VĂN PHÒNG QUỐC
HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
03/VBHN-VPQH
|
Hà Nội, ngày
12 tháng 9 năm 2012
|
LUẬT
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội số 01/1997/QH9 của
Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 17 tháng 4 năm 1997, được sửa đổi, bổ sung bởi:
1. Luật số 31/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm
2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có hiệu lực
kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002;
2. Luật số 63/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm
2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992; Luật này quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội[1].
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín.
Điều 2.
Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc
hội theo quy định của pháp luật.
Điều 3.
Đại biểu Quốc hội có những tiêu chuẩn sau đây:
1.[2] Trung thành
với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực
hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liên
chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm
pháp luật;
3. Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại
biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến
của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc
hội.
Điều 4.
Ủy ban thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc
bầu cử đại biểu Quốc hội; giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, bảo đảm cho
việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.
Chính phủ chỉ đạo công tác bầu cử theo quy định
của pháp luật.
Điều 5.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa
chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội; tham gia giám sát việc bầu cử
đại biểu Quốc hội.
Điều 6.
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác bầu cử theo
quy định của pháp luật.
Điều 7.
Kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội do
ngân sách nhà nước bảo đảm.
Chương II
SỐ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 8.
1.[3] Tổng số đại
biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá năm trăm người.
2. Căn cứ để phân bổ đại biểu Quốc hội của mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương:
a) Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
ít nhất ba đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương;
b) Số đại biểu tiếp theo được tính theo số dân
và đặc điểm của mỗi địa phương;
c) Thủ đô Hà Nội được phân bổ số đại biểu thích
đáng.
3. Căn cứ vào quy định tại các khoản 1 và 2 Điều
này, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến số lượng đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Điều 9[4].
Căn cứ vào số lượng đại biểu Quốc hội quy định tại
Điều 8 của Luật này, căn cứ vào nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội, để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội,
sau khi trao đổi ý kiến với Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội, chậm nhất là chín mươi lăm
ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến về:
1. Cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội;
2. Số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
Điều 10.
Số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số
do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến theo đề nghị của Hội đồng dân tộc của Quốc
hội, bảo đảm để các thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng.
Điều 10a[5].
Số đại biểu Quốc hội là phụ nữ do Ủy ban thường
vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung
ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm để phụ nữ có số đại biểu thích
đáng.
Điều 11.
Đại biểu Quốc hội được bầu theo đơn vị bầu cử. Ở
mỗi đơn vị bầu cử được bầu không quá ba đại biểu. Tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử.
Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị và số đại
biểu của mỗi đơn vị được tính căn cứ theo số dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn
định và được công bố chậm nhất là bảy mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 12[6].
1. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội chia thành
nhiều khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là
khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
2. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến bốn
nghìn cử tri. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù
chưa có tới ba trăm cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Việc chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn quyết định và do Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê
chuẩn. Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn thì việc
chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
quyết định.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập khu vực bỏ
phiếu riêng, trừ trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một
khu vực bỏ phiếu.
Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm
sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ năm mươi cử tri trở
lên có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những
người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính có thể thành lập khu vực
bỏ phiếu riêng.
Chương III
CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU
CỬ
Điều 13[7].
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội
bao gồm:
1. Hội đồng bầu cử ở Trung ương;
2. Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
3. Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
4. Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
Điều 14[8].
1. Chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày
bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử ở trung ương để thực
hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Hội
đồng bầu cử có từ mười lăm đến hai mươi mốt người gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch,
Tổng thư ký và các ủy viên là đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
2. Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng bầu
cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử trong cả
nước; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của pháp luật về bầu cử;
b) Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động bầu cử;
c) Chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trong cuộc bầu cử;
d) Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở Trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; gửi tiểu
sử tóm tắt của những người ứng cử đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam;
đ) Nhận hồ sơ và danh sách người ứng cử đại biểu
Quốc hội do Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
gửi đến;
e) Quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu cử đại
biểu Quốc hội;
g) Lập và công bố danh sách những người ứng cử đại
biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu
cử đại biểu Quốc hội của Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu
cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban bầu cử chuyển đến; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
người ứng cử đại biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu
Quốc hội;
i) Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu
cử do Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
Ban bầu cử gửi đến; làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả
nước;
k) Quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm đại
biểu Quốc hội hoặc hủy bỏ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử;
l) Công bố kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội
trong cả nước;
m) Cấp giấy chứng nhận cho người trúng cử đại biểu
Quốc hội;
n) Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội
khóa mới biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong cả nước và những
hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội.
