UBND TỈNH BẾN TRE
SỞ CÔNG THƯƠNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1229/CTr-SCT
|
Bến Tre, ngày 24
tháng 09 năm 2013
|
CHƯƠNG TRÌNH
HỖ TRỢ NÂNG CAO NĂNG LỰC SẢN XUẤT KINH DOANH CÁC LÀNG NGHỀ
TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN (2013-2020)
I. THỰC TRẠNG
CÁC LÀNG NGHỀ SẢN XUẤT TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP (TTCN) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE
GIAI ĐOẠN 2006-2012
1. Tình
hình sản xuất kinh doanh của các làng nghề:
Trong những năm qua do nhu cầu
phát triển, các sản phẩm sản xuất thuộc ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN)
trên địa bàn tỉnh Bến Tre cũng rất đa dạng và phong phú, đời sống người dân
trong làng nghề không ngừng được nâng lên; đã huy động được nguồn vốn khoảng 55
tỷ đồng để đầu tư vào sản xuất, giải quyết việc làm cho khoảng 10.000 lao động.
Giai đoạn (2006 - 2012) ngành
Công Thương đã phối hợp với các ngành có liên quan và địa phương tiến hành thẩm
định và trình Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định công nhận 18 làng nghề đạt tiêu
chuẩn theo Quyết định số 673/QĐ-UB ngày 08 tháng 3 năm 2006 của UBND tỉnh và
Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn như: Làng nghề dệt chiếu An Hiệp, dệt chiếu Nhơn Thạnh, dệt chiếu
Thành Thới B, làng nghề TTCN An Thạnh, Khánh Thạnh Tân, làng nghề bánh phồng
Sơn Đốc, bánh phồng Phú Ngãi, làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, làng nghề kìm kéo Mỹ
Thạnh, làng nghề cá khô Bình Thắng, cá khô An Thuỷ, làng nghề đan đát Phước
Tuy, làng nghề đan đát - rượu nếp Phú Lễ, làng nghề đúc lu Hoà Lợi, Làng nghề kẹo
dừa Phường 7, làng nghề đan giỏ cọng dừa Phước Long, Hưng Phong, làng nghề bó
chổi ấp An Hoà, Mỹ An. Với tổng số hộ 2.206 hộ, giải quyết việc làm cho khoảng
8.697 lao động, thu nhập bình quân từ 1,8 triệu đến 2 triệu đồng/người/ tháng.
Kết quả sản xuất kinh doanh của
các cơ sở sản xuất làng nghề: Giá trị sản xuất công nghiệp (CĐ 94) năm 2005 đạt
186.701 triệu đồng, năm 2010 đạt 331.665 triệu đồng, năm 2012 đạt 472.297 triệu
đồng, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 là 12,18%/năm, chiếm 9,94% giá
trị sản xuất toàn ngành công nghiệp.
Sự phát triển của các làng nghề
trong thời gian qua đã có đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
và dịch vụ, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao
động ở nông thôn. Các làng nghề đã đi vào sản xuất ổn định và đang trên đà phát
triển (từ năm 2006 đến nay) như: Làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh - Khánh
Thạnh Tân, làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng - bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề dệt chiếu
An Hiệp (có Công ty TNHH Thanh Bình với doanh thu năm 2011 là 73 tỷ, làm đầu
tàu để thúc đẩy các làng nghề khác phát triển), làng nghề đan giỏ cọng dừa Phước
Long, làng nghề sản xuất kìm kéo Mỹ Thạnh, làng nghề đan đát
- SX rượu Phú Lễ (có Công ty CP
rượu Phú Lễ Ba Tri ), làng nghề đan đát Phước Tuy.…
Ngoài ra, việc phát triển các
làng nghề đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, điển
hình là một số doanh nghiệp tư nhân (DNTN), Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, hợp
tác xã (HTX) như: Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu tỉnh Bến Tre, Công ty Cổ phần
thương mại Trúc Giang, Công ty TNHH Thanh Bình, Công ty TNHH Sáu Nhu, Công ty
TNHH Chí Công, HTX sản xuất TCMN Phú Lộc, HTX TTCN Bến Tre,… đã tự đầu tư vốn,
thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tổ chức nhiều vệ tinh, chủ động
tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và xuất khẩu.
2. Khoa học,
công nghệ:
Ở các làng nghề mức độ đầu tư
máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp, kỹ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công,
sử dụng kỹ năng khéo léo của đôi tay là chính. Nhưng bước đầu một số cơ sở đã
có sự nghiên cứu áp dụng kết hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện
đại, do đó một số sản phẩm của làng nghề đã được tinh xảo, hiện đại hơn, năng
suất lao động từng bước được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, đối với một số ngành
nghề thủ công truyền thống thì công đoạn sản xuất chính vẫn phải làm bằng tay,
không thể áp dụng máy móc cơ giới toàn bộ cho quy trình sản xuất, vì vậy sản phẩm
làng nghề vẫn giữ được nét độc đáo riêng có. Song do phần lớn máy móc thiết bị
phần lớn tự chế tạo nên năng suất và chất lượng sản phẩm chưa cao, còn rất nhiều
hạn chế trong quá trình sử dụng.
3. Môi trường
làng nghề:
Phần lớn các cơ sở sản xuất với
quy mô hộ gia đình, đặt tại nhà ở và nằm rải rác trong khu dân cư nên việc thu
gom và xử lý chất thải của làng nghề rất khó khăn và còn hạn chế. Đại đa số các
làng nghề chưa được đầu tư hệ thống xử lý tập trung để giảm thiểu các chất thải:
Rắn, lỏng, khí, do đó mức độ ô nhiễm môi trường trong các làng nghề thường cao
hơn mức cho phép. Công tác quản lý và kiểm tra việc thực hiện những giải pháp bảo
vệ môi trường của các cấp, các ngành ở địa phương chưa được quan tâm đúng mức.
Ý thức bảo vệ môi trường của người dân và các đơn vị sản xuất tại làng nghề
chưa cao. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất người lao động chưa thật sự quan
tâm đến việc tự bảo vệ mình cũng như chưa có trang bị bảo hộ lao động đầy đủ
nên cũng dễ xảy ra tai nạn lao động.
Với những lý do trên cho thấy
môi trường tại một số làng nghề ít nhiều đã bị ô nhiễm về nguồn nước, không
khí, tiếng ồn... ngoài ra, các chất thải rắn trong sản xuất và sinh hoạt cũng
chưa được quản lý, thu gom triệt để để xử lý, do đó đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa làm xấu cảnh quan làng nghề.
Trong những năm gần đây, thông
qua một số cơ chế, chính sách của trung ương và địa phương và được sự quan tâm
của các cấp, các ngành chức năng cũng đã có triển khai hỗ trợ một phần kinh phí
thực hiện một số giải pháp nhằm khắc phục phần nào ô nhiễm ở các làng nghề như:
Hệ thống xử lý nước thải quy mô hộ gia đình; áp dụng các giải pháp sản xuất sạch
hơn cho làng nghề như: Tiết kiệm nguyên vật liệu xăng dầu, tra dầu cho máy móc
để giảm tiếng ồn, đổi mới công nghệ thiết bị, lắp đặt lò gas theo chương trình
tiết kiệm năng lượng,... Tuy nhiên việc đầu tư hỗ trợ cho làng nghề khắc phục ô
nhiễm cũng còn nhiều mặt hạn chế, ít và chưa đồng bộ, chưa thường xuyên nên việc
khắc phục ô nhiễm chưa đảm bảo đúng theo quy định của Nhà nước.
4. Cơ sở hạ
tầng của làng nghề:
Hệ thống giao thông nội bộ của
một số làng nghề vẫn chưa được quan tâm đầu tư, do đó trong quá trình vận chuyển
nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và thành phẩm chưa thuận tiện nên không
hấp dẫn các nhà đầu tư.
Các làng nghề hầu hết đều có hệ
thống điện, nước, thông tin liên lạc để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Tuy
nhiên vẫn còn tình trạng cúp điện, cúp nước không báo trước đã ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở trong làng nghề. Ngoài ra, toàn bộ các
làng nghề đang hoạt động đều không có hệ thống xử lý nước thải tập trung chung
cho toàn làng nghề. Phần lớn nước thải sản xuất và sinh hoạt được thải ra sông,
kênh, mương gần làng nghề. Nếu tình trạng này kéo dài không được xử lý triệt để
sẽ gây ra ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường sống và sản xuất tại các cơ sở và
dân cư xung quanh khu vực làng nghề.
5. Công tác
quản lý nhà nước về làng nghề:
- Công tác thẩm định công nhận
làng nghề: Hiện nay, tỉnh giao cho Sở Công Thương làm đầu mối tổ chức thẩm định
trình UBND tỉnh quyết định công nhận làng nghề CN - TTCN. Thành phần của Hội đồng
thẩm định gồm các Sở: Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Khoa học và Công nghệ,
Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh Hợp
tác xã…. Tiêu chuẩn, tiêu chí áp dụng hiện tại thực hiện theo Thông tư số
116/2006/TT-BNN ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. Đến nay đã xét công nhận được 18 làng nghề. Các làng nghề hiện nay chưa
có quy định cụ thể về hình thức tổ chức đại diện cho tập thể các cơ sở của làng
nghề trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động,
phát triển củng như việc xem xét hỗ trợ kinh phí của Nhà nước cho làng nghề.
