo đảm chất
lượng VSATTP có tiến bộ rõ rệt: một số nông sản, thực phẩm chủ lực như lúa gạo,
ngô... cơ bản đáp ứng yêu cầu VSATTP. Điều kiện VSATTP tại các cơ sở sản xuất
kinh doanh thực phẩm bước đầu được cải thiện hơn. Diện tích trồng rau an toàn,
chăn nuôi quy mô trang trại, số lượng chợ đầu mối, siêu thị kinh doanh thực phẩm
tăng dần theo từng năm. Chất lượng VSATTP của thực phẩm chế biến công nghiệp được
kiểm soát tốt. Ô nhiễm vi sinh vật trong một số sản phẩm thực phẩm tươi sống
như rau, thịt, thủy sản... có chiều hướng giảm; số người bị ngộ độc thực phẩm
trong một năm có xu hướng giảm dần; tỷ lệ được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
VSATTP của bếp ăn tập thể, cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố
có tiến bộ.
2. Những tồn tại và yếu kém
2.1. Việc ban hành quá nhiều
văn bản QPPL với hiệu lực pháp lý khác nhau nên có sự chồng chéo, mâu thuẫn, hoặc
bỏ sót một số lĩnh vực... gây khó khăn cho việc áp dụng; việc triển khai thực hiện
còn chậm và thiếu kiên quyết. Các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật làm căn cứ để
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn thiếu và lạc hậu. Việc chuyển đổi và ban
hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về VSATTP còn chậm.
2.2. Tổ chức bộ máy cơ quan chuyên
ngành quản lý chất lượng VSATTP còn chưa hoàn thiện. Lực lượng cán bộ quản lý, thanh tra, kiểm tra chất lượng VSATTP còn
thiếu đáng kể, lại phân tán theo nhiều nhiệm vụ quản lý khác nhau như thanh tra
chuyên ngành về VSATTP, thanh tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch
thực vật, về thú y...; việc xử lý vi phạm chưa kiên quyết.
2.3. Công tác quản lý nhà nước về chất
lượng VSATTP tuy đã có chuyển biến nhưng hiện chỉ mới tập trung giải quyết được
một số vấn đề bức xúc, chưa chủ động quản lý được nguy cơ ô nhiễm theo chuỗi
cung cấp thực phẩm theo một chiến lược dài hạn. Công tác phối hợp giữa các cơ
quan về quản lý chất lượng VSATTP ở Trung ương và địa phương còn chưa tốt, chưa
đảm bảo quản lý một cách liên thông theo chuỗi cung cấp thực phẩm.
2.4. Đầu tư nguồn lực cho công
tác quản lý chất lượng VSATTP rất hạn chế: kinh phí đầu tư cho công tác quản lý
chất lượng VSATTP ở mức quá thấp; trang thiết bị kiểm nghiệm còn thiếu và lạc hậu;
thiếu các phương tiện kiểm tra cơ động và trang thiết bị kiểm tra nhanh.
2.5. Công tác xã hội hóa một số khâu
dịch vụ công phục vụ quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP chưa được quan tâm
đúng mức, chưa huy động được sự tham gia của các lực lượng trong xã hội, nhất
là sự tham gia của các hội, hiệp hội và doanh nghiệp lớn.
2.6. Chất lượng VSATTP của một số sản
phẩm thực phẩm chế biến thủ công, quy mô nhỏ tuy có được cải thiện nhưng vẫn là
một khâu yếu. Tồn dư hóa chất, ô nhiễm hóa chất bảo quản trong một số thực phẩm
chưa được cải thiện. Tỷ lệ cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm được kiểm
soát tuy đã có cải thiện nhưng còn ở mức rất thấp. Tỷ lệ số người sản xuất,
kinh doanh dịch vụ, người tiêu dùng nhận thức đúng về VSATTP tuy có tiến bộ
nhưng ở mức trung bình; trách nhiệm của người sản xuất quy mô nhỏ lẻ đối với sức
khỏe cộng đồng chưa cao; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện VSATTP và tỷ lệ hàng hóa được cấp chứng nhận tiêu
chuẩn sản phẩm ở mức rất thấp; phương thức quản lý thực phẩm chức năng còn bất
cập.