Điều 15[9].
1. Chậm nhất là chín mươi lăm ngày trước ngày bầu
cử, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp
quyết định thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh để thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh có từ hai mươi mốt đến ba mươi mốt người gồm Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch, Thư ký và các ủy viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
Danh sách Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được báo cáo lên Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội đồng bầu cử.
2. Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội ở các đơn vị bầu cử; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của
pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
b) Chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên
truyền và vận động bầu cử đại biểu Quốc hội ở địa phương;
c) Chỉ đạo thực hiện công tác bảo vệ an ninh, trật
tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ở địa phương;
d) Nhận và xem xét hồ sơ của người được tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân
dân, cơ quan nhà nước ở địa phương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và hồ sơ
của người tự ứng cử đại biểu Quốc hội; gửi danh sách trích ngang và tiểu sử tóm
tắt của những người được giới thiệu ứng cử và những người tự ứng cử đại biểu Quốc
hội đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
đ) Nhận tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
từ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và phân phối cho các
Ban bầu cử chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;
e) Lập danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc
hội theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử;
g) Chỉ đạo, kiểm tra việc lập và niêm yết danh
sách cử tri;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu
cử đại biểu Quốc hội của Ban bầu cử, Tổ bầu cử; giải quyết khiếu nại, tố cáo về
bầu cử đại biểu Quốc hội do Ban bầu cử, Tổ bầu cử chuyển đến; giải quyết khiếu
nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội;
i) Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu
cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử đại
biểu Quốc hội ở địa phương;
k) Thông báo kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở
địa phương;
l) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
đại biểu Quốc hội theo quy định của Hội đồng bầu cử;
m) Chuyển hồ sơ, biên bản xác định kết quả bầu cử
đại biểu Quốc hội đến Hội đồng bầu cử;
n) Tổ chức việc bầu cử lại, bầu cử thêm đại biểu
Quốc hội theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Điều 16[10].
1. Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử,
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi thống nhất với
Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp
quyết định thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ chín đến mười lăm
người gồm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban, Thư ký và các ủy viên là đại diện Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một
số cơ quan, tổ chức hữu quan.
2. Ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành quy định của
pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Tổ bầu cử;
b) Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ
phiếu;
c) Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử
tri;
d) Phân phối tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu
Quốc hội cho các Tổ bầu cử chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử;
đ) Niêm yết danh sách những người ứng cử đại biểu
Quốc hội trong đơn vị bầu cử;
e) Chỉ đạo, kiểm tra công việc bầu cử đại biểu
Quốc hội tại các phòng bỏ phiếu;
g) Nhận và kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu
bầu cử đại biểu Quốc hội do các Tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản xác định kết quả
bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử để gửi đến Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
h) Nhận và chuyển đến Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại
biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
của các Tổ bầu cử;
i) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
đại biểu Quốc hội theo quy định của Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh;
k) Chuyển hồ sơ, tài liệu về bầu cử đến Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
l) Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử
thêm đại biểu Quốc hội.
Điều 17[11].
1. Chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu
cử, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Thường trực Hội
đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tổ bầu cử có từ mười một đến
hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các ủy viên là đại diện cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tập thể cử tri ở địa
phương.
Đối với những nơi không có đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn thì Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu
cử từ mười một đến hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các ủy
viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
tập thể cử tri ở địa phương.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực
bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người gồm Tổ trưởng, Tổ phó,
Thư ký và các ủy viên là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân.
Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa
phương có chung một khu vực bỏ phiếu thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc cùng cấp và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập
Tổ bầu cử từ mười một đến hai mươi mốt người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và
các ủy viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tập thể cử tri ở địa phương, đại diện Chỉ huy đơn vị, đại diện quân nhân.
2. Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a) Phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ
phiếu;
b) Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu;
c) Nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử;
phát thẻ cử tri, phiếu bầu có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri;
d) Thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu
cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử;
đ) Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy phòng
bỏ phiếu;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu
cử do mình phụ trách;
g) Kiểm phiếu và làm biên bản kết quả kiểm phiếu
để gửi đến Ban bầu cử;
h) Giao biên bản kết quả kiểm phiếu và toàn bộ
phiếu bầu cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
i) Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử
theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên;
k) Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử
thêm.
Điều 18.
Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[12], Ban
bầu cử và Tổ bầu cử không được vận động bầu cử cho những người ứng cử.
Điều 19.
