BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 43/TB-BGDĐT
|
Hà Nội, ngày
14 tháng 01 năm 2013
|
THÔNG BÁO
KẾT QUẢ HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG
PHỔ THÔNG VIỆT NAM
Trong hai ngày 05 và 06/01/2013, tại thành phố Huế, Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GDĐT) tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ
văn ở trường phổ thông Việt Nam.
Hội thảo do Thứ trưởng Nguyễn Vinh
Hiển chủ trì; tham dự có đại diện lãnh đạo, cán bộ các đơn vị bậc học và các
đơn vị liên quan, Hội đồng bộ môn Ngữ văn của Bộ, một số trường ĐHSP, Viện Văn
học, Viện Ngôn ngữ học, 63 Sở GDĐT.
Hội thảo đã tập hợp được 142 báo
cáo tham luận của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các cán bộ quản lý, giảng
viên và giáo viên các cấp học phổ thông.
Hội thảo đã nhận được nhiều ý kiến
tham gia có chất lượng về đánh giá chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn, nâng
cao chất lượng dạy học Ngữ văn hiện nay; định hướng đổi mới chương trình, sách
giáo khoa, phương pháp dạy học và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên; định hướng dạy
học trong nhà trường phổ thông sau năm 2015.
Tổng hợp các báo cáo và ý kiến thảo
luận, Bộ GDĐT thông báo kết quả hội thảo như sau:
I. Đánh giá về
chương trình, sách giáo khoa; phương pháp dạy
học, kiểm tra đánh giá; công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên thời gian
qua
1. Những kết
quả đạt được
1.1. Chương trình, sách giáo
khoa hiện hành có một bước tiến so với Chương trình, sách giáo khoa trước đó
Về cơ bản, mục tiêu môn học đáp ứng
đúng qui định của Luật Giáo dục và của Chương trình (CT) giáo dục phổ thông,
khá toàn diện và đầy đủ trên 03 bình diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ; CT đã
xác định được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm cơ sở để biên soạn sách giáo khoa,
sách giáo viên để dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; cập nhật khoa học
Ngôn ngữ và Văn học, đã thể hiện được nguyên tắc tích hợp trong dạy học.
Nhìn chung, sách giáo khoa (SGK)
môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình
độ của học sinh; các tác phẩm văn học được bố trí theo thể loại giúp học sinh
có những hiểu biết về đặc trưng thể loại, từ đó hình thành kỹ năng phân tích những
tác phẩm cùng thể loại.
1.2. Về thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra
đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay
Phương pháp dạy học Ngữ văn đã có
những chuyển biến khá tích cực. Nhiều giáo viên Ngữ văn đã bước đầu áp dụng các
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới và công nghệ thông tin, truyền thông vào quá
trình dạy học, bước đầu coi trọng việc chuyển hướng từ giảng văn sang phương
pháp đọc hiểu văn bản.
Về kiểm tra đánh giá: đã bước đầu
quan tâm ra đề theo hướng mở, gắn với các vấn đề cuộc sống. Nhiều giáo
viên đã biết dựa vào chuẩn để xác định nội dung, xây dựng ma trận câu hỏi trắc
nghiệm khách quan, câu hỏi tự luận khi xây dựng đề. Vấn đề đánh giá trong quá
trình dạy học đã từng bước được quan tâm, những nghiên cứu về
PISA bước đầu được ứng dụng vào thực tiễn đọc hiểu văn bản
ở Việt Nam; bước đầu kết hợp giữa đánh giá của giáo viên
và hoạt động tự đánh giá của học sinh.
1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên đã đáp ứng được yêu cầu về kiến thức cơ bản và một phần về chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm
Công tác bồi dưỡng giúp GV bổ sung
kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu dạy học Ngữ văn được tổ chức thường xuyên, định
kì hằng năm đã giúp cho chất lượng giảng dạy bộ môn được cải thiện.
2. Hạn chế cần
khắc phục
2.1. CT chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội
dung còn nhiều trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên
càng mờ nhạt. Việc tách biệt các hợp phần Tiếng Việt và Làm văn trong CT là
không hợp lý. CT và SGK vẫn nặng tính hàn lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
năng lực học sinh – nhất là phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.