- Công tác hỗ trợ xúc tiến
thương mại, khuyến công, đầu tư hạ tầng,..: Qua nhiều năm hoạt động chương
trình khuyến công, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình xoá đói giảm
nghèo, ngành Công Thương và UBND các huyện, thành phố đã tập trung đầu tư gần 3
tỷ đồng hỗ trợ cho các làng nghề TTCN phát triển sản xuất, thông qua việc tổ chức
hơn 100 lớp truyền nghề, đào tạo nghề, tập huấn về kỹ năng quản lý, kiến thức về
hội nhập, kỹ thuật an toàn thiết bị điện, an toàn vệ sinh thực phẩm,… cho 4.750
người; bằng nguồn kinh phí chương trình khuyến công tỉnh, huyện đã đầu tư trên
300 triệu đồng để tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về phát triển
các ngành nghề TTCN, sản xuất than thiêu kết, sản xuất kẹo dừa, sản xuất chỉ xơ
dừa, tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm trong và ngoài tỉnh, tham gia hội chợ
triển lãm hàng năm ở trong và ngoài tỉnh… Hỗ trợ 2,18 tỷ đồng kinh phí khuyến
công cho các cơ sở, các doanh nghiệp triển khai thực hiện các dự án đầu tư, đổi
mới trang thiết bị, ứng dụng tiến bộ KHKT, đổi mới công nghệ sản xuất, đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá… đồng thời để cải tạo xây dựng cơ sở hạ tầng tỉnh đã đầu tư
4,664 tỷ đồng để gia cố nâng cấp, làm mới đường giao thông, xây dựng cống thoát
nước cho các làng nghề An Thạnh (Mỏ Cày Nam), Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày Bắc), An
hiệp (Châu Thành), Hưng Nhượng (Giồng Trôm).
6. Đánh giá
điểm mạnh, điểm yếu của các làng nghề:
6.1. Làng nghề sản xuất các sản
phẩm từ dừa: Chỉ xơ dừa (An Thạnh - Mỏ Cày Nam, Khánh Thạnh Tân - Mỏ Cày Bắc),
đan giỏ cọng dừa (Phước Long, Hưng Phong - Giồng Trôm), bó chổi cọng dừa
ấp An Hoà (Mỹ An - Thạnh Phú), sản xuất kẹo dừa, thạch dừa (Phường 7 - Thành phố
Bến Tre):
* Điểm mạnh:
- Sử dụng triệt để nguyên liệu
từ cây dừa, tận dụng nguyên liệu tại chỗ dồi dào, góp phần đa dạng hoá các sản
phẩm từ cây dừa;
- Giải quyết việc làm cho nhiều
lao động tại địa phương, góp phần cải thiện đáng kể thu nhập cho nông hộ. Trong
lao động sản xuất cũng có nhiều sáng tạo nhằm làm cho sản phẩm ngày càng có
tính thẩm mỹ cao và năng suất lao động cũng tăng lên.
* Điểm yếu:
- Làng nghề còn tổ chức sản xuất
nhỏ lẻ theo quy mô hộ gia đình, khả năng xúc tiến thương mại của làng nghề còn
yếu, chưa có chiến lược phát triển sản phẩm một cách bền vững và cũng chưa xây
dựng được thương hiệu riêng cho sản phẩm đặc trưng của làng nghề;
- Giá nguyên liệu không ổn định.
Thiếu vốn mua trữ nguyên liệu để đảm bảo cho người lao động có việc làm thường
xuyên và liên tục;
- Ô nhiễm môi trường không khí
do bụi trong quá trình sản xuất chỉ xơ dừa, mụn dừa, thảm dừa chưa được giải
quyết triệt để;
- Hệ thống dây chuyền máy móc
thiết bị sản xuất còn lạc hậu, chậm đổi mới. Cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ (đường
giao thông) gây khó khăn trong vận chuyển nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm;
- Riêng đối với làng nghề sản
xuất kẹo dừa, thạch dừa thì thực hiện theo Đề án xử lý, di dời các cơ sở ô nhiễm
môi trường ra khỏi nội ô thành phố nên hiện tại phần lớn cơ sở sản xuất đã di dời
khỏi địa bàn làng nghề, không còn đáp ứng tiêu chí làng nghề theo quy định.
6.2. Làng nghề dệt chiếu (Thành
Thới B - Mỏ Cày Nam, Nhơn Thạnh - Thành phố Bến Tre, An Hiệp - Châu Thành), đan
đát (Phước Tuy, Phú Lễ - Ba Tri):
* Điểm mạnh:
- Đây là nghề truyền thống ra đời
từ thời xa xưa, những sản phẩm thân thiện với môi trường nên rất thuận lợi cho
việc sản xuất kinh doanh. Gắn kết hiệu quả với các tuyến du lịch sinh thái miệt
vườn;
- Tận dụng số lượng lớn lao động
ngoài độ tuổi và lao động nữ, cải thiện rõ nét thu nhập cho nông hộ; Làng nghề
An Hiệp đã phát triển thêm nhiều sản phẩm mới có giá trị xuất khẩu phù hợp với
nhu cầu phát triển.
* Điểm yếu:
- Phần lớn các công đoạn sản xuất
sử dụng phương tiện thủ công. Sản phẩm chiếu hiện tại là mẫu chiếu truyền thống
do đó sức cạnh tranh thị trường không cao, không ký hợp đồng trực tiếp được mà
phải qua khâu trung gian nên bị ép giá, hàng bị tồn đọng. Chưa xây dựng được
thương hiệu chiếu;
- Nguyên liệu tại chỗ (lát,
tre, trúc) không đáp ứng đủ cho sản xuất, phải đi mua ngoài tỉnh (Trà Vinh, Cà
Mau), cự ly vận chuyển xa, đồng thời giá nguyên liệu ngày càng tăng, ảnh hưởng
đến lợi nhuận của người sản xuất;
- Kết cấu hạ tầng làng nghề
chưa đáp ứng tốt, đặc biệt là điện và giao thông nông thôn;
- Do nhu cầu phát triển nên phần
lớn lao động trẻ ít quan tâm đến nghề vì đòi hỏi công phu, cần mẫn và khéo léo,
do đó lao động của làng nghề có nguy cơ giảm.
- Làng nghề Nhơn Thạnh, Thành
Thới B, đan đát Phú Lễ, Phú Tuy thiếu năng động trong nghiên cứu đầu tư sản xuất
sản phẩm mới, nên sản xuất gặp nhiều khó khăn, hiệu quả không cao. Làng nghề Nhơn
Thạnh phần lớn đã bỏ nghề, số hộ còn lại không đáp ứng tiêu chí của một làng
nghề.
6.3. Làng nghề sản xuất rượu
(Phú Lễ - Ba Tri):
* Điểm mạnh:
- Nghề nấu rượu thủ công truyền
thống với thương hiệu nổi tiếng “Rượu Phú Lễ” Ba Tri;
- Sử dụng hiệu quả lao động nữ
và lao động ngoài độ tuổi ở nông thôn;
- Sử dụng loại hồ men truyền thống
chưng cất ra loại rượu có hương vị đặc trưng, thơm ngon.
* Điểm yếu:
- Việc sản xuất còn nhỏ lẻ ở từng
hộ gia đình nên vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được đảm bảo, có một số
cơ sở chạy theo lợi nhuận, sử dụng men ủ không rõ nguồn gốc tạo ra sản phẩm rượu
tuy có năng suất cao, nhưng chất lượng rượu không đảm bảo;
- Vốn phục vụ cho phát triển
làng nghề còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu.
6.4. Làng nghề chế biến cá khô
(Tiệm Tôm - Ba Tri, Bình Thắng - Bình Đại):
* Điểm mạnh:
- Có nguồn nguyên liệu tại chỗ
đảm bảo được nhu cầu sản xuất, tiết kiệm chi phí vận chuyển;
- Sản xuất ổn định, nổi tiếng với
sản phẩm thuỷ sản khô đã có từ lâu đời, sản xuất theo phương pháp truyền thống
nên chất lượng nguyên chất đậm đà, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong
và ngoài nước;
- Có nguồn lao động dồi dào,
giàu kinh nghiệm;
- Giải quyết việc làm, tạo thu
nhập ổn định, góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình;
- Mô hình tổ chức sản xuất: Hội
thuỷ sản, hợp tác xã đang được các cấp chính quyền quan tâm nhân rộng trong thời
gian tới.
* Điểm yếu:
- Đầu ra của sản phẩm và giá cả
không ổn định;
- Điều kiện vệ sinh môi trường
chưa đảm bảo, do chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải sản xuất và hệ thống
cống thoát nước mưa của làng nghề nên vào mùa mưa tình trạng ô nhiễm môi trường
thường vượt mức cho phép;
- Sản phẩm của làng nghề tuy được
ưa chuộng trong và ngoài tỉnh nhưng sản phẩm chưa có bao bì nhãn hiệu, thương hiệu
trên thị trường;
- Diện tích sản xuất còn hạn chế
chưa được mở rộng để tăng sản lượng.
6.5. Làng nghề sản xuất kìm kéo
(Mỹ Thạnh - Giồng Trôm):
* Điểm mạnh:
- Nghề truyền thống lâu đời,
gia công các sản phẩm mang tính thẩm mỹ;
- Tận dụng số lượng lớn lao động
ngoài độ tuổi và lao động nữ, cải thiện rõ nét thu nhập cho nông hộ;
- Thị trường xuất khẩu luôn ổn
định và có xu hướng ngày càng tăng. Giá trị xuất khẩu khá (thị trường Mỹ, Hàn
Quốc, Úc,…);
- Tận dụng thép phế liệu, góp
phần tăng giá trị sản phẩm thép phế liệu.