Các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc theo chế độ
tập thể; các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành
viên tham dự; các quyết định được thông qua khi có quá nửa số thành viên biểu
quyết tán thành.
Các tổ chức phụ trách bầu cử có thể trưng tập
cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội giúp việc theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng bầu cử, Chủ tịch Ủy ban bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[13] hoặc của Trưởng ban bầu cử.
Điều 20.
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân có trách nhiệm tạo
điều kiện thuận lợi để các tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện nhiệm vụ và quyền
hạn của mình.
Điều 21[14].
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Quốc hội sau khi đã trình Quốc hội khóa mới biên bản tổng kết cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội.
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại
biểu Quốc hội sau khi Hội đồng bầu cử kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử đại
biểu Quốc hội trong cả nước.
Chương IV
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều 22.
Trong thời gian lập danh sách cử tri, công dân
có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội đều được ghi tên vào danh sách cử tri.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách ở một
nơi mình thường trú hoặc tạm trú.
Điều 23[15].
1. Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình
phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự thì không
được ghi tên vào danh sách cử tri.
2. Người thuộc các trường hợp quy định tại khoản
1 Điều này nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ được khôi
phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác
nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung
vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.
3. Người đã có tên trong danh sách cử tri mà đến
thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt
tù, bị bắt tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.
Điều 24.
Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân
do Chỉ huy đơn vị lập theo khu vực bỏ phiếu. Quân nhân có hộ khẩu thường trú ở
địa phương gần khu vực đóng quân có thể được Chỉ huy đơn vị cấp giấy chứng nhận
để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở địa phương đó. Khi
cấp giấy chứng nhận, Chỉ huy đơn vị phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên
người đó “Bỏ phiếu ở nơi cư trú”.
Điều 25[16].
Chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử,
cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách đó tại trụ sở Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn và tại những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời
thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm tra.
Điều 26[17].
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai
sót thì trong thời hạn hai mươi lăm ngày, kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền
khiếu nại bằng miệng hoặc bằng văn bản với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ
quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại đó. Trong thời hạn
năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải
quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý về kết
quả giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu kiện,
Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định
cuối cùng.
Điều 27.
Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu
cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được
ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi đó để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham
gia bỏ phiếu ở nơi mới đến. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban nhân dân phải ghi
ngay vào danh sách bên cạnh tên cử tri “Đi bỏ phiếu nơi khác”.
Chương V
ỨNG CỬ VÀ HIỆP THƯƠNG,
GIỚI THIỆU NGƯỜI ỨNG CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Mục 1. ỨNG CỬ VÀ HỒ SƠ ỨNG CỬ
Điều 28.
1.[18] Công dân ứng
cử đại biểu Quốc hội (người được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử) theo quy
định của Luật này phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là sáu mươi lăm ngày trước
ngày bầu cử.
Hồ sơ ứng cử gồm:
a) Đơn xin ứng cử;
b) Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan, tổ
chức, đơn vị nơi người đó công tác hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi người đó thường trú;
c) Tiểu sử tóm tắt và ba ảnh màu cỡ 4cm x 6cm.
2. Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở
Trung ương giới thiệu ứng cử thì nộp hồ sơ tại Hội đồng bầu cử.
Người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở địa
phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử thì nộp hồ sơ tại Ủy ban bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[19]
nơi mình ứng cử.
3. Sau khi nhận và xem xét hồ sơ của những người
ứng cử, nếu thấy hợp lệ theo quy định của Luật này thì Hội đồng bầu cử chuyển
tiểu sử tóm tắt của những người được các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở Trung
ương giới thiệu đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[20] chuyển tiểu sử tóm tắt của những người được
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở địa phương giới thiệu ứng cử và tiểu sử tóm
tắt của những người tự ứng cử đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương để đưa vào danh sách hiệp thương.
Điều 29.
Những người sau đây không được ứng cử đại biểu
Quốc hội:
1. Người thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này;
2. Người đang bị khởi tố về hình sự;
3. Người đang phải chấp hành bản án, quyết định
hình sự của Tòa án;
4. Người đã chấp hành xong bản án, quyết định
hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án;
5.[21] Người đang
chấp hành quyết định xử lý hành chính về giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại
cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành chính.
Những người đã có tên trong danh sách ứng cử đại
biểu Quốc hội mà đến thời điểm bắt đầu bầu cử bị khởi tố về hình sự, bị bắt giữ
vì phạm tội quả tang hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Hội đồng bầu cử xóa
tên trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Mục 2. HIỆP THƯƠNG, GIỚI THIỆU
NGƯỜI ỨNG CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Điều 30.