Nhiều bài học trong SGK, nhất là ở các lớp trên,
nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS. Một số
nội dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền
núi và những HS có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho
một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT
tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm
không phù hợp với tâm lý của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học
tập của các em.
2.2. Việc
đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực sự chuyển biến,
nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp dạy đọc hiểu
chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho học sinh phương
pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức nhớ,
tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó, chưa
đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường
xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung, phương
pháp dạy và học.
2.3. Chất lượng đầu ra của sinh viên (SV) chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc
dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều SV
sau khi ra trường lúng túng trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập
- thực tập ở nhà trường và thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề
của SV ngày càng sa sút, chưa coi trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, CT đào tạo chưa xác định rõ các
tiêu chí cho các học phần cơ bản/lựa chọn/bắt buộc; các tổ bộ môn trong khoa Ngữ
văn chưa có sự phối hợp tốt, việc cấp chứng chỉ sư phạm chưa được quản lí chặt
chẽ, phương pháp đào tạo lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học
của sinh viên.
Đội ngũ GV thụ động trong việc đáp
ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương trình, sách giáo khoa do ý thức
tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế.
Công tác bồi dưỡng GV tuy được tổ chức thường xuyên, nhưng chưa thực sự xuất
phát từ nhu cầu của giáo viên, hiệu quả thấp.
II. Khuyến nghị của hội thảo
về định hướng và giải pháp đổi mới dạy học Ngữ văn
1. Nâng cao nhận thức về
vị trí, vai trò của dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
Cần nhận thức đúng vị trí,
vai trò của môn Ngữ văn ở trường phổ thông
là: Hình thành và phát triển các năng lực cốt lõi và năng lực đặc
thù của môn học; đặc biệt là năng lực giao tiếp (kiến thức tiếng Việt
cùng với 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả
năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác
nhau trong cuộc sống ) và năng lực cảm thụ, thưởng thức văn học;
bồi dưỡng và nâng cao vốn văn hóa cho người học thông qua những
hiểu biết về ngôn ngữ và văn học, góp phần tích cực giáo dục,
hình thành và phát triển cho HS những tư tưởng, tình cảm nhân văn trong sáng,
cao đẹp.
Với nhận thức như vậy, cần mạnh dạn thay đổi cấu
trúc môn học và cách biên soạn sách giáo khoa không theo lịch sử văn học mà cần
tuyển chọn các văn bản theo hướng phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh, phục vụ
có hiệu quả cho việc rèn luyện các kĩ năng (không phân biệt giai đoạn, thời kì,
trong và ngoài nước). Vấn đề lịch sử văn học sẽ được hệ thống hóa ở các lớp cuối
cấp, các chuyên đề chuyên sâu chỉ dành cho học sinh giỏi, học sinh sẽ dự tuyển
vào ngành văn; các tri thức lí luận văn học sẽ được tích hợp vào quá trình dạy
đọc văn và dạy viết văn nhằm nâng cao tính thiết thực, tránh lí thuyết hàn lâm.
2. Các
năng lực cần hình thành cho học sinh
Theo định
hướng phát triển năng lực, các môn học đều phải góp phần hình thành và phát triển
một số năng lực chung bên cạnh các năng lực chuyên biệt của môn học. Theo yêu cầu
này, môn Ngữ văn có ưu thế trong việc hình thành và phát triển năng lực giao
tiếp (đó là năng lực chung/ năng lực cốt lõi). Ngoài ra cần
trao đổi tiếp để xác định những năng lực chuyên biệt, cụ thể nào
trong môn Ngữ văn cần được hình thành và phát triển ở học sinh. Mức độ các năng
lực ấy được thể hiện vào mục tiêu và chuẩn môn học qua từng cấp/ lớp như thế
nào?