* Điểm yếu:
- Môi trường lao động chưa thật
tốt (nóng nực và tiếng ồn do rèn phôi, mài phôi) dễ có nguy cơ bệnh nghề nghiệp;
- Ô nhiễm môi trường do phôi sắt
thải ra trong quá trình mài và hoá chất do xi mạ sản phẩm;
- Chủ yếu là gia công nên không
chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh tế chưa cao.
6.6. Làng nghề bánh phồng, bánh
tráng (Sơn Đốc, Mỹ Lồng - Giồng Trôm, Phú Ngãi - Ba Tri):
* Điểm mạnh:
- Nghề truyền thống sản xuất ra
sản phẩm phục vụ nhu cầu ẩm thực đặc trưng của người dân Bến Tre với thương hiệu
“Bánh tráng Mỹ Lồng”, “Bánh phồng Sơn Đốc”. Sản phẩm mang tính đặc trưng của địa
phương, tạo sự khác biệt so với các sản phẩm cùng loại;
- Giải quyết được việc làm cơ bản
cho người dân trong làng nghề và tạo thu nhập ổn định, góp phần phát triển kinh
tế hộ gia đình;
- Sử dụng máy móc dần thay thế
phần lớn các công đoạn nặng nhọc của phương pháp sản xuất thủ công truyền thống,
góp phần tăng năng suất.
* Điểm yếu:
- Sản xuất theo hộ gia đình nên
sân và giàng phơi bánh chưa được đầu tư đúng mức, chưa đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm;
- Thiếu lao động sản xuất khi
vào mùa sản xuất rộ (Tết âm lịch truyền thống).
- Ô nhiễm môi trường nước do phần
lớn các hộ chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải sản xuất.
6.7. Làng nghề sản xuất lu chứa
nước (Hoà Lợi - Thạnh Phú):
* Điểm mạnh:
- Sản phẩm của làng nghề trong
những năm qua sản xuất tương đối ổn định, người dân tham gia luôn tích cực cải
tiến kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu thị trường;
- Giải quyết được việc làm cơ bản
cho người dân trong làng nghề và tạo thu nhập ổn định, góp phần giảm nghèo và
phát triển kinh tế hộ gia đình.
* Điểm yếu:
- Chưa có thương hiệu trên thị
trường, sản xuất thủ công là chủ yếu nên sản phẩm còn đơn điệu, một số hộ trong
làng nghề đã chuyển sang sản xuất bàn ghế xi măng;
- Hệ thống giao thông nông thôn
chưa được đầu tư, một số đoạn đường trong làng nghề vẫn còn lầy lội vào mùa
mưa, gây khó khăn trong vận chuyển nguyên liệu phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
II. PHƯƠNG
HƯỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TTCN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2013-2020
1. Quan
điểm phát triển:
- Phát triển làng nghề trên cơ
sở phát triển các làng nghề hiện có, phát huy nghề truyền thống, kết hợp với du
lịch để mở rộng thị trường, khai thác tối đa nguồn nguyên liệu tại chỗ, nguồn
nhân lực và các lợi thế của mỗi địa phương, trong đó chú trọng địa bàn nông
thôn;
- Tập trung hỗ trợ nâng cao
năng lực phát triển các làng nghề trọng điểm thuộc thế mạnh của tỉnh; phát triển
hạ tầng phục vụ cho làng nghề đi đôi với việc bảo vệ môi trường, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm;
- Đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao cho làng nghề, thành lập các hợp tác xã có quy mô gọn, nhẹ, năng động
trong các làng nghề để làm đầu mối tổ chức quản lý làng nghề;
- Tăng thu nhập, giải quyết nhu
cầu tiêu dùng tại chỗ, tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là ở các vùng
nông thôn; góp phần phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ, góp phần xây dựng nông thôn mới;
- Đổi mới công nghệ, cơ khí
hoá, hợp lý hoá dây chuyền sản xuất để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Hỗ trợ cải tiến mẫu mã bao bì, tăng cường công tác tiếp thị, quảng bá sản
phẩm.
2. Mục
tiêu phát triển:
2.1. Mục tiêu chung:
Khôi phục, phát triển các làng
nghề, ngành nghề thủ công, thủ công mỹ nghệ truyền thống. Chú trọng phát triển
các sản phẩm thủ công tiêu biểu thế mạnh của Bến Tre, có lợi thế cạnh tranh,
ngành nghề ưu tiên của tỉnh, gắn sản xuất làng nghề với các hoạt động du lịch,
văn hoá, lễ hội truyền thống, bảo đảm làng nghề phát triển một cách bền vững, sử
dụng nhiều lao động tại chỗ, nguồn nguyên vật liệu trong nước và không gây ô
nhiễm môi trường.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
Phấn đấu đưa giá trị sản xuất
công nghiệp của làng nghề tăng bình quân
15%/năm, phát triển thêm khoảng
2-3 làng nghề mới, tạo việc làm ổn định cho khoảng 10.000 đến 12.000 lao động
nhàn rỗi ở nông thôn, tăng thu nhập cho lao động ở nông thôn từ 2-3 triệu đồng/người/tháng
lên 3-4 triệu đồng/người/tháng; mỗi huyện có khoảng 2-3 loại sản phẩm làng nghề
tiêu biểu để xây dựng nhãn hiệu và có ít nhất 50% số làng nghề được xây dựng mô
hình kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả; hỗ trợ và hướng dẫn các cơ sở sản
xuất trong làng nghề thực hiện bảo vệ môi trường theo quy định hiện hành.
3. Định
hướng phát triển các làng nghề:
3.1. Đối với những ngành nghề
truyền thống đã hình thành lâu đời như: Dệt chiếu, đan đát, sản xuất bánh
tráng, sản xuất bánh phồng, chế biến kẹo, chế biến thuỷ sản,… tiếp tục duy trì
và phát triển. Do đó, trong thời gian tới cần tập trung phát triển các làng nghề
trên cơ sở đã có như: Làng nghề dệt chiếu An Hiệp, làng nghề TTCN Phú Lễ, làng
nghề sản xuất bánh phồng Phú Ngãi, làng nghề đan đát Phước Tuy, làng nghề bánh
tráng Mỹ Lồng, làng nghề bánh phồng Sơn Đốc, làng nghề sản xuất kìm kéo Mỹ Thạnh,
làng nghề chế biến cá khô Bình Thắng, An Thuỷ, làng nghề đúc lu Hoà Lợi. Đối với
các làng nghề này cần tập trung hỗ trợ vốn để duy trì, phát triển nguồn nguyên
liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ làng nghề, đầu tư máy móc thiết bị để nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập cho lao động nông thôn. Cụ thể:
- Làng nghề dệt chiếu - thảm
(An Hiệp - Châu Thành; Nhơn Thạnh - thành phố Bến Tre, Thành Thới B - Mỏ Cày
Nam):
Tập trung phát triển vùng nguyên
liệu tại chỗ, đầu tư máy dệt chiếu thay cho dệt thủ công đồng thời ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như hệ thống xử lý nguyên liệu, chống ẩm mốc,
biến màu ổn định độ bền, độ sáng; mở các lớp đào tạo nghề để phát triển thêm mẫu
mã, kiểu dáng mới, tạo các sản phẩm đặc trưng của làng nghề; mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm; cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, xử lý ô nhiễm môi trường đồng
thời nghiên cứu hỗ trợ phát triển nghề mới. Tăng cường hỗ trợ nâng cao năng lực
hoạt động của Công ty TNHH Thanh Bình để hỗ trợ các cơ sở sản xuất làng nghề An
Hiệp hoạt động có hiệu quả. Làm thủ tục giải thể HTX TTCN Thành Thới B, có kế
hoạch vận động thành lập lại THT để làm đầu mối hỗ trợ làng nghề hoạt động.
Làng nghề dệt chiếu Nhơn Thạnh đến nay chỉ còn 10 hộ không đáp ứng theo tiêu
chí quy định, tiến hành làm thủ tục trình Uỷ ban nhân dân tỉnh thu hồi quyết định
công nhận làng nghề.
- Làng nghề sản xuất mây tre
đan (Phước Tuy, Phú Lễ - Ba Tri):
Đầu tư khôi phục vùng nguyên liệu,
cải tiến công cụ lao động, cải tiến mẫu mã, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào các
khâu sản xuất như: Xử lý nguyên liệu, chống ẩm mốc, biến màu. Khuyến khích
nghiên cứu phát triển các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, hàng trang trí nội thất
từ nguyên liệu mây tre, hỗ trợ xúc tiến thương mại giới thiệu tiêu thụ sản phẩm
thông qua hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Mặt khác, Nhà nước hỗ trợ làng
nghề cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo tay nghề, truyền nghề, đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá, gắn với du lịch văn hoá về nguồn, thăm khu tưởng niệm nổi
tiếng tại Ba Tri như: Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản. Các
khu di tích lịch sử, Căn cứ kháng chiến Lạc Địa, rừng sinh thái sân Chim Vàm Hồ.
Có kế hoạch thành lập THT hoặc HTX để làm đầu mối quản lý làng nghề.