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở trung ương
do Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất
là tám mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, thành phần gồm Đoàn Chủ tịch Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Ban lãnh đạo các tổ chức thành
viên của Mặt trận.[22]
Hội nghị hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành
phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được bầu làm đại
biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến do Ủy ban thường vụ Quốc hội gửi đến. Đại diện
Hội đồng bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời dự Hội nghị này.[23]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả của Hội nghị và được gửi ngay
đến Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử.
Điều 31.
Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức chậm nhất là tám mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;
thành phần gồm Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, đại diện Ban lãnh đạo
các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và đại diện Ban thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.[24]
Hội nghị hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành
phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được bầu làm đại
biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến do Ủy ban thường vụ Quốc hội gửi đến. Đại diện
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[25], Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân được mời dự Hội nghị này.[26]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả của Hội nghị và được gửi ngay
đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[27].
Điều 32[28].
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ nhất quy
định tại các điều 30 và 31 của Luật này, chậm nhất là tám
mươi ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ nhất
cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương và
địa phương được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Điều 33[29].
Trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, căn cứ vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đơn
vị ở Trung ương và địa phương được phân bổ số lượng đại biểu tiến hành giới thiệu
người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Điều 34.
Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương được tiến hành như sau:
1. Ban lãnh đạo tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc
hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.
Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường
vụ mở rộng hoặc Đoàn Chủ tịch mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức
mình ứng cử đại biểu Quốc hội;
2. Ở cơ quan nhà nước thì Ban lãnh đạo cơ quan
phối hợp với Ban chấp hành công đoàn cơ quan dự kiến người của cơ quan mình ứng
cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người
đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo cơ quan tổ chức
hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, Ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các
đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu
Quốc hội;
3. Ở đơn vị vũ trang nhân dân thì lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy
ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của
Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị, đại diện Ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ
huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại
biểu Quốc hội.
Hội nghị cử tri nói tại Điều này được tiến hành
theo quy định tại Điều 39 của Luật này.
Điều 35.
Việc giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được tiến hành như sau:
1. Ban lãnh đạo tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc
hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.
Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban thường
vụ mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc
hội;
2. Ở cơ quan nhà nước thì Ban lãnh đạo cơ quan
phối hợp với Ban chấp hành công đoàn cơ quan dự kiến người của cơ quan mình ứng
cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người
đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo cơ quan tổ chức
hội nghị gồm lãnh đạo cơ quan, Ban chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các
đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu
Quốc hội;
3. Ở đơn vị lực lượng vũ trang thì lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy
ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác. Trên cơ sở ý kiến của
Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị, đại diện Ban chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ
huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại
biểu Quốc hội.
Hội nghị cử tri nói tại Điều này được tiến hành
theo quy định tại Điều 39 của Luật này.
Điều 36.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu
người ứng cử đại biểu Quốc hội phải chuyển biên bản Hội nghị cử tri nơi công
tác và biên bản hội nghị Ban lãnh đạo của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhận
xét về người được giới thiệu đến Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ghi
tên người được giới thiệu vào danh sách hiệp thương.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu
người ứng cử đại biểu Quốc hội phải chuyển biên bản Hội nghị cử tri nơi công
tác và biên bản hội nghị Ban lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhận xét về
người được giới thiệu đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương ghi tên người được giới thiệu vào danh sách hiệp
thương.
Điều 37.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở Trung ương do
Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là
sáu mươi ngày trước ngày bầu cử; thành phần Hội nghị như quy định tại Điều 30 của Luật này.[30]
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào tiêu chuẩn đại
biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh
lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi
lấy ý kiến cử tri nơi cư trú.[31]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả của Hội nghị và được gửi ngay
đến Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử.
Điều 38.
Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu
cử, thành phần Hội nghị như quy định tại Điều 31 của Luật này.[32]
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào tiêu chuẩn đại
biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh
lần thứ nhất để lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi
lấy ý kiến cử tri nơi cư trú; đối với người tự ứng cử thì còn được gửi lấy ý kiến
cử tri nơi người đó làm việc (nếu có).[33]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả của Hội nghị và được gửi ngay
đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử và Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[34].
Điều 39.
1. Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ
chức theo đơn vị thôn, xóm, tổ dân phố, buôn, bản, ấp nơi cư trú thường xuyên của
người ứng cử do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối
hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại diện cơ
quan, tổ chức, đơn vị có người ứng cử được mời tham dự Hội nghị này.