IV. NGUYÊN NHÂN TỒN
TẠI, HẠN CHẾ
1. Nguyên nhân chủ quan
1.1. Hệ thống văn bản QPPL về quản lý
chất lượng VSATTP nhiều, nhưng chưa có văn bản có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh
toàn diện các vấn đề về quản lý chất lượng VSATTP nên việc đồng thời phải áp dụng
337 văn bản QPPL có liên quan để quản lý chất lượng VSATTP từ sản xuất đến tiêu
dùng là rất khó khăn.
1.2. Nhận thức trách nhiệm của
các cấp lãnh đạo, các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa đầy đủ về tầm quan trọng
của công tác quản lý chất lượng VSATTP nên sự chỉ đạo thiếu kiên quyết. Lãnh đạo
của các Ban chỉ đạo liên ngành VSATTP từ TW đến địa phương hầu hết là kiêm nhiệm.
Hiện tại, chưa có quy định gắn trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính quyền
với công tác quản lý chất lượng VSATTP trên địa bàn quản lý.
1.3. Việc thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về chất lượng VSATTP của một số bộ còn chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên
nhân là do các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP còn
chưa được xây dựng theo khung logic để dễ dàng triển khai theo hệ thống; việc
phân công nhiệm vụ chưa đi liền với xây dựng tổ chức bộ máy và đầu tư kinh phí;
chưa có sự phối hợp một cách hiệu quả giữa các cơ quan chức năng cho nên việc
thực hiện và đánh giá kết quả còn gặp khó khăn, còn mang tính định tính.
1.4. Bộ máy cơ quan quản lý chuyên
ngành về VSATTP còn chưa hoàn thiện; có nhiều đầu mối tham gia quản lý nhà nước
về VSATTP nhưng việc phân công trách nhiệm quản lý VSATTP ở một số lĩnh vực và
đối với một số sản phẩm còn chồng chéo, ví dụ như đối với sữa tươi, chế biến thủy
sản...
1.5. Năng lực quản lý của cơ quan nhà
nước còn hạn chế; công tác quản lý chất lượng VSATTP còn chậm đổi mới; việc triển
khai thực hiện văn bản QPPL về VSATTP còn chậm. Việc thanh tra, kiểm tra, điều
tra xác định nguyên nhân gây ô nhiễm thực phẩm còn chưa thường xuyên, kịp thời;
việc xử phạt chưa kiên quyết nên chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa.
1.6. Quản lý chất lượng VSATTP là hoạt
động đồng bộ, toàn diện, trong đó vai trò của các cấp chính quyền địa phương là
rất quan trọng, nhất là trong việc quản lý chất lượng nguyên liệu đầu vào của
chuỗi sản xuất thực phẩm. Tuy nhiên, hiện tại sự tham gia của chính quyền cấp
xã đối với hoạt động này chưa được coi trọng, cấp xã chưa được phân bổ kinh phí
để hoạt động. Công tác chỉ đạo, điều hành còn chưa đồng bộ, chưa kiên quyết,
trách nhiệm chưa rõ ràng nên một số vấn đề rất bức xúc nhưng vẫn không được giải
quyết dứt điểm. Ví dụ, như quy định về việc vận chuyển gia súc, gia cầm tươi sống
trong quận nội thành thì tp. Hồ Chí Minh làm tốt do UBND Thành phố có sự đầu tư
và chỉ đạo kiên quyết, nhưng cũng vấn đề này với nhiều thành phố khác vẫn chưa
được giải quyết.
1.7. Đầu tư cho công tác quản lý chất
lượng VSATTP còn thiếu nghiêm trọng, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý. Ngân sách
cho quản lý chất lượng VSATTP chưa được tách thành mục riêng trong chi ngân
sách, lại phân tán trong nhiều nhiệm vụ chi khác nhau ở nhiều bộ nên công tác
quản lý chất lượng VSATTP thiếu tính đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
1.8. Phương tiện, trang thiết bị kỹ
thuật phục vụ kiểm tra nhà nước về chất lượng VSATTP còn thiếu và lạc hậu;
trình độ cán bộ chuyên môn và năng lực phân tích của các phòng thử nghiệm trong
nước còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý, vẫn còn phải thuê phòng thử nghiệm ở nước
ngoài phân tích đối với một số chỉ tiêu phân tích hóa chất độc hại trong thực
phẩm.