- Làng nghề (TTCN) nấu rượu
(Phú Lễ - Ba Tri):
Đầu tư nghiên cứu quy trình sản
xuất chuẩn, giữ vững hồ men gia truyền nhằm duy trì và nâng cao chất lượng, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; cải tiến bao bì, đăng ký nhãn hiệu, vận động, tập
hợp những người sản xuất rượu trên địa bàn xã để xây dựng và phát triển thương
hiệu rượu truyền thống Phú Lễ. Hình thành tổ hợp tác và phát triển nhiều loại
hình doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ,
tăng thu nhập, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Hỗ trợ đầu tư cải tạo
và xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề và gắn với khu bảo tồn thuỷ sản nước ngọt Lạc
Địa, khu di tích đình Phú Lễ, hình thành điểm du lịch sinh thái ẩm thực. Củng cố
nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Rượu Phú Lễ để hỗ trợ các hộ trong làng
nghề hoạt động.
- Làng nghề chế biến cá khô
(Bình Thắng - Bình Đại; An Thuỷ - Ba Tri):
Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, xây dựng nhà xưởng, hệ thống sấy, hút chân không, đăng ký
nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, đa dạng hoá sản phẩm, tổ chức truyền nghề và kêu gọi đầu tư phát triển
doanh nghiệp đầu mối để cung ứng nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm, xử lý ô nhiễm
môi trường, cải tạo xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề. Tăng cường đầu tư nâng
cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp có quy mô lớn trong làng nghề để
làm nòng cốt hỗ trợ làng nghề hoạt động, thường xuyên tuyên truyền vận động các
hộ sản xuất liên kết sản xuất theo hình thức THT hoặc HTX gọn nhẹ để làm đầu mối
hỗ trợ làng nghề cũng như tiếp nhận các nguồn hỗ trợ của Nhà nước đầu tư cho
làng nghề.
- Làng nghề sản xuất kìm kéo (Mỹ
Thạnh - Giồng Trôm):
Mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến
kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ cho sản xuất, khép kín quy trình sản xuất từ
khâu nguyên liệu đến thành phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất
lao động, có kế hoạch xây dựng mô hình kinh tế hợp tác phù hợp nhằm phát huy hiệu
quả hoạt động của làng nghề, đáp ứng nhu cầu thị trường, tổ chức các lớp truyền
nghề, đào tạo nghề, nâng cao trình độ quản lý, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi
trường.
- Làng nghề sản xuất bánh phồng,
bánh tráng (Sơn Đốc, Mỹ Lồng - Giồng Trôm, Phú Ngãi - Ba Tri):
Nghiên cứu thiết
kế xây dựng quy trình sản xuất tiên tiến, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở đầu
tư thiết bị xay, quậy, cán, quết, hệ thống sấy, xây dựng hệ thống xử lý môi trường
đạt tiêu chuẩn như: Nước thải sản xuất, sinh hoạt, hệ thống thoát nước mưa, thu
gom rác thải... có giải pháp để hỗ trợ làng nghề phát triển vùng trồng nếp cung
cấp nguyên liệu cho sản xuất. Thực hiện an toàn vệ sinh và nâng cao chất lượng
sản phẩm, hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, cải tiến bao bì mẫu mã, phát triển
mạnh thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Củng cố và nâng cao hiệu quả
hoạt động của HTX bánh phồng Sơn Đốc, bánh tráng Mỹ Lồng, Đa Phước Hội và vận động
thành lập HTX Phú Ngãi khi có đủ điều kiện. Nhân rộng mô hình tăng cường năng lực
quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường tại làng nghề
bánh tráng Mỹ Lồng sang các làng nghề sản xuất khác.
- Làng nghề sản xuất lu chứa nước-
bàn ghế bằng xi măng (Hoà Lợi - Thạnh Phú):
Đầu tư vốn xây dựng kết cấu hạ
tầng, phát triển hệ thống giao thông để tạo điều kiện thuận lợi vận chuyển vật
tư, nguyên vật liệu cho sản xuất hàng hoá cũng như vận chuyển sản phẩm của làng
nghề. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình thuộc làng nghề vay vốn để
phát triển sản xuất; tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động
trong làng nghề, hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật
cơ giới hoá vào một số công đoạn để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hỗ
trợ đăng ký nhãn hiệu. Hiện tại, các hộ trong làng nghề đã chuyển sang sản xuất
bàn ghế xi măng, chỉ còn một số hộ sản xuất lu chứa nước. Trong thời gian tới
làng nghề sẽ được đổi tên thành làng nghề sản xuất bàn ghế - lu chứa nước để
phát triển theo đúng hướng và được hưởng chính sách hỗ trợ phát triển thêm các
sản phẩm mới. Có kế hoạch tổ chức vận động thành lập mô hình kinh tế hợp tác
thích hợp để hỗ trợ làng nghề hoạt động.
3.2. Đối với các
làng nghề sản xuất các sản phẩm từ dừa thì Bến Tre là tỉnh có diện tích trồng dừa
lớn nhất nước, chiếm 38,8% tổng diện tích dừa của cả nước. Giá trị các sản phẩm
từ dừa chiếm khoảng 25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Kim ngạch
xuất khẩu các sản phẩm từ dừa chiếm khoảng 30-40% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Bến Tre. Các sản phẩm từ dừa của Bến Tre hiện đã xuất qua 65 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Do đó, cần tập trung phát triển các làng nghề sản xuất các sản
phẩm từ dừa để trở thành thế mạnh của tỉnh: Làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa, làng
nghề đan giỏ cọng dừa, làng nghề sản xuất kẹo dừa, thạch dừa, làng nghề bó chổi
cọng dừa. Đồng thời, vấn đề ô nhiễm môi trường từ làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa,
thạch dừa rất lớn, do đó phát triển làng nghề phải đi đôi với bảo vệ môi trường
và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Cụ thể:
- Làng nghề sản
xuất chỉ xơ dừa (An Thạnh - Mỏ Cày Nam, Khánh Thạnh Tân - Mỏ Cày Bắc):
Khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến chỉ xơ dừa, áp dụng các thiết
kế máy tước chỉ xơ dừa, máy dệt thảm xơ dừa; tập trung xử lý tình trạng ô nhiễm
môi trường, đổi mới quy trình, thiết bị công nghệ sản xuất chỉ xơ dừa theo hướng
sử dụng mô tơ điện thay cho máy dầu, phát triển thêm một số sản phẩm như: lưới
xơ dừa, thảm xơ dừa, băng chỉ xơ dừa ép keo, nệm ép keo… để cạnh tranh với thị
trường trong và ngoài nước, thông qua việc hỗ trợ vốn từ chương trình khuyến
công, vốn sự nghiệp khoa học công nghệ, vốn sự nghiệp môi trường và vốn doanh
nghiệp. Tăng cường củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp lớn
trong làng nghề để làm đầu mối hỗ trợ thúc đẩy các hộ sản xuất trong làng nghề
phát triển.
- Làng nghề đan
giỏ cọng dừa (Phước Long, Hưng Phong - Giồng Trôm):
Mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tư đổi mới công cụ, thiết bị chuyên dùng, nghiên cứu chuyển giao phần
mềm thiết kế và khuyến khích các nghệ nhân thiết kế, sáng tạo ra nhiều mẫu mã mới,
chất lượng cao đáp ứng thị trường thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu, tổ chức truyền nghề và đào tạo thợ giỏi, nâng cao trình độ quản lý và kiến
thức hội nhập của các doanh nghiệp và cơ sở. Củng cố nâng cao chất lượng hoạt động
HTX TTCN Phước Long, tuyên truyền vận động khi đủ điều kiện thành lập HTX TTCN
Hưng Phong để làm đầu mối hỗ trợ làng nghề hoạt động.
- Làng nghề sản
xuất kẹo dừa, thạch dừa (Phường 7, thành phố Bến Tre):
Do quá trình đô
thị hoá và thực hiện Đề án xử lý, di dời các cơ sở ô nhiễm môi trường ra khỏi nội
thành thành phố Bến Tre nên phần lớn các cơ sở sản xuất thạch dừa đã ngưng hoạt
động và di dời khỏi địa bàn làng nghề, không còn đáp ứng theo tiêu chí làng nghề
theo quy định, kiến nghị địa phương làm thủ tục thu hồi quyết định công nhận
làng nghề. Cần chuyển sang một hình thức sản xuất khác (THT) để ổn định phát
triển sản xuất.
- Làng nghề bó chổi
(Mỹ An - Thạnh Phú):
Mở rộng quy mô sản
xuất hiện có để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho địa phương; đầu tư
máy móc, thiết bị, chuyển giao khoa học, công nghệ như: Máy tuốt cọng dừa, máy
cắt cán chổi cọng dừa, máy tề đọt,… nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của sản
phẩm; mở các lớp đào tạo nghề mới để đa dạng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng, hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để sản phẩm được nhiều người biết
đến. Đồng thời, huy động từ nhiều nguồn vốn để đầu tư đường giao thông phục vụ
việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm của làng nghề. Tăng cường hỗ trợ đầu tư
các cơ sở sản xuất lớn trong làng nghề để làm đầu mối nòng cốt hỗ trợ thúc đẩy
sản xuất, khi có đủ điều kiện vận động thành lập THT, HTX để làm đầu mối hỗ trợ
sản xuất và tiêu thụ của làng nghề.
Ngoài ra, trong
giai đoạn 2013-2020, dự kiến phát triển thêm khoảng 03 làng nghề mới: Làng nghề
sản xuất tiểu thủ công nghiệp xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, dự kiến giải quyết
việc làm cho khoảng 300 lao động tại địa phương, làng nghề may gia công
banh da xã Tân Thanh Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, dự kiến giải quyết việc làm cho khoảng
250 lao động tại địa phương và làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp từ dừa
xã Đa Phước Hội, huyện Mỏ Cày Nam, dự kiến giải quyết việc làm cho khoảng 320
lao động tại địa phương.