2. Hội nghị cử tri ở tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do Ban lãnh đạo tổ chức triệu tập và chủ
trì; Hội nghị cử tri ở cơ quan nhà nước do Ban lãnh đạo phối hợp với Ban chấp
hành công đoàn cơ quan triệu tập và chủ trì;
Hội nghị cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân là Hội
nghị quân nhân do lãnh đạo, chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì.
Người ứng cử đại biểu Quốc hội được mời tham dự
Hội nghị này.
3. Tại các hội nghị quy định tại các khoản 1 và
2 Điều này, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội nhận xét, bày tỏ
sự tín nhiệm đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội bằng cách giơ tay hoặc bỏ
phiếu kín theo quyết định của hội nghị.
Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến về những người
do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu được gửi đến Ban thường trực
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến
về những người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu và những người
tự ứng cử được gửi đến Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
4. Việc tổ chức Hội nghị cử tri quy định Điều này
do Ủy ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam[35] hướng dẫn.
Điều 40.
Trách nhiệm xác minh và trả lời các vụ việc mà cử
tri nêu lên đối với người ứng cử được quy định như sau:
1. Đối với vụ việc ở nơi công tác thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị trực tiếp quản lý người ứng cử có trách nhiệm xác minh và trả lời
bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trường hợp người ứng cử là người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị thì cơ quan cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xác minh và
trả lời. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị không có cơ quan cấp trên trực tiếp quản
lý thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập cơ quan, tổ chức, đơn vị đó
có trách nhiệm xác minh và trả lời.
2. Đối với vụ việc ở khu dân cư thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử phối hợp với Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ban thường trực Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương.
3. Đối với người tự ứng cử thì Ủy ban bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[36]
phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý người đó hoặc Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú xác minh và trả lời bằng văn
bản cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
4. Chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử,
việc xác minh và trả lời về các vụ việc mà cử tri nêu lên đối với người ứng cử
quy định tại Điều này phải được tiến hành xong.
Điều 41[37].
Căn cứ vào kết quả hiệp thương lần thứ hai quy định
tại các điều 37 và 38 của Luật này, chậm nhất là năm mươi
ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai cơ cấu,
thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương và địa
phương được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Điều 42.
Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở Trung ương do
Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là
ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử; thành phần Hội nghị như quy định tại Điều 30 của Luật này.
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào tiêu chuẩn đại
biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh
lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách chính thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội.[38]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến và kết quả của Hội nghị.
Điều 43.
Hội nghị Hiệp thương lần thứ ba ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương do Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử;
thành phần Hội nghị như quy định tại Điều 31 của Luật này.
Hội nghị hiệp thương căn cứ vào tiêu chuẩn đại
biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu của cơ quan, tổ
chức, đơn vị ở địa phương đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ
hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách chính thức những
người ứng cử đại biểu Quốc hội.[39]
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành
phần, số lượng người tham dự, diễn biến và kết quả của Hội nghị.
Mục 3. DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ỨNG
CỬ
Điều 44.
Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Ban
thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi đến Hội đồng bầu cử
biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và danh sách chính thức những người được
Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội.
Điều 45.
Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Ban
thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi đến
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[40] biên bản Hội nghị hiệp thương lần thứ ba và
danh sách chính thức những người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội.
Điều 46[41].
Căn cứ vào danh sách chính thức những người ứng
cử đại biểu Quốc hội được Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giới thiệu, Hội đồng bầu cử gửi đến các Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hữu quan danh sách những người được giới
thiệu về ứng cử tại địa phương.
Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những
người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước theo danh
sách chính thức do Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh gửi đến
chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử.
Trong danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc
hội phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quê quán, nơi thường
trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi
làm việc của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử được xếp theo vần chữ
cái A, B, C...
Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội
ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị
bầu cử được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn
số đại biểu được bầu ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử
vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định.
Người ứng cử chỉ được ghi tên vào danh sách ứng
cử ở một đơn vị bầu cử.
Điều 47.
Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử,
Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định
của Hội đồng bầu cử.
Điều 48.
Người ứng cử không được làm thành viên Ban bầu cử
hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị mình ứng cử. Nếu đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ
bầu cử ở đơn vị mình ứng cử thì người ứng cử phải được rút khỏi danh sách thành
viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó kể từ ngày được ghi tên vào danh sách
chính thức những người ứng cử.
Điều 49.
