QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số:
81/2014/QH13
|
Hà Nội, ngày 24
tháng 11 năm 2014
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
VIỆC THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Kể từ ngày 01 tháng 02 năm
2015 đến ngày Luật tổ chức Tòa án nhân dân có hiệu lực thi hành:
1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm
rà soát, chuẩn bị về tổ chức bộ máy, nhân sự, cơ sở vật chất và các điều kiện cần
thiết khác để bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp theo quy định của
Luật tổ chức Tòa án nhân dân;
2. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hết nhiệm kỳ kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
cho đến ngày 01 tháng 6 năm 2015;
3. Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp hết nhiệm
kỳ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến khi được xem xét, bổ nhiệm theo quy định
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân trước ngày 30 tháng 9 năm 2015;
4. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều
4, Điều 24, Điều 70, Điều 71, Điều 72, khoản 2 Điều 95 của Luật tổ chức Tòa án
nhân dân, theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết:
a) Phê chuẩn tổ chức bộ máy; nhiệm vụ, quyền hạn của
các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao;
b) Thành lập Tòa án nhân dân cấp
cao, số lượng Tòa án nhân dân cấp cao, quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ
của mỗi Tòa án nhân dân cấp cao;
c) Quyết định
biên chế, số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân dân cấp cao;
d) Ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng tuyển chọn,
giám sát Thẩm phán quốc gia;
đ) Quyết định danh sách Ủy
viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia;
5. Căn cứ quy định tại Điều 34, điểm
b khoản 1 Điều 38, Điều 41, khoản 1 Điều 45, Điều 46, khoản 4 Điều 51, khoản 3
Điều 55, khoản 3 Điều 58, Điều 73 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao:
a) Ban hành Quy chế hoạt động
của Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán
cao cấp; Quy chế tổ chức thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp,
Thẩm phán cao cấp;
b) Quyết định thành lập các
Tòa chuyên trách trong Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
c) Quyết định thành lập và quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy giúp việc trong các Tòa án nhân dân cấp
cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của Bộ máy giúp việc trong các Tòa án quân sự sau khi thống nhất với Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng;
6. Căn cứ quy định tại Điều 67, khoản
4 Điều 68 (trừ điểm a và điểm c), khoản 1 Điều 69 (trừ điểm a) và các quy định
khác có liên quan của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao có trách nhiệm:
a) Chuẩn bị nhân sự trình Quốc
hội xem xét, phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
b) Trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định bổ nhiệm
Thẩm phán cao cấp đối với các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã được bổ nhiệm
trước ngày 01 tháng 6 năm 2015 nhưng không được bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã được bổ nhiệm
trước ngày Luật tổ chức Tòa án nhân dân có hiệu lực đã có thời gian làm Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao dưới 05 năm nay được bổ nhiệm Thẩm phán cao cấp
thì được coi là đã giữ ngạch Thẩm phán cao cấp đủ 05 năm.
Điều 2.
Kể từ ngày Luật tổ chức Tòa
án nhân dân có hiệu lực:
1. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chuyển
giao nhiệm vụ, quyền hạn cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được
thành lập theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân thực hiện.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao, Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự
trung ương xét xử bằng Hội đồng toàn thể Ủy ban
Thẩm phán theo quy định của các luật tố tụng hiện hành.
Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao với Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán, của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương với
Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán được thực hiện khi có quy định của các luật tố
tụng mới;
2. Các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao chuyển
giao thẩm quyền xét xử phúc thẩm; các Tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chuyển giao thẩm quyền xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm cho các Tòa án nhân dân cấp cao, Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thực hiện;
3. Các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự quân khu và
tương đương chuyển giao thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cho Tòa án quân sự trung ương, Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
Các Tòa án quân sự tiếp tục thực hiện thẩm quyền
xét xử các vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quy định tại
các điều 3, 4, 5, khoản 1 Điều 26 và khoản 2 Điều 29 của Pháp lệnh
tổ chức Tòa án quân sự cho đến khi có quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
mới thay thế các quy định hiện hành này phù hợp với quy định của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân;
4. Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của các Tòa án gồm cả Tòa án nhân dân cấp cao.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương trong phạm vi thẩm quyền theo
lãnh thổ.
Chánh án Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền
kháng nghị giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
quân sự khu vực;
5. Thẩm quyền xét xử của Tòa gia đình và người chưa
thành niên được thực hiện theo quy định của các luật tố tụng mới;
6. Đối với những bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân
sự khu vực đã bị kháng nghị thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, Ủy ban Thẩm phán
Tòa án quân sự quân khu và tương đương nhưng trước ngày 01 tháng 6 năm 2015 mà
vụ án chưa được xét xử thì giao cho Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền theo lãnh thổ, Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương xét
xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
7. Đối với những bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã bị kháng nghị thuộc thẩm quyền
giám đốc thẩm, tái thẩm của các Tòa hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động
Tòa án nhân dân tối cao nhưng trước ngày 01 tháng 6 năm 2015 mà vụ án chưa được
xét xử thì giao cho Ủy ban Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp cao có thẩm quyền theo lãnh thổ xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm,
hoặc tái thẩm;
8. Đối với những bản án, quyết định của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao, những quyết định
của các Tòa hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động Tòa án nhân dân tối
cao, của Tòa án quân sự trung ương đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
tái thẩm nhưng trước ngày 01 tháng 6 năm
2015 mà vụ án chưa được xét xử thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
tiếp tục xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
9. Đối với những bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01 tháng 6 năm 2015 mà Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương chưa chuyển hồ sơ hoặc đã chuyển hồ sơ cho Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao nhưng chưa được giải quyết thì giao cho Tòa
án nhân dân cấp cao có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm;
10. Đối với các đơn khiếu nại, đề nghị xem xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương nhưng trước ngày 01
tháng 6 năm 2015 mà chưa được giải quyết thì giao cho Tòa án nhân dân cấp cao
có thẩm quyền theo lãnh thổ, Tòa án quân sự trung ương giải quyết;
11. Đối với các đơn khiếu nại,
đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao nhưng trước ngày
01 tháng 6 năm 2015 mà chưa được giải quyết thì giao cho Tòa án nhân dân cấp
cao có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết;
12. Đối với các đơn khiếu nại, đề nghị xem xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao, các Tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án quân sự trung ương theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao nhưng trước ngày 01 tháng 6
năm 2015 mà chưa được giải quyết thì Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục giải quyết;
13. Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán
cao cấp được hưởng chế độ lương và phụ cấp của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao theo quy định của pháp luật hiện hành cho đến khi có chế độ lương và phụ cấp
mới.
Điều 3.
1. Tòa án nhân dân tối cao
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tự mình hoặc phối hợp với
các cơ quan hữu quan rà soát lại các văn bản pháp luật có liên quan đến Luật tổ
chức Tòa án nhân dân để hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới theo thẩm
quyền; đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
2. Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm thi hành Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2014.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng
|