4. Đề xuất
các chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề trong giai đoạn 2013-2020:
4.1. Chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề giới thiệu sản phẩm trong các hội chợ triển
lãm:
- Nội dung thực hiện: Trung tâm
Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp, Trung tâm xúc tiến thương mại và
các huyện, thành phố hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho các làng nghề tham
gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài tỉnh để quảng bá, giới
thiệu sản phẩm đặc trưng của làng nghề, cung cấp thông tin trên trang web, tổ
chức toạ đàm kết nối giữa nhà sản xuất và phân phối...
Dự kiến kinh phí:
80 triệu/năm x 07 năm = 560 triệu đồng. Trong đó:
+ Nguồn kinh phí:
Kinh phí khuyến công của tỉnh, của huyện, thành phố: Dự kiến 30 triệu đồng/năm
x 07 = 210 triệu đồng
+ Nguồn kinh phí:
Kinh phí xúc tiến thương mại của tỉnh, huyện, thành phố: Dự kiến kinh phí: 50
triệu/năm x 07 năm = 350 triệu đồng.
4.2. Hỗ trợ các
làng nghề tham quan, học tập kinh nghiệm trong và ngoài tỉnh:
- Nội dung thực
hiện: Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp, các huyện, thành
phố tổ chức cho các làng nghề tham quan, học tập kinh nghiệm về tổ chức sản xuất
và quản lý tại các tỉnh có làng nghề phát triển tốt nhằm nâng cao kinh nghiệm
trong việc quản lý làng nghề, phát triển thêm ngành nghề, mẫu mã, kiểu dáng mới.
- Dự kiến kinh
phí: 50 triệu đồng/năm x 07 năm = 350 triệu đồng.
- Nguồn kinh phí:
Kinh phí khuyến công của tỉnh, huyện, thành phố.
4.3. Chính sách hỗ
trợ các doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến
thiết bị từ nguồn kinh phí khuyến công của tỉnh:
a) Cơ giới hoá một
số công đoạn trong SX bánh phồng nếp ở làng nghề bánh phồng Sơn Đốc (Giồng
Trôm) và bánh phồng Phú Ngãi (Ba Tri): 500 triệu đồng;
b) Cải tiến công
đoạn xi, mạ trong sản xuất kìm cắt da, móng ở làng nghề sản xuất kìm kéo xã Mỹ
Thạnh (Giồng Trôm): 200 triệu đồng;
c) Thay đổi thiết
bị mới trong sản xuất chỉ xơ dừa để tăng năng suất và giảm giá thành sản phẩm ở
làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh (Mỏ Cày Nam) và Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày
Bắc): 500 triệu đồng;
d) Đầu tư máy móc
thiết bị để phục vụ các công đoạn như: Tuốt cọng dừa, cắt cán chổi, tề đọt,…
trong làng nghề bó chổi ấp An Hoà (Thạnh Phú): 200 triệu đồng.
4.4. Hỗ trợ các
doanh nghiệp trong làng nghề đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng,
tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
- Nội dung thực
hiện: Hỗ trợ các doanh nghiệp 02 làng nghề: Chế biến cá khô Bình Thắng (Bình Đại)
và An Thuỷ (Ba Tri) ứng dụng công nghệ đốt lò hơi bằng năng lượng tái tạo trong
quá trình sấy hải sản nhằm góp phần bảo vệ môi trường mà còn có thể tiết kiệm
chi phí nhiên liệu đốt lò.
- Dự kiến kinh
phí: 500 triệu đồng/lần x 03 doanh nghiệp x 02 làng nghề = 3.000 triệu đồng
- Nguồn kinh phí:
Từ nguồn vốn khoa học công nghệ của tỉnh.
4.5. Hỗ trợ chi
phí cho làng nghề xây dựng, xác lập quyền và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
tập thể, nhãn hiệu chứng nhận:
- Nội dung thực
hiện: Hỗ trợ 02 làng nghề: Chế biến cá khô Bình Thắng (Bình Đại) và An Thuỷ (Ba
Tri) xây dựng nhãn hiệu tập thể.
- Dự kiến kinh
phí: 200 triệu đồng/lần x 2 làng nghề = 400 triệu đồng
- Nguồn kinh phí:
Từ nguồn vốn khoa học công nghệ của tỉnh.
4.6. Hỗ trợ một
phần vốn xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển hệ thống giao thông nông thôn: Để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm của làng nghề
sản xuất lu chứa nước Hoà Lợi (Thạnh Phú) và làng nghề bó chổi ấp An Hoà (Thạnh
Phú).
Nguồn vốn Chương
trình mục tiêu quốc gia: 2.000 triệu đồng
4.7. Hỗ trợ vốn để
đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải đảm bảo môi trường xung quanh 02 làng
nghề: Chế biến cá khô Bình Thắng (Bình Đại) và An Thuỷ (Ba Tri).
Nguồn vốn sự nghiệp
môi trường: 1.000 triệu đồng.
4.8. Hỗ trợ vốn để
xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường tại 02 làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh
(Mỏ Cày Nam) và Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày Bắc).
Nguồn vốn sự nghiệp
môi trường: 1.000 triệu đồng.
4.9. Hỗ trợ vốn để
xử lý môi trường cho các làng nghề còn lại:
Nguồn vốn sự nghiệp
môi trường: 3.000 triệu đồng.
5. Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư hỗ trợ phát triển làng nghề:
- Vốn khuyến
công: 1.960 triệu đồng;
- Vốn xúc tiến
thương mại: 350 triệu đồng;
- Vốn Chương
trình mục tiêu quốc gia: 2.000 triệu đồng;
- Vốn sự nghiệp
môi trường: 5.000 triệu đồng;
- Vốn khoa học
công nghệ: 3.400 triệu đồng.
Tổng hợp nhu cầu
vốn đầu tư hỗ trợ phát triển làng nghề giai đoạn 2013-2020: 12.710 triệu đồng.
Trong đó:
* Giai đoạn
2013-2015:
Tổng vốn hỗ trợ:
5.350 triệu đồng. Trong đó:
- Vốn khuyến
công: 700 triệu đồng;
- Vốn xúc tiến
thương mại: 150 triệu đồng;
- Vốn Chương
trình mục tiêu quốc gia: 1.000 triệu đồng;
- Vốn sự nghiệp
môi trường: 2.000 triệu đồng;
- Vốn khoa học
công nghệ: 1.500 triệu đồng.
* Giai đoạn
2016-2020:
Tổng vốn hỗ trợ:
7.360 triệu đồng. Trong đó:
- Vốn khuyến
công: 1.260 triệu đồng;
- Vốn xúc tiến
thương mại: 200 triệu đồng;
- Vốn Chương
trình mục tiêu quốc gia: 1.000 triệu đồng;
- Vốn sự nghiệp
môi trường: 3.000 triệu đồng;
- Vốn khoa học
công nghệ: 1.900 triệu đồng.
Ngoài ra, vận dụng
linh hoạt từ nhiều nguồn thông qua các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về làng
nghề để tiếp tục bổ sung hỗ trợ vốn cho các làng nghề trong tỉnh phát triển.
6. Chính sách khuyến khích phát triển làng nghề:
Chính sách khuyến
khích phát triển làng nghề được thực hiện theo:
Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn;
Nghị định số
45/2012/NĐ-CP ngày 21 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ về khuyến công;
Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục
vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
Thông tư số
116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn hướng dẫn thực hiện một số nội cung Nghị định số 66/2006/NĐ-CP;
Thông tư số 113/2006/TT-BTC
ngày 28 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về ngân
sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số
66/2006/NĐ-CP;
Thông tư liên tịch
số 125/TTLT-BTC-BCT ngày 17 tháng 6 năm 2009 của Bộ Tài chính - Bộ Công Thương
quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với Chương
trình khuyến công;
Thông tư số
88/2011/TT-BTC ngày 17 tháng 6 năm 2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài
chính hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia;
Quyết định số
72/2010/QĐ-TTg ngày 15 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc
gia;
Quyết định số
1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”;
Những chính sách
này đã quy định cụ thể về hỗ trợ tín dụng, xúc tiến thương mại, xây dựng cơ sở
hạ tầng, xử lý ô nhiễm môi trường, về đào tạo nghề cho lao động,... Tỉnh không
ban hành chính sách riêng mà áp dụng chính sách hiện hành của Trung ương, trong
quá trình thực hiện sẽ kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn.
III. GIẢI PHÁP
1. Giải pháp đổi mới tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh làng nghề:
- Tổ chức lại sản
xuất theo mô hình kinh tế tập thể, xây dựng mô hình quản lý làng nghề hoạt động
có hiệu quả, mở rộng các hình thức dịch vụ phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm;
- Các cơ sở sản xuất
ở làng nghề phải liên kết lại với nhau để hình thành những cơ sở, những doanh
nghiệp mạnh ở ngay trong làng. Tăng cường nghiên cứu, tìm hiểu và bám sát nhu cầu
của thị trường để tìm hướng ra cho sản phẩm;
- Thường xuyên
đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động mang tính chuyên nghiệp để
thực hiện các mẫu mã mới, phát triển sản phẩm nhằm tạo thị trường ổn định và có
việc làm thường xuyên;
- Chủ động tổ chức
các điểm trưng bày và giới thiệu, quảng bá sản phẩm của làng nghề tại các Trung
tâm thương mại, các điểm du lịch, nhà hàng, khách sạn,..
2. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực:
- Tăng cường công
tác đào tạo nghề theo hình thức truyền nghề, nhân cấy nghề;
- Xây dựng cơ chế
khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi tham gia đào tạo, chú trọng đến các nghề
truyền thống, cổ truyền;
- Khuyến khích và
hỗ trợ cho các làng nghề tự tổ chức truyền dạy nghề;
- Tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về kỹ thuật, tổ chức sản xuất, quản lý doanh
nghiệp cho các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất tại làng nghề. Tổ chức cho
các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất, tham quan học tập kinh nghiệm phát
triển làng nghề trong nước;
- Thường xuyên tổ
chức các cuộc hội thảo, hội nghị nhằm giới thiệu các kinh nghiệm quản lý, sản
xuất kinh doanh, khoa học công nghệ mới và các lĩnh vực liên quan đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh tại làng nghề.
3. Giải pháp về xúc tiến thương mại:
- Hỗ trợ các
doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề tiếp cận thị trường trong và ngoài nước bằng
cách ưu tiên về quảng cáo, triển lãm. Triển khai thực hiện chương trình xúc tiến
thương mại cung cấp các thông tin về thị trường, tổ chức hội chợ, triển lãm, giới
thiệu sản phẩm, thông qua các tham tán thương mại,… cho quyền được đăng ký để
kinh doanh xuất khẩu trực tiếp nếu có nhu cầu hoặc có những biện pháp hạn chế sự
lũng đoạn của các đơn vị trung gian xuất nhập khẩu;
- Tổ chức mạng lưới
tiêu thụ, nhất là phối hợp với các điểm du lịch, mở các đại lý, văn phòng đại
diện ở các thành phố lớn với phương thức tiếp thị đa dạng và kết hợp với các ngành
kinh tế khác để quảng bá sản phẩm.
4. Giải pháp về huy động vốn:
- Sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương thông qua các chương trình khuyến công
quốc gia, hỗ trợ dạy nghề, vốn chương trình mục tiêu quốc gia;
- Ngân sách tỉnh
cấp thông qua các chương trình khuyến công địa phương hàng năm và từng giai đoạn;
vay vốn tín dụng ưu đãi hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề hàng
năm; vốn sự nghiệp khoa học công nghệ hỗ trợ đăng ký nghiên cứu, ứng dụng triển
khai các đề tài nghiên cứu khoa học;
- UBND các huyện,
thành phố chủ động cân đối, bố trí vốn đối ứng, vốn hỗ trợ cho các chương
trình, dự án đầu tư khôi phục phát triển làng nghề từ các nguồn vận động tài trợ,
đóng góp của các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp, các cơ sở SX trong các làng nghề;
- Bố trí một phần
thích hợp từ nguồn thu theo phân cấp ngân sách trên địa bàn để tham gia thực hiện
các chính sách hỗ trợ khôi phục và phát triển làng nghề theo quy định.
5. Giải pháp về hỗ trợ xử lý môi trường, đầu tư hạ tầng:
- Các làng nghề
hiện có cần sắp xếp lại mặt bằng sản xuất, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường,
xây dựng quy hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao nhận
thức cho người dân trong làng nghề. Ngoài ra, các làng nghề cũng cần tiếp cận với
những giải pháp kỹ thuật, công nghệ sản xuất sạch hơn nhằm phòng ngừa phát sinh
chất thải và các biện pháp xử lý chất thải phù hợp. UBND tỉnh cần bố trí một phần
kinh phí để hỗ trợ khắc phục môi trường làng nghề (đặc biệt là các làng nghề CN
- TTCN An Thạnh và Khánh Thạnh Tân). Có như vậy, các làng nghề mới thật sự phát
triển hiệu quả và bền vững.
- Xây dựng tốt và
đồng bộ kết cấu hạ tầng để các khu sản xuất tập trung phát triển có hiệu quả.
Xây dựng đường giao thông, nối liền từ khu sản xuất tập trung của làng nghề tới
các xã, thị trấn, huyện, tỉnh,… tạo sự giao lưu thông suốt trong việc vận chuyển
và trao đổi hàng hoá. Hoàn chỉnh hệ thống điện, cấp thoát nước, các hệ thống dịch
vụ như tài chính, tín dụng, bưu chính, viễn thông,… tạo cho các khu sản xuất tập
trung của làng nghề gần với cơ sở dịch vụ và không cách xa khu dân cư.
6. Giải pháp về hỗ trợ ứng dụng KHCN, xây dựng thương hiệu:
- Thông qua
chương trình khoa học công nghệ để hỗ trợ đổi mới, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề,
cải tiến mẫu mã, xây dựng thương hiệu, áp dụng công nghệ phù hợp đến từng cơ sở,
từng hộ gia đình để nâng cao năng suất, hạ giá thành, đa dạng hoá sản phẩm, đồng
thời với việc xử lý chất thải, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trong
các làng nghề.
- Khuyến khích
nhu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ trên cơ sở có những cơ chế, chính sách khuyến
khích mở rộng sản xuất và nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Tiếp tục
tăng cường hỗ trợ nguồn vốn đầu tư và ưu đãi tín dụng cho những ngành nghề và
cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại.
7. Giải pháp về nguyên liệu:
Nguyên liệu có
vai trò rất quan trọng trong phát triển các làng nghề, tạo sự ổn định, bền vững
cho sản xuất. Vì vậy, để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, cần phải có giải
pháp để các làng nghề phát triển các vùng nguyên liệu chuyên canh như: Lát,
tre, trúc,… khuyến khích nhân dân mở rộng diện tích nhằm đảm bảo nguồn nguyên
liệu phục vụ cho phát triển sản xuất lâu dài. Tăng cường liên kết với các địa
phương khác, trong việc khai thác và phát triển các vùng nguyên liệu tập trung
đề đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu cho phát triển.
8. Đề xuất giải pháp mô hình quản lý nhà nước về làng nghề:
- Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn thống nhất quản lý nhà nước về làng nghề theo Nghị định
số 66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn; Sở Công Thương quản lý chuyên ngành, hỗ trợ hình thành Ban quản lý
các làng nghề;
- Thường xuyên rà
soát các văn bản về cơ chế, chính sách liên quan đến làng nghề để điều chỉnh, bổ
sung và thống nhất triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho đầu tư, hỗ trợ phát triển các nghề và làng nghề Bến Tre
trong thời gian tới. Chú trọng các thông tin hai chiều giữa các cơ quan quản lý
nhà nước với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làng nghề để phát hiện những tồn tại
nhằm đề xuất các giải pháp, cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp có hiệu quả.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Đối với cấp tỉnh:
1.1. Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn:
- Cơ quan đầu mối
thực hiện chức năng quản lý nhà nước chung về làng nghề trên địa bàn tỉnh theo
quy định của Chính phủ. Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan, Uỷ ban
nhân dân các huyện, thành phố xây dựng giải pháp để phát triển vùng nguyên liệu
phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong các làng nghề;
- Lồng ghép các
chủ trương chính sách hỗ trợ, các đề án, dự án về việc phát triển ngành nghề
nông thôn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai để hỗ trợ cho việc
phát triển làng nghề;
- Chủ trì, phối hợp
với các sở, ngành liên quan, Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố xây dựng
chính sách khuyến khích phát triển nghề, làng nghề trên địa bàn tỉnh Bến Tre,
xây dựng mô hình tổ chức quản lý làng nghề chuẩn để triển khai thực hiện.
1.2. Sở Công
Thương:
- Thông qua Chương
trình khuyến công địa phương xây dựng kế hoạch hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp,
cơ sở trong làng nghề. Chủ trì phối hợp với các các cơ quan chức năng có liên
quan và địa phương để xét duyệt đối tượng hỗ trợ và mức hỗ trợ trình Uỷ ban
nhân dân tỉnh phê duyệt theo quy định;
- Tăng cường
tranh thủ nguồn vốn từ các chương trình khuyến công quốc gia, Chương trình mục
tiêu để thực hiện hỗ trợ các dự án phát triển nghề, làng nghề. Tích cực hỗ trợ
các làng nghề giới thiệu, trưng bày, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu
thụ.
1.3. Sở Khoa học
và Công nghệ:
Lập kế hoạch và
hướng dẫn trình tự, thủ tục việc hỗ trợ ứng dụng đổi mới công nghệ và chuyển
giao tiến bộ khoa học công nghệ đối với các mô hình, dự án về phát triển nghề, làng
nghề và hỗ trợ việc xác lập, khai thác, phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ (gồm
hướng dẫn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải pháp
hữu ích,…) cho các sản phẩm nghề và làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
1.4. Sở Kế hoạch
và Đầu tư:
- Bố trí vốn hỗ
trợ đầu tư từ ngân sách hàng năm cho các dự án được hưởng chính sách khuyến
khích phát triển nghề, làng nghề trên địa bàn tỉnh Bến Tre;
- Tham mưu, đề xuất
Uỷ ban nhân dân tỉnh kiến nghị với các Bộ, ngành Trung ương hỗ trợ nguồn vốn từ
các Chương trình mục tiêu quốc gia để thực hiện các dự án phát triển nghề, làng
nghề.
1.5. Sở Tài
chính:
Cân đối ngân sách
hàng năm phân bổ kinh phí để hỗ trợ phát triển làng nghề theo Thông tư số
113/2006/TT-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số nội dung về ngân
sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ trình Uỷ ban nhân dân tỉnh
phê duyệt; kiểm tra thanh quyết toán và báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh.