1. Kể từ ngày công bố danh sách những người ứng
cử, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, khiếu nại, kiến nghị về
những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử với Ban bầu cử, Ủy
ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[42], Hội đồng bầu cử. Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[43],
Hội đồng bầu cử phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo
thẩm quyền.
Trong trường hợp người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[44]
thì có quyền khiếu nại với Hội đồng bầu cử. Quyết định của Hội đồng bầu cử là
quyết định cuối cùng.
2. Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Hội
đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh[45], Ban bầu cử ngưng việc xem xét, giải
quyết mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và việc lập danh sách những
người ứng cử.
3.[46] Không xem
xét, giải quyết đối với những đơn tố cáo nặc danh.
4.[47] Hội đồng bầu
cử chuyển toàn bộ hồ sơ về khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết đến Ủy ban
thường vụ Quốc hội khóa mới để giải quyết theo thẩm quyền.
Mục 4. TUYÊN TRUYỀN, VẬN ĐỘNG
BẦU CỬ
Điều 50.
Hội đồng bầu cử chỉ đạo công tác thông tin,
tuyên truyền và vận động bầu cử trong phạm vi cả nước; Ủy ban bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[48]
chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử tại địa
phương.
Điều 51.
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan thông tin
báo chí trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền
về cuộc bầu cử.
Điều 52.
Người có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc
hội có quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và các
phương tiện thông tin đại chúng để báo cáo với cử tri dự kiến thực hiện trách
nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức để những người
ứng cử gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và vận động bầu cử.
Điều 53.
Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ,
bình đẳng, đúng pháp luật và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Chương VI
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Mục 1. NGÀY BẦU CỬ
Điều 54.
Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến
hành cùng một ngày trong cả nước.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Ủy ban thường
vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu
cử.[49]
Điều 55[50].
Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc
bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để
đề nghị Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
Điều 56.
Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu
cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời
gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin
khác của địa phương.
Mục 2. THỂ THỨC BỎ PHIẾU
Điều 57.
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ
tối. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn
nhưng không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá
mười giờ đêm.
Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm
phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
Điều 58[51].
Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc
hội.
Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người
khác bầu thay, trừ trường hợp quy định tại Điều 59 của Luật này;
khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri.
Điều 59.
Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người
khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật
phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người
khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật
không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu
đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.
Điều 60[52].
Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được xem, kể
cả thành viên Tổ bầu cử. Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi phiếu bầu khác.
Khi cử tri bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử có trách nhiệm
đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri.
Điều 61.
Mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ
phiếu; không được vận động bầu cử tại phòng bỏ phiếu.
Điều 62.
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại
phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu
xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 63.
Trong ngày bầu cử, việc bỏ phiếu phải được tiến hành
liên tục. Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu, thì
Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến
cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện
pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Chương VII
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1. VIỆC KIỂM PHIẾU
Điều 64.
Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ
phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê,
lập biên bản, niêm phong số phiếu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri
không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị
giới thiệu người ứng cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm
phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến
việc kiểm phiếu.
Điều 65.
Những phiếu sau đây là phiếu không hợp lệ:
1. Phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử
phát;
2. Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử;
3. Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà
đơn vị bầu cử được bầu;
4. Phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử;
5. Phiếu có ghi tên người ngoài danh sách ứng cử,
phiếu có viết thêm.
Điều 66.
Trong trường hợp có phiếu nghi là không hợp lệ
thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ giải quyết.
Tổ bầu cử không được gạch xóa hoặc sửa các tên
ghi trên phiếu bầu.
Điều 67.
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ
bầu cử nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản.
Trong trường hợp Tổ bầu cử không giải quyết được
thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ vào biên bản giải quyết khiếu nại và chuyển đến
Ban bầu cử.
Điều 68[53].
1. Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập
biên bản kết quả kiểm phiếu. Biên bản phải ghi rõ:
a) Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu;
b) Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
c) Số phiếu phát ra;
d) Số phiếu thu vào;
đ) Số phiếu hợp lệ;
e) Số phiếu không hợp lệ;
g) Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
h) Những khiếu nại nhận được, những khiếu nại đã
giải quyết và kết quả giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Ban bầu cử giải
quyết.
2. Biên bản được lập thành ba bản, có chữ ký của
Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu. Biên bản
được gửi đến Ban bầu cử và Ủy ban nhân dân, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn chậm nhất là ba ngày sau ngày bầu cử.
Mục 2. KẾT QUẢ BẦU CỬ Ở ĐƠN
VỊ BẦU CỬ
Điều 69.