1.9. Công tác xã hội hoá một số khâu
dịch vụ công phục vụ quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP chưa được cụ thể hóa
thành chính sách để huy động nguồn lực về chuyên môn, tài chính từ các tổ chức
hội, hiệp hội, doanh nghiệp, các viện, trường đại học, v.v...
1.10. Công tác nghiên cứu khoa học
làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược quản lý chất lượng VSATTP; công tác quy
hoạch các vùng sản xuất thực phẩm an toàn; cảnh báo, kiểm soát nguy cơ ô nhiễm
thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm... chưa được chú trọng
đúng mức.
1.11. Ý thức chấp hành pháp luật về
quản lý chất lượng VSATTP và trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm
đối với cộng đồng còn chưa cao, một mặt là do người sản xuất, kinh doanh chạy
theo lợi nhuận trước mắt, coi thường tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng; mặt
khác do việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, chưa kiên quyết.
2. Nguyên nhân khách quan
2.1. Do nước ta đang chuyển đổi từ nền
sản xuất quy mô nhỏ lẻ sang nền sản xuất hàng hóa; công nghệ sản xuất, chế biến
thực phẩm còn thủ công; quy hoạch cho sản xuất thực phẩm chưa được xây dựng đồng
bộ nên việc bảo đảm VSATTP còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Do tập quán ăn uống, trình độ
dân trí, đặc biệt là do thu nhập thấp nên vẫn còn tình trạng người tiêu dùng sử
dụng thực phẩm giá rẻ, không bảo đảm VSATTP.
Sự gia tăng số lượng nhà máy, các khu
công nghiệp lớn, tập trung người lao động tác động trực tiếp tới vấn đề VSATTP
của các bếp ăn tập thể của khu công nghiệp.
2.3. Do bảo vệ môi trường còn chưa
theo kịp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nên môi trường nói chung và môi
trường đất, nước để trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản nói riêng vẫn
còn bị ô nhiễm. Bên cạnh đó, áp lực của việc nâng cao năng suất vật nuôi, cây
trồng cũng làm tăng việc sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất thực phẩm.
Đây là nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm thực phẩm, tồn dư hóa chất trong sản
phẩm thực phẩm.
2.4. Nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm
trong việc quản lý theo chuỗi cung cấp thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn”; việc
quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn chưa gắn với thị trường tiêu thụ, xây
dựng thương hiệu, xuất xứ địa lý của sản phẩm nên thực phẩm an toàn chưa tạo được
niềm tin cho người tiêu dùng, giá thành cao khó cạnh tranh với thực phẩm thông
thường, vì vậy chưa tạo động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm
an toàn.
2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
giao lưu thương mại hàng hóa nói chung và thực phẩm nói riêng; đồng thời việc
có hơn 4.500 km đường biên giới trên đất liền, nhiều cửa khẩu đường sông, biển
nên việc kiểm soát hàng hóa thực phẩm nhập khẩu rất khó khăn, đặc biệt là kiểm
soát thực phẩm nhập khẩu qua đường tiểu ngạch.
Phần II
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN
NGHỊ
I - GIẢI PHÁP
1. Nhóm giải pháp về thể chế chính
sách
1.1. Giải pháp trước mắt
- Ban hành Luật An toàn thực phẩm để
điều chỉnh toàn diện và thống nhất các vấn đề về quản lý an toàn thực phẩm, chú
trọng tập trung làm rõ 4 vấn đề: cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm;
cơ chế phối hợp trong công tác quản lý chất lượng VSATTP; trách nhiệm của người
đứng đầu doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm; chế tài xử
lý vi phạm.
- Sửa đổi một số điều của pháp luật
có liên quan làm cơ sở để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất khi thực hiện pháp
luật về quản lý chất lượng VSATTP (ví dụ như quy định về thanh tra chuyên ngành
trong Luật Thanh tra, quy định về quyền khởi kiện của hội, hiệp hội trong Bộ Luật
Tố tụng dân sự,…).
- Sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL
còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn; sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù
hợp; bổ sung những quy định còn thiếu (Xem Phụ lục II).
- Hướng dẫn thi hành các điều có liên
quan đến việc khởi tố đối với các hành vi vi phạm quy định về VSATTP của Bộ luật
Hình sự.
- Đầu tư kinh phí nâng cấp một số
phòng thí nghiệm để đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực các
phòng thí nghiệm phân tích hiện có; khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia đầu tư mới các phòng thí nghiệm cung cấp dịch vụ kỹ thuật phục vụ cho việc
quản lý chất lượng VSATTP.
1.2. Giải pháp lâu dài
- Nhà nước có chính sách khuyến khích
chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, phát triển vùng sản xuất nguyên liệu
theo hướng sản xuất lớn, quy mô trang trại, gắn với việc phát triển thị trường
hàng hóa nông sản an toàn.
- Khuyến khích, hỗ trợ hoặc cho vay vốn
để các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, mở rộng
quy mô sản xuất, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP, GAP,
GMP, GHP, ISO; xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an
toàn...
- Đầu tư nghiên cứu khoa học và công
nghệ trong việc phục vụ kiểm soát, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; trong chọn
tạo giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất lượng cao, giá thành
hạ; trong sản xuất, chế biến thực phẩm an toàn...
2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực
hiện
2.1. Giải pháp trước mắt
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng,
sự quản lý của các cấp chính quyền; gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách pháp luật về quản
lý chất lượng VSATTP.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến kiến thức và pháp luật về chất lượng VSATTP đối với người quản lý, người
SXKD, người tiêu dùng thực phẩm, đặc biệt chú trọng tuyên truyền nâng cao ý thức
trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của người SXKD thực phẩm đối với cộng đồng.
- Trên cơ sở điều kiện thực tiễn của
Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm, mô hình quản lý chất lượng VSATTP của một số
nước trên thế giới (Xem Phụ lục VIII và Phụ lục IX):
+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về chất lượng VSATTP trong công đoạn sản xuất nguyên liệu, sơ chế, chế
biến thực phẩm đối với Bộ Nông nghiệp – PTNT, Bộ Công thương.
+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về VSATTP theo hướng nâng cấp Cục An toàn vệ sinh thực phẩm thành Tổng
cục thuộc Bộ Y tế đủ năng lực, đủ thẩm quyền để quản lý VSATTP đối với thực phẩm
từ sau công đoạn sơ chế, chế biến đến tiêu dùng và thực phẩm nhập khẩu như mô
hình của một số nước hiện nay trên thế giới.
+ Phân công rõ trách nhiệm và có cơ
chế phối hợp giữa các Bộ có liên quan ở những khâu có sự đan xen giữa các công
đoạn để bảo đảm quản lý chất lượng VSATTP theo chuỗi thực phẩm. Đối với các loại
thực phẩm mà sự phân biệt giữa các công đoạn của chuỗi thực phẩm không rõ ràng
(như rau quả tươi, sữa, thịt chó...) thì cần quy định phân công cụ thể các bộ
quản lý đối với từng loại thực phẩm.
+ Phân cấp mạnh cho địa phương đồng
thời với việc đầu tư nguồn lực để bảo đảm hiệu quả quản lý trong một số hoạt động,
nhất là phân cấp trong việc cấp giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm, giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện VSATTP, kiểm nghiệm, thử nghiệm,...
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh
tra và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng VSATTP; trong khi chưa kiện toàn
được hệ thống thanh tra chuyên ngành về VSATTP, cần có cơ chế phối hợp hoạt động
giữa lực lượng thanh tra của các bộ và với lực lượng quản lý thị trường.
- Đẩy mạnh xã hội hóa một số khâu dịch
vụ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý VSATTP; phát huy vai trò của các doanh
nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể trong việc
tham gia bảo đảm chất lượng VSATTP,...