1.6. Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội:
Có kế hoạch trình
Uỷ ban nhân dân tỉnh phân bổ kinh phí từ Quỹ quốc gia về việc làm để hỗ trợ cho
các dự án ở làng nghề có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, thu
hút giải quyết việc làm mới cho lao động nông thôn; hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề
cho lao động ở các làng nghề theo “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn của
tỉnh”.
1.7. Sở Tài
nguyên và Môi trường:
Hướng dẫn trình tự,
thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với các đối tượng theo Quy định này thực hiện
dự án đầu tư và hướng dẫn các thủ tục về môi trường theo quy định của pháp luật,
tìm các giải pháp đồng bộ, khả thi để xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường ở các
làng nghề; phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn các
làng nghề thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong làng nghề theo quy định.
1.8. Sở Văn hoá,
Thể thao và Du lịch:
Phối hợp với địa
phương xây dựng các tuyến du lịch gắn với làng nghề, hình thành các nhà trưng
bày tổ chức sản xuất, giới thiệu sản phẩm làng nghề.
1.9. Sở Giao thông
vận tải:
Tham mưu giúp
UBND tỉnh nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, hướng dẫn tiêu chuẩn kỹ
thuật từng cấp đường trong việc cải tạo, xây dựng các tuyến giao thông khu vực
làng nghề tập trung.
1.10. Liên minh Hợp
tác xã tỉnh:
Tiến hành củng cố,
nâng cao hiệu quả và phát triển loại hình hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trong
các làng nghề.
2. Đối với các huyện, thành phố:
Uỷ ban nhân dân
huyện, thành phố phối hợp với các sở, ngành có liên quan trong việc chỉ đạo và
triển khai xây dựng, thực hiện các dự án phát triển làng nghề thuộc địa bàn quản
lý. Có kế hoạch củng cố, nâng chất lượng hoạt động của làng nghề, tiến hành rà
soát lại các tiêu chí công nhận làng nghề, những làng nghề không đạt các tiêu
chí quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn thì làm thủ tục đề nghị thu hồi Quyết định công nhận làng nghề; phối
hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh Hợp tác xã tỉnh đề xuất,
tổ chức mô hình quản lý cụ thể của làng nghề; bố trí kinh phí hàng năm đầu tư,
hỗ trợ đầu tư phát triển làng nghề theo chính sách quy định.
Chỉ đạo Uỷ ban
nhân dân các xã (phường), thị trấn vận động các doanh nghiệp, cơ sở, hộ sản xuất
khôi phục và phát triển làng nghề trên địa bàn, xây dựng kế hoạch củng cố, phát
triển làng nghề, đề xuất mức hỗ trợ đầu tư xây dựng phát triển làng nghề; phân
công cán bộ trực tiếp phụ trách, theo dõi công tác phát triển làng nghề./.
|
GIÁM ĐỐC
Trương Minh Nhựt
|
DANH SÁCH
CÁC LÀNG NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP ĐÃ ĐƯỢC CÔNG NHẬN
STT
|
Huyện/thành phố
|
Tên Làng nghề
|
Quyết định công nhận
|
Ghi chú
|
1
|
Thành phố Bến Tre
|
LN kẹo dừa và thạch dừa P.7
|
Số 876/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
|
2
|
LN dệt chiếu Nhơn Thạnh
|
Số 1769/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
|
3
|
Ba Tri
|
LN chế biến cá khô Tiệm Tôm
|
Số 1547/QĐ-UBND ngày 02/9/2007
|
|
4
|
LN TTCN Phú Lễ
|
Số 1670/QĐ-UBND ngày 21/7/2006
|
LN truyền thống
|
5
|
LN SX đan đát Phước Tuy
|
Số 132/QĐ-UBND ngày 26/01/2007
|
LN truyền thống
|
6
|
LN bánh phồng Phú Ngãi
|
Số 1765/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
LN truyền thống
|
7
|
Châu Thành
|
LN dệt chiếu An Hiệp
|
Số 1767/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
LN truyền thống
|
8
|
Bình Đại
|
LN chế biến cá khô Bình Thắng
|
Số 881/QĐ-UBND ngày 05/6/2007
|
LN truyền thống
|
9
|
Thạnh Phú
|
LN SX lu chứa nước xã Hoà Lợi
|
Số 442/QĐ-UBND ngày 10/3/2008
|
LN truyền thống
|
10
|
LN bó chổi ấp An Hoà
|
Số 80/QĐ-UBND ngày 10/01/2011
|
|
11
|
Mỏ Cày Nam
|
LN CN - TTCN An Thạnh
|
Số 1671/QĐ-UBND ngày 21/7/2006
|
|
12
|
LN dệt chiếu xã Thành Thới B
|
Số 29/QĐ-UBND ngày 07/01/2008
|
|
13
|
Mỏ Cày Bắc
|
LN CN - TTCN Khánh Thạnh Tân
|
Số 1768/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
|
14
|
Giồng Trôm
|
LN đan giỏ cọng dừa Phước
Long
|
Số 930/QĐ-UBND ngày 14/6/2007
|
|
15
|
LN bánh phồng Sơn Đốc
|
Số 1766/QĐ-UBND ngày 02/8/2006
|
LN truyền thống
|
16
|
LN đan giỏ cọng dừa Hưng
Phong
|
Số 674/QĐ-UBND ngày 08/4/2009
|
|
17
|
LN sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng
|
Số 131/QĐ-UBND ngày 26/01/2007
|
LN truyền thống
|
18
|
LN sản xuất kìm kéo xã Mỹ Thạnh
|
Số 602/QĐ-UBND ngày 01/4/2008
|
LN truyền thống
|
BẢNG SẢN LƯỢNG, GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP CÁC LÀNG
NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
STT
|
Huyện
|
Tên LN
|
SP chính
|
ĐVT
|
Sản lượng
|
GTSXCN (CĐ 94) (triệu đồng)
|
2006
|
2010
|
2011
|
2012
|
2006
|
2010
|
2011
|
2012
|
1
|
Ba Tri
|
LN
chế biến cá khô Tiệm Tôm
|
Tôm
khô
|
Tấn
|
130
|
250
|
300
|
420
|
1117.820
|
3010.350
|
4427.000
|
7933.740
|
Cá
khô
|
Tấn
|
400
|
705
|
850
|
955
|
2
|
LN
TTCN Phú Lễ
|
Rượu
nếp truyền thống
|
Lít
|
10,000
|
150,000
|
750,000
|
1,000,000
|
26,500
|
72,000
|
75,000
|
81,000
|
Đan
đát
|
SP
|
5,000
|
11,500
|
12,000
|
12,500
|
3
|
LN
SX đan đát Phước Tuy
|
Thúng
|
Chiếc
|
86,400
|
143,000
|
140,000
|
145,000
|
337.960
|
636.100
|
795.080
|
950.400
|
Rổ,
vừng, sàn
|
Chiếc
|
72,000
|
60,000
|
62,000
|
65,000
|
4
|
LN
bánh phồng Phú Ngãi
|
Bánh
phồng nếp
|
1000 cái
|
2,209
|
3,672
|
4,590
|
6,885
|
884.712
|
1,477.56
|
1,846.95
|
2,770.29
|
Bánh
phồng mì
|
1000 cái
|
1,089
|
1,836
|
2,295
|
3,442
|
5
|
Châu Thành
|
LN
dệt chiếu An Hiệp
|
Mụn
dừa, xơ rối
|
Tấn
|
155.2
|
4,509.9
|
1,307.2
|
1,200
|
12,930.050
|
41,645.350
|
37,088.110
|
40,000.000
|
Thảm
các loại
|
Tấm
|
75,315
|
374,437
|
530,571
|
400,000
|
Hàng
lưới, băng, dây dừa
|
Tấn
|
1,430.4
|
2,281.5
|
1,620.3
|
1,600
|
Lục
bình, cói đan các loại
|
Cái
|
322,567
|
365,581
|
794,835
|
500,000
|
6
|
Bình Đại
|
LN
chế biến cá khô Bình Thắng
|
Cá
khô
|
Tấn
|
1,250
|
854
|
1,056
|
1,400
|
7,536.15
|
5,148.70
|
6,366.54
|
8,440.49
|
7
|
Thạnh Phú
|
LN
SX lu chứa nước xã Hoà Lợi
|
Lu
xi măng
|
Cái
|
300,000
|
150,000
|
60,000
|
12,000
|
3,506.980
|
5,260.470
|
8,722.490
|
10,545.220
|
Bàn
+ Đôn
|
Bộ
|
|
12,000
|
24,000
|
28,200
|
8
|
LN
bó chổi ấp An Hoà
|
Chổi
|
1000 cây
|
3,432