3. Tích hợp
và phân hóa với môn Ngữ văn
Định hướng dạy học theo năng lực
đòi hỏi các môn học tích hợp một số nội dung tri thức và kĩ năng nhằm giải quyết
các tình huống trong học tập và trong cuộc sống. Tích hợp các mạch kiến thức lớn
(văn học, tiếng Việt và Làm văn, văn hóa) trong nội bộ môn học qua trục kĩ
năng. Ngoài ra, cần tích hợp nhiều hơn, tự nhiên hơn những lĩnh vực/ môn học
khác.
Lấy trục kĩ năng làm chính, việc phân
hóa vi mô được thể hiện qua Chuẩn CT các cấp, lớp học và được thực hiện thông
qua quá trình dạy học. Cần chú ý tới hướng tổ chức nội dung môn Ngữ văn đáp ứng
yêu cầu phân hóa vĩ mô thông qua các nội dung học tự chọn ở các lớp trên nhằm mục
đích hướng nghiệp và đáp ứng nhu cầu của các học sinh khác nhau về làm văn và
văn học.
4. Phương
pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
Lựa
chọn sử dụng các phương pháp phù hợp, quan tâm sâu sắc, tác động trực tiếp đến
hoạt động học của học sinh để tạo ra sự chuyển biến trong quá trình học tập.
Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động học tập Ngữ văn, xây dựng
môi trường học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn Ngữ văn. Sử
dụng phối hợp các phương pháp để giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết, hình thành năng lực giao tiếp, trong đó bao gồm cả giao tiếp đời sống
và giao tiếp nghệ thuật. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ
văn, khai thác thế mạnh của internet và các phần mềm dạy học. Mở rộng nghiên cứu
và chắt lọc những kinh nghiệm quốc tế vào dạy học và kiểm tra đánh giá Ngữ văn
– nhất là khoa học về đánh giá thường xuyên trên lớp học. Cần vận dụng các bộ
công cụ đánh giá quốc tế theo hướng của PISA để đo lường năng lực đọc hiểu Ngữ
văn của học sinh. Đổi mới cách ra đề và hướng dẫn chấm phù hợp để đánh giá được
năng lực của người học, tránh hiện tượng học vẹt, viết theo bài văn mẫu, học
tác phẩm nào thi tác phẩm đó.
5. Đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên
Được xác định là khâu then chốt của
quá trình đổi mới; phải thiết kế được một chương trình đào
tạo giáo viên bảo đảm tính khoa học cao, tích hợp giữa khoa học sư phạm và khoa
học cơ bản, đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp GV. Hướng đổi mới quan trọng nhất là rèn
luyện năng lực tự học và năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên, đánh giá
đúng tầm quan trọng và tăng cường các giải pháp, thời lượng cho việc học tập và
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên. Nâng cao nhận thức của GV về tầm quan
trọng của công tác bồi dưỡng. Xác định bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn
nghiệp vụ không chỉ là trách nhiệm của các cấp quản lý mà phải trở thành và xuất
phát từ nhu cầu thường xuyên của mỗi GV. Đa dạng hóa, đổi mới nội dung, phương
pháp, hình thức bồi dưỡng giáo viên nhằm bồi dưỡng toàn diện: về chính trị đạo
đức, phẩm chất, năng lực SP, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực kiến thức bổ trợ
(tin học, ngoại ngữ, năng lực tổ chức hội thảo, nghiên cứu khoa học…). Xác định
trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lí giáo dục, trường sư phạm
và giáo viên, trường phổ thông trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên GV.
Trên đây là kết quả Hội thảo
khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam. Bộ GDĐT
thông báo đến các Sở GDĐT, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông và
các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ GDĐT để biết và nghiên cứu vận dụng trong triển
khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo hiện nay, hướng tới việc
xây dựng và triển khai thực hiện CT, SGK mới giai đoạn sau 2015.
Nơi nhận:
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để phối hợp);
- Các Sở GDĐT; các cơ sở đào tạo,
bồi
dưỡng giáo viên phổ thông (để thực hiện);
- Các đơn vị liên quan (để thực hiện);
- Lưu: VT, Vụ GDTrH.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Vinh Hiển
|