2.2. Giải pháp lâu dài
- Xây dựng chiến lược quốc gia về bảo
đảm VSATTP giai đoạn từ 2011 đến năm 2020 (có sự lồng ghép với chiến lược phát
triển KT-XH, chiến lược phát triển ngành nông nghiệp, công nghiệp, y tế, chiến
lược phát triển nguồn nhân lực) làm định hướng cho việc đổi mới quản lý chất lượng
VSATTP; quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn; quy hoạch giết mổ gia súc,
gia cầm; phát triển chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn…
- Đổi mới công tác quản lý nhà nước về
chất lượng VSATTP theo hướng kiểm soát nguy cơ ô nhiễm trong toàn bộ chuỗi cung
cấp thực phẩm; việc quản lý dựa trên tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
- Xây dựng lộ trình để giải quyết dứt
điểm các vấn đề tồn tại trong công tác quản lý chất lượng VSATTP như vấn đề kiểm
soát dư lượng thuốc BVTV, thuốc thú y... trong sản phẩm nông sản; kiểm soát chặt
chẽ nguồn cung cấp thực phẩm, thực phẩm có nguy cơ cao và thực phẩm chức
năng...
3. Nhóm giải pháp về nguồn lực
3.1. Giải pháp trước mắt
- Có mục chi riêng ngân sách cho quản
lý chất lượng VSATTP trong mục lục ngân sách nhà nước hàng năm.
- Bảo đảm cấp đủ ngân sách nhà nước
cho hoạt động quản lý nhà nước về VSATTP, chú trọng đầu tư cho công tác kiểm
tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về VSATTP, trang thiết bị kiểm nghiệm,
xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về VSATTP, tuyên truyền phổ biến kiến
thức và pháp luật về VSATTP,…
- Bố trí đủ nhân lực, đào tạo
nguồn nhân lực có chuyên môn phục vụ công tác quản lý nhà nước về VSATTP.
3.2. Giải pháp lâu dài
- Tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh
việc ký kết các điều ước quốc tế, các thỏa thuận song phương, đa phương trong
lĩnh vực VSATTP; về công nhận, thừa nhận lẫn nhau về kết quả chứng nhận phù hợp
tiêu chuẩn.
- Đưa nội dung đào tạo, nghiên cứu
chuyên ngành về quản lý chất lượng VSATTP vào chương trình đào tạo, nghiên cứu
khoa học của các trường đại học, viện nghiên cứu,…
- Huy động sự tham gia của các tổ chức
xã hội, xã hội – nghề nghiệp, doanh nghiệp trong một số hoạt động dịch vụ công
phục vụ công tác quản lý chất lượng VSATTP.
II. KIẾN NGHỊ
1. Với Quốc hội
1.1. Ban hành Nghị quyết riêng của Quốc
hội hoặc thể hiện trong Nghị quyết chung về kinh tế - xã hội hàng năm bảo đảm
cho về việc tăng cường các biện pháp hữu hiệu thực hiện chính sách pháp luật về
quản lý chất lượng VSATTP.
1.2. Ban hành Luật An toàn thực phẩm
đồng thời sớm sửa đổi, bổ sung, một số luật có liên quan đến thanh tra chuyên
ngành, xử lý vi phạm, khởi tố như Luật Thanh tra, Bộ Luật Tố tụng dân sự,... để
bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả trong việc quản lý chất lượng VSATTP.
1.3. Tăng cường công tác giám sát việc
thực hiện các văn bản pháp luật về VSATTP và xử lý các kiến nghị giám sát.
1.4. Trong phân bổ kế hoạch ngân sách
hàng năm, có dành một khoản kinh phí hợp lý hơn chi thường xuyên cho hoạt động
quản lý chất lượng VSATTP (trước mắt khoảng 9.000 đồng/người và tăng dần hàng
năm cùng với tăng thu của ngân sách nhà nước) để công tác VSATTP đảm bảo hiệu
quả thiết thực.
1.5. Giao Chính phủ xem xét, kiện
toàn hệ thống tổ chức cơ quan quản lý chất lượng VSATTP đến cấp xã.