|
5,220
|
6,120
|
7,326
|
8,004.282
|
12,174.345
|
14,273.370
|
17,086.064
|
9
|
Mỏ Cày Nam
|
LN
CN - TTCN An Thạnh
|
Chỉ
xơ dừa
|
Tấn
|
12,138
|
21,070
|
24,708
|
26,600
|
26,222.900
|
136,208.000
|
205,920.000
|
238,271.000
|
Chỉ
xơ dừa ép kiện
|
Tấn
|
|
17,578
|
20,500
|
22,000
|
10
|
LN
dệt chiếu xã Thành Thới B
|
Mụn
dừa
|
Tấn
|
3,641
|
6,321
|
7,412
|
7,980
|
|
|
|
|
Than
thiêu kết
|
Tấn
|
110
|
320
|
350
|
400
|
Chiếu
|
Chiếc
|
76,320
|
100,600
|
108,800
|
111,600
|
1,291.330
|
1,702.150
|
1,840.900
|
1,888.270
|
11
|
Mỏ Cày Bắc
|
LN
CN - TTCN Khánh Thạnh Tân
|
Chỉ
xơ dừa
|
Tấn
|
17,150
|
22,050
|
19,110
|
25,480
|
18,180.900
|
28,050.600
|
20,258.717
|
32,414.027
|
Mụn
dừa
|
Tấn
|
51,450
|
66,150
|
57,330
|
76,440
|
12
|
TP. Bến Tre
|
LN
dệt chiếu Nhơn Thạnh
|
Chiếu
lát
|
Chiếc
|
84,000
|
43,200
|
43,200
|
43,200
|
1,421.280
|
730.940
|
730.940
|
730.940
|
13
|
Giồng Trôm
|
LN
đan giỏ cọng dừa
Phước
Long
|
Giỏ
cọng dừa
|
1000 cái
|
6,383
|
12,766
|
14,184
|
16,312
|
6,220.870
|
12,441.740
|
13,823.730
|
15,897.680
|
14
|
LN
bánh phồng Sơn Đốc
|
Bánh
phồng
|
1000 cái
|
15,120
|
20,412
|
22,680
|
24,192
|
4,056.05
|
5,475.66
|
6,084.07
|
6,489.67
|
15
|
LN
đan giỏ cọng dừa
Hưng
Phong
|
Đan
giỏ cọng dừa
|
1000 cái
|
660
|
1,100
|
1,320
|
930
|
643.236
|
1,072.060
|
1,286.472
|
906.378
|
16
|
LN
sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng
|
Bánh
tráng béo
|
1000 cái
|
40,000
|
47,000
|
50,000
|
55,000
|
2,585.740
|
2,908.960
|
3,663.140
|
5,609.570
|
Báng
tráng sữa
|
1000 cái
|
40,000
|
48,000
|
52,000
|
55,000
|
Bánh
tráng cuốn
|
1000 cái
|
5,000
|
5,500
|
6,200
|
7,000
|
17
|
LN
sản xuất kìm kéo xã Mỹ Thạnh
|
Kìm
|
Triệu cây
|
8.76
|
7.2
|
6.5
|
5.7
|
2,095.84
|
1,722.61
|
1,555.13
|
1,363.73
|
Tổng cộng
|
|
|
|
|
123,536.099
|
331,665.595
|
403,682.642
|
472,297.475
|
GTSXCN (triệu đồng)
|
2,295,901
|
3,336,345
|
4,399,176
|
5,199,465
|
Tỷ trọng so với CN tỉnh (%)
|
5.38
|
9.94
|
9.18
|
9.08
|
TỔNG HỢP NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
STT
|
Nguồn vốn
|
Tổng nguồn vốn (triệu đồng)
|
Phân kỳ
|
2013-2015
|
2016-2020
|
1
|
Vốn khuyến công
|
1,960
|
700
|
1,260
|
2
|
Vốn xúc tiến thương mại
|
350
|
150
|
200
|
3
|
Vốn Chương trình mục tiêu quốc
gia
|
2,000
|
1,000
|
1,000
|
4
|
Vốn sự nghiệp môi trường
|
5,000
|
2,000
|
3,000
|
5
|
Vốn khoa học công nghệ
|
3,400
|
1,500
|
1,900
|
TỔNG:
|
12,710
|
5,350
|
7,360
|
ĐỀ
XUẤT CÁC DỰ ÁN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ GIAI ĐOẠN 2013-2020
STT
|
Tên dự án
|
Kinh phí
(triệu đồng)
|
Nguồn kinh phí
|
1
|
Dự án hỗ trợ các doanh nghiệp,
cơ sở trong làng nghề giới thiệu sản phẩm trong các hội chợ triển lãm
|
560
|
Nguồn vốn khuyến công và xúc tiến thương mại
|
2
|
Hỗ trợ các làng nghề tham
quan, học tập kinh nghiệm trong và ngoài tỉnh
|
350
|
Nguồn vốn khuyến công
|
3
|
Dự án hỗ trợ các doanh nghiệp,
cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến thiết bị
|
1,400
|
Nguồn vốn khuyến công
|
4
|
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong
làng nghề đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng, tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm
|
3,000
|
Nguồn vốn khoa học công nghệ
|
5
|
Hỗ trợ chi phí cho làng nghề
xây dựng, xác lập quyền và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn
hiệu chứng nhận
|
400
|
Nguồn vốn khoa học công nghệ
|
6
|
Hỗ trợ một phần vốn xây dựng
kết cấu hạ tầng, phát triển hệ thống giao thông nông thôn
|
2,000
|
Nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia
|
7
|
Hỗ trợ vốn để đầu tư xây dựng
hệ thống xử lý nước thải
|
1,000
|
Nguồn vốn sự nghiệp môi trường
|
8
|
Hỗ trợ vốn để xử lý tình trạng
ô nhiễm môi trường
|
4,000
|
Nguồn vốn sự nghiệp môi trường
|
TỔNG
|
12,710
|
|
BẢNG SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA CÁC LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH
STT
|
Huyện
|
Tên LN
|
SP chính
|
Số hộ
|
Lao động (người)
|
Thu nhập bình quân (người/tháng)
|
2006
|
2010
|
2011
|
2012
|
2006
|
2010
|
2011
|
2012
|
1
|
Ba Tri
|
LN chế biến cá khô Tiệm Tôm
|
Tôm khô
|
47
|
56
|
60
|
65
|
235
|
280
|
300
|
325
|
1,800,000
|
Cá khô
|
2
|
LN TTCN Phú Lễ
|
Rượu nếp truyền thống
|
|
|
134
|
|
|
|
567
|
573
|
1,200,000
|
Đan đát
|
3
|
LN SX đan đát Phước Tuy
|
Thúng
|
51
|
95
|
95
|
|
95
|
151
|
162
|
171
|
1,200,000
|
Rổ, vừng, sàn
|
4
|
LN bánh phồng Phú Ngãi
|
Bánh phồng nếp
|
51
|
51
|
51
|
51
|
255
|
255
|
255
|
255
|
1,600,000
|
Bánh phồng mì
|
5
|
Châu Thành
|
LN dệt chiếu An Hiệp
|
Mụn dừa, xơ rối
|
65
|
43
|
35
|
|
1.500
|
800
|
500
|
550
|
2,500,000
|
Thảm các loại
|
Hàng lưới, băng, dây dừa
|
Lục bình, cói đan các loại
|
6
|
Bình Đại
|
LN chế biến cá khô Bình Thắng
|
Cá khô
|
31
|
80
|
15
|
20
|
150
|
387
|
120
|
170
|
1,600,000
|
7
|
Thạnh Phú
|
LN SX lu chứa nước xã Hoà Lợi
|
Lu xi măng
|
68
|
98
|
98
|
98
|
150
|
250
|
250
|
250
|
4,000,000
|
Bàn + Đôn
|
8
|
LN bó chổi ấp An Hoà
|
Chổi
|
18
|
29
|
30
|
33
|
238
|
385
|
425
|
465
|
1.800.000
|
9
|
Mỏ Cày Nam
|
LN CN - TTCN An Thạnh
|
Chỉ xơ dừa
|
170
|
23
|
21
|
23
|
1,240
|
1,056
|
1,094
|
1,122
|
2,500,000
|
Chỉ xơ dừa ép kiện
|
Mụn dừa
|
Than thiêu kết
|
10
|
LN Dệt chiếu xã Thành Thới B
|
Chiếu
|
106
|
140
|
150
|
155
|
220
|
294
|
316
|
328
|
1,800,000
|
11
|
Mỏ Cày Bắc
|
LN CN - TTCN Khánh Thạnh Tân
|
Chỉ xơ dừa
|
35
|
30
|
26
|
26
|
700
|
600
|
468
|
468
|
2,500,000
|
Mụn dừa
|
12
|
TP. Bến Tre
|
LN dệt chiếu Nhơn Thạnh
|
Chiếu lát
|
61
|
30
|
30
|
30
|
122
|
60
|
60
|
60
|
1,350,000
|
13
|
Giồng Trôm
|
LN đan giỏ cọng dừa Phước
Long
|
Giỏ cọng dừa
|
360
|
410
|
750
|
815
|
431
|
511
|
615
|
1,020
|
2,000,000
|
14
|
LN bánh phồng Sơn Đốc
|
Bánh phồng
|
19
|
31
|
34
|
34
|
114
|
126
|
189
|
210
|
2,100,000
|
15
|
LN đan giỏ cọng dừa Hưng
Phong
|
Đan giỏ cọng dừa
|
300
|
450
|
500
|
620
|
400
|
700
|
1,000
|
1,500
|
2,200,000
|
16
|
LN sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng
|
Bánh tráng béo
|
147
|
160
|
180
|
186
|
441
|
452
|
490
|
500
|
2,700,000
|
Báng tráng sữa
|
Bánh tráng cuốn
|
17
|
LN sản xuất kìm kéo xã Mỹ Thạnh
|
Kìm
|
76
|
57
|
55
|
50
|
560
|
850
|
800
|
730
|
2,100,000
|
Tổng cộng
|
1,605
|
1,783
|
2,264
|
2,206
|
6,851
|
7,157
|
7,611
|
8,697
|
|