Sau khi nhận được biên bản kết quả kiểm phiếu của
các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết
quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Quốc hội được ấn định cho đơn vị bầu
cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử;
- Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
- Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng
số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do các Tổ bầu cử đã giải quyết,
những khiếu nại do Ban bầu
cử giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Ủy ban
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[54], Hội đồng bầu cử.
Biên bản được lập thành năm bản, có chữ ký của
Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và Thư ký. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử,
Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[55], Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chậm nhất là
năm ngày sau ngày bầu cử.
Điều 70.
Trong số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu, người
ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn là người trúng cử.
Trong trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau thì người nhiều tuổi hơn
là người trúng cử.
Mục 3. VIỆC BẦU CỬ THÊM, BẦU
CỬ LẠI
Điều 71.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử
chưa đủ số đại biểu được bầu do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định cho đơn vị bầu
cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[56]
để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc bầu cử thêm ở đơn vị bầu cử
đó.
Trong trường hợp bầu cử thêm thì ngày bầu cử được
tiến hành chậm nhất là hai mươi ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử
thêm cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu nhưng
không trúng cử. Người trúng cử là người được quá nửa số phiếu hợp lệ và được
nhiều phiếu hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu theo quy định thì
không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.
Điều 72.
Ở mỗi đơn vị bầu cử, nếu số cử tri đi bỏ phiếu
chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách cử tri thì Ban bầu cử ghi rõ
vào biên bản và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh[57] để đề nghị Hội đồng bầu
cử xem xét, quyết định việc bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó.
Trong trường hợp bầu cử lại thì ngày bầu cử được
tiến hành chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử
lại cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu. Nếu bầu
cử lại mà số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách
thì không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Điều 73.
Hội đồng bầu cử tự mình hoặc theo đề nghị của
Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[58]
hủy bỏ kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết
định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn
bầu danh sách những người đã ứng cử lần đầu.
Điều 74.
Việc bầu cử thêm hoặc bầu cử lại vẫn căn cứ vào
danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và được tiến hành theo các
quy định của Luật này.
Mục 4. VIỆC TỔNG KẾT CUỘC BẦU
CỬ
Điều 75.
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết
quả bầu cử của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại (nếu có), Ủy ban bầu
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[59] lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số lượng đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri của địa phương;
- Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
- Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng
số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do Tổ bầu cử, Ban bầu cử đã giải
quyết;
- Những khiếu nại do Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh[60]
đã giải quyết;
- Những việc quan trọng đã xảy ra và cách giải
quyết;
- Những khiếu nại, tố cáo và kiến nghị chuyển
lên Hội đồng bầu cử.
Biên bản được lập thành năm bản, có chữ ký của
Chủ tịch, Thư ký Ủy ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử, Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chậm nhất
là bảy ngày sau ngày bầu cử.
Điều 76.
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết
quả bầu cử của các Ban bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh[61] và giải quyết các khiếu
nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả
nước.
Biên bản phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
- Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng
số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại, tố cáo do Hội đồng bầu cử giải
quyết;
- Những việc quan trọng đã xảy ra và cách giải
quyết.
Biên bản được lập thành năm bản, có chữ ký của
Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng bầu cử. Biên bản được gửi đến Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; một bản trình
Quốc hội khóa mới và một bản lưu trữ.
Điều 77.
Hội đồng bầu cử căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc
bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại
biểu Quốc hội.
Mục 5. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Điều 78.
1. Mọi khiếu nại về kết quả bầu cử phải được gửi
đến Hội đồng bầu cử chậm nhất là mười ngày kể từ ngày Hội đồng bầu cử công bố kết
quả bầu cử.
2. Hội đồng bầu cử có trách nhiệm xem xét, giải
quyết khiếu nại về kết quả bầu cử trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận
được khiếu nại.
Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng bầu
cử là quyết định cuối cùng.
Chương VIII
VIỆC BẦU CỬ BỔ SUNG ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI
Điều 79.
Trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử nào khuyết đại
biểu Quốc hội thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể quyết định việc bầu cử bổ
sung đại biểu Quốc hội tại đơn vị đó; nếu thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội
dưới hai năm thì không tổ chức bầu cử bổ sung.
Điều 80.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập Ủy ban bầu cử
bổ sung từ năm đến bảy người, gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy
viên là đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định ngày bầu cử
bổ sung và công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 81.
Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn lập phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử bổ
sung.
Điều 82[62].
Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử bổ
sung, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi thống nhất
với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
cùng cấp quyết định thành lập ở đơn vị bầu cử Ban bầu cử bổ sung từ ba đến năm
người gồm Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký và các ủy viên là đại diện chính
quyền địa phương và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở địa phương.
Điều 83[63].
Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử bổ
sung, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một
Tổ bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các ủy
viên là đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
tập thể cử tri ở địa phương.
Điều 84.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban bầu cử bổ sung,
Ban bầu cử bổ sung, Tổ bầu cử bổ sung được áp dụng theo quy định tương ứng về Hội
đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh[64], Ban bầu cử, Tổ bầu cử; thể thức bỏ phiếu,
trình tự bầu cử và xác định kết quả bầu cử bổ sung được áp dụng theo các quy định
tương ứng của Luật này.
Căn cứ vào những nguyên tắc của Luật này, Ủy ban
thường vụ Quốc hội phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam[65] quy định về việc hiệp thương, giới thiệu người
ứng cử đại biểu Quốc hội để bầu cử bổ sung.
Điều 85.
Danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị
khuyết đại biểu được công bố chậm nhất là mười ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
Điều 86.
Những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử bổ
sung và việc giải quyết được áp dụng theo các quy định tương ứng của Luật này.
Chương IX
XỬ LÝ VI PHẠM VỀ BẦU CỬ
Điều 87.
Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc
cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội của công dân; người
có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc
dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử thì tùy theo mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 88.
Người nào cản trở hoặc trả thù người khiếu nại,
tố cáo về bầu cử thì tùy theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương X
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH[66]
Điều 89.
Luật này có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Luật này thay thế Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
đã được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992.
Điều 90.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành Luật này./.
|
XÁC THỰC VĂN
BẢN HỢP NHẤT
Hà Nội, ngày
12 tháng 9 năm 2012
CHỦ NHIỆM
Nguyễn Hạnh Phúc
|
[1]
Luật số 31/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội có căn cứ ban hành như sau:
“Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1997.”
Luật số 63/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm
2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân có căn cứ ban hành như sau:
“Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số
51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội số 31/2001/QH10 và Luật Bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân số 12/2003/QH11.”
[2]
Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[3]
Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[4]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[5]
Điều này được bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 1 của Luật số 31/2001/QH10
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có hiệu lực kể
từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[6]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[7]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[8]
Điều này được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất theo quy định tại khoản 5 Điều 1 của
Luật số 31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội, có hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002 và được sửa đổi, bổ sung lần
thứ hai theo quy định tại khoản 3 Điều 1 của Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
[9]
Điều này được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất theo quy định tại khoản 6 Điều 1 của
Luật số 31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội, có hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002 và được sửa đổi, bổ sung lần
thứ hai theo quy định tại khoản 4 Điều 1 của Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011.
[10]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[11]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[12]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[13]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[14]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 7 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[15]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 7 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[16]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[17]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 9 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[18]
Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 8 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[19]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[20]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[21]
Khoản này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 9 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[22]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 10 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[23]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 10 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[24]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[25]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[26]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 của Luật số31/2001/QH10
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có hiệu lực kể
từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[27]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[28]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 12 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[29]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[30]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 14 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[31]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 14 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[32]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 15 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[33]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 15 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[34]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[35]
Cụm từ “Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” được thay thế
bởi cụm từ “Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” theo quy định tại khoản
1 Điều 3 của Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2011.
[36]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[37]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 16 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[38]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 17 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[39]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 18 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[40]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[41]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 10 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[42]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[43]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[44]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[45]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[46]
Khoản này được bổ sung theo quy định tại khoản 19 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[47]
Khoản này được bổ sung theo quy định tại khoản 19 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[48]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[49]
Đoạn này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 20 Điều 1 của Luật số
31/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có
hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01 năm 2002.
[50]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 11 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[51]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 12 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[52]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 13 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[53]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 14 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[54]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[55]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[56]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[57]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[58]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[59]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[60]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[61]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[62]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 15 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[63]
Điều này được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 16 Điều 1 của Luật số
63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
[64]
Cụm từ “Ủy ban bầu cử” được thay thế bởi cụm từ “Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011.
[65]
Cụm từ “Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” được thay thế
bởi cụm từ “Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” theo quy định tại khoản
1 Điều 3 của Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2011.
[66]
Điều 2 của Luật số 31/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 01
năm 2002 quy định như sau:
“Điều 2
1. Luật này có hiệu lực từ ngày công bố.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi hành Luật này.”
Điều 4 của Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 quy định như sau:
“Điều 4
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2011.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
các điều, khoản được giao trong Luật; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của
Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.”