2. Đối với Chính phủ
2.1. Xây dựng chiến lược quốc gia về
bảo đảm VSATTP giai đoạn từ 2011 đến năm 2020 làm định hướng cho công tác xây dựng
kế hoạch quản lý chất lượng VSATTPP.
2.2. Xây dựng một mục chi ngân sách
riêng cho quản lý chất lượng VSATTP trên cơ sở tính đúng, tính đủ nguồn ngân
sách đã chi cho các bộ được phân công làm cơ sở để Quốc hội quyết định phân bổ
ngân sách hàng năm.
2.3. Chỉ đạo các cơ quan rà soát các
văn bản QPPL có liên quan tới quản lý chất lượng VSATTP còn chồng chéo, mâu thuẫn,
không còn phù hợp hoặc còn thiếu để quyết định việc sửa đổi, bổ sung theo thẩm
quyền hoặc trình Quốc hội quyết định
2.4. Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ
quan quản lý CLVSATTP từ Trung ương đến địa phương theo hướng:
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về CLVSATTP trong công đoạn sản xuất nguyên liệu, sơ chế, chế biến thực phẩm
đối với Bộ Nông nghiệp – PTNT, Bộ Công thương.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về VSATTP theo hướng nâng cấp Cục An toàn vệ sinh thực phẩm thành Tổng
cục thuộc Bộ Y tế đủ năng lực, đủ thẩm quyền để quản lý VSATTP đối với thực phẩm
từ sau công đoạn sơ chế, chế biến đến tiêu dùng và thực phẩm nhập khẩu như mô
hình của một số nước hiện nay trên thế giới.
- Phân công rõ trách nhiệm và có cơ
chế phối hợp giữa các Bộ có liên quan ở những khâu có sự đan xen giữa các công
đoạn để bảo đảm quản lý chất lượng VSATTP theo chuỗi thực phẩm. Đối với các loại
thực phẩm mà sự phân biệt giữa các công đoạn của chuỗi thực phẩm không rõ ràng
(như rau quả tươi, sữa, thịt chó...) thì cần quy định phân công cụ thể các bộ
quản lý đối với từng loại thực phẩm.
- Phân cấp mạnh cho địa phương đồng
thời với việc đầu tư nguồn lực để bảo đảm hiệu quả quản lý trong một số hoạt động,
nhất là phân cấp trong việc cấp giấy chứng nhận công bố tiêu chuẩn sản phẩm, giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện VSATTP, kiểm nghiệm, thử nghiệm,...
2.5. Đề xuất chính sách về thuế và
tín dụng khuyến khích các doanh nghiệp SXKD các mặt hàng thực phẩm đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất theo định hướng sản xuất hàng hóa thực phẩm an
toàn.
2.6. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc
thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP trong thời gian qua
và tăng cường chỉ đạo việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng
VSATTP.
2.7. Đẩy mạnh xã hội hóa một số khâu
dịch vụ công phục vụ quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP; nâng cao vai trò của
các hội, hiệp hội, doanh nghiệp trong việc bảo đảm chất lượng VSATTP, đặc biệt
là tuyên truyền, giáo dục kiến thức và pháp luật về VSATTP.
3. Đối với các cơ quan tư pháp
3.1. Tăng cường năng lực điều tra, khởi
tố các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực VSATTP; xử lý nghiêm các hành
vi vi phạm pháp luật về VSATTP.
3.2. Sớm có hướng dẫn thi hành các điều
có liên quan đến việc khởi tố đối với các hành vi vi phạm quy định về VSATTP của
Bộ luật Hình sự.
4. Đối với các Bộ có liên quan đến
quản lý chất lượng VSATTP
4.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban
hành văn bản theo thẩm quyền trong lĩnh vực được phân công quản lý; ban hành
các quy chuẩn kỹ thuật về VSATTP thuộc phạm vi quản lý.
4.2. Thực hiện tốt công tác phối hợp
liên ngành trong quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP trên cơ sở trách nhiệm
đã được phân công, đặc biệt ở những khâu có sự đan xen giữa các công đoạn để bảo
đảm quản lý chất lượng VSATTP theo chuỗi thực phẩm.
4.3. Kiện toàn tổ chức thanh tra
chuyên ngành về chất lượng VSATTP tại các bộ và tại các địa phương; có cơ chế
phối hợp giữa thanh tra chuyên ngành VSATTP với lực lượng quản lý thị trường;
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm
pháp luật về quản lý chất lượng VSATTP; tập trung thực hiện tốt công tác tiền
kiểm và coi trọng thỏa đáng hậu kiểm đối với hàng hoá thực phẩm.
4.4. Xây dựng hệ thống giám sát nguy
cơ ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm.
4.5. Nâng cao chất lượng công tác
giáo dục, truyền thông về VSATTP, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo
dục; chú trọng giáo dục đạo đức kinh doanh của người SXKD thực phẩm, ý thức
tiêu dùng thực phẩm bảo đảm VSATTP.
4.6. Quản lý chặt chẽ hoạt động thông
tin, quảng cáo thực phẩm; có “quy chế phát ngôn” để kịp thời phản hồi các thông
tin sai lệnh, không chính xác nhằm ổn định tâm lý người tiêu dùng, bảo vệ doanh
nghiệp sản xuất thực phẩm an toàn. Tăng cường việc đăng tải các thông tin về chất
lượng VSATTP, đồng thời xử lý nghiêm đối với tổ chức, cá nhân đưa thông tin, quảng
cáo không chính xác.
5. Kiến nghị đối với UBND cấp tỉnh
5.1. Ban hành kịp thời
văn bản QPPL phù hợp với điều kiện địa phương và tổ chức tốt việc triển khai thực
hiện; xác định rõ chỉ tiêu, nhiệm vụ quản lý chất lượng VSATTP trong kế hoạch
hoạt động hàng năm, trong đó có phương án ứng phó kịp thời khi xảy ra NĐTP quy
mô lớn trên địa bàn quản lý.
5.2. Sớm thành lập Chi cục An toàn vệ
sinh thực phẩm, Chi Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản tại các tỉnh,
thành phố.
5.3. Tổ chức tốt công tác thanh tra,
kiểm tra, xử lý nghiêm và kịp thời các vi phạm pháp luật về VSATTP trên địa bàn
quản lý.
5.4. Bố trí hợp lý nguồn ngân sách
chi thường xuyên hàng năm dành cho công tác quản lý chất lượng VSATTP tại địa
phương, đặc biệt là ở cấp xã; ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư sản
xuất, kinh doanh, tạo thị trường đầu ra cho sản phẩm thực phẩm an toàn.
5.5. Huy động các nguồn lực của địa
phương tham gia vào hoạt động quản lý và bảo đảm chất lượng VSATTP; phát huy
vai trò của cơ quan thông tin đại chúng, của các tổ chức, đoàn thể trong xã hội
tham gia giám sát và phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật về VSATTP.
5.6. Xây dựng lộ trình giải quyết dứt
điểm các vấn đề bức xúc về VSATTP tại địa phương; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô trang trại và tăng cường
công tác quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn, quy hoạch giết mổ gia súc,
gia cầm, quy hoạch các chợ đầu mối,... để bảo đảm việc quản lý được thực hiện
trong toàn bộ theo chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn.
5.7. Tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục, nâng cao nhận thức về VSATTP, ý thực chấp hành pháp luật về quản lý
chất lượng VSATTP, chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm của người sản xuất
kinh doanh thực phẩm đối với cộng đồng.
5.8. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ công tác quản lý VSATTP tại địa phương, chú trọng nguồn nhân lực
tại cấp huyện, xã.
6. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức xã hội
6.1. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên cần tăng cường trách nhiệm giám sát hoạt động
của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chính sách pháp luật về quản
lý chất lượng VSATTP; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện pháp luật về quản
lý chất lượng VSATTP.
6.2. Phát huy vai trò của các hội, hiệp
hội trong một số hoạt động dịch vụ kỹ thuật phục vụ quản lý chất lượng VSATTP,
giáo dục, tuyên truyền, đào tạo, tập huấn kiến thức pháp luật về quản lý chất
lượng VSATTP.
* *
*
Trên đây là Báo cáo giám sát “việc
thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm”.
Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trân trọng báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
|
TM.
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Đức Kiên
|