BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01TC/NSNN
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 1 năm 1996
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 01 TC/NSNN NGÀY 03 THÁNG 01 NĂM 1996 HƯỚNG
DẪN MỘT SỐ ĐIỂM VỀ CƠ CHẾ VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU HÀNH NGÂN SÁCH NĂM 1996
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số: 861/TTg, ngày 30 tháng 12 năm 1995 về một số cơ chế, biện pháp quản lý
và điều hành NSNN năm 1996.
Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể một
số điểm sau đây:
I- VỀ PHÂN BỔ
VÀ GIAO NHIỆM VỤ THU, CHI NGÂN SÁCH CHO CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC:
1/ Các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và Tổng cục Hải quan phải giao kế hoạch thu cho các đơn vị trực thuộc
tối thiểu bằng số kế hoạch thu Thủ tướng Chính phủ đã giao cho địa phương và
ngành. Tuỳ tình hình cụ thể của từng địa phương và từng cửa khẩu, có thể giao kế
hoạch phấn đấu thu cho các đơn vị cơ sở cao hơn chỉ tiêu kế hoạch thu Thủ tướng
Chính phủ giao.
2/ Các Bộ, ngành, tỉnh và thành
phố trực thuộc trung ương phân bổ và giao kế hoạch chi ngân sách cho các đơn vị
trực thuộc phải phù hợp với kế hoạch chi ngân sách của Bộ, địa phương đã được
Chính phủ giao.
II- VỀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH CHO CÁC ĐỊA PHƯƠNG NĂM 1996
1/ Nhiệm vụ chi
của ngân sách địa phương:
Nhiệm vụ chi của NSĐP năm 1996
cơ bản vẫn thực hiện như năm 1995 (quy đinh tại quyết đinh số 829/TTg ngày
30/12/1994 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 06 TC/NSNN ngày 6/1/1995 của
Bộ Tài chính). Chỉ bổ sung và sửa đổi một số điểm như sau:
a. Chuyển nhiệm vụ chi bổ sung vốn
cho các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý trước đây về NSTW đảm bảo,
thông qua Tổng cục quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp.
b. Bổ sung một số nhiệm vụ chi của
NSĐP:
- Trong chi về đầu tư XDCB địa phương,
ngoài nguồn vốn XDCB tập trung do Nhà nước phân bổ, địa phương còn được bố trí
thêm vốn từ các nguồn.
+ 100% số thu giao quyền sử dụng
đất để xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ 100% số thu về bán nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước để đầu tư phát triển quỹ nhà.
+ Nguồn thu xổ số kiến thiết: để
lại 100% cho NSĐP, trong đó được sử dụng toàn bộ hoặc một phần để đầu tư mới,
nâng cấp, sửa chữa các công trình giáo dục, y tế, phúc lợi theo nguyên tắc:
Số thu từ 20 tỷ đồng trở xuống:
được sử dụng toàn bộ cho đầu tư, nâng cấp, sửa chữa các công trình phúc lợi.
Số thu trên 20 tỷ đồng sử dụng
thêm cho đầu tư, nâng cấp, sửa chữa các công trình phúc lợi theo tỷ lệ 34,7%;
phần còn lại (65,3%) địa phương được sử dụng để cân đối chi sự nghiệp giáo dục,
y tế, văn hoá xã hội của địa phương. Về nội dung này Bộ Tài chính sẽ có một văn
bản hướng dẫn riêng.
Ví dụ:
- Tỉnh A có số thu XSKT 15 tỷ đồng,
được sử dụng cả 15 tỷ đồng cho đầu tư.
- Tỉnh B có số thu XSKT 50 tỷ dồng,
phần được sử dụng cho đầu tư là 30,41 tỷ đồng { 20 tỷ + (50-20) x 34,7%)}
+ Nguồn thu sử dụng đất nông
nghiệp trồng lúa: để lại 100% cho NSĐP, trong đó địa phương được sử dụng 45% số
thu để đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn với các nội dung cơ bản
là xây dựng, cải tạo, nâng cấp, sửa chữa... các công trình thuỷ lợi, các trạm
trại nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn (chủ yếu giao thông). Phần còn lại
(55%) được sử dụng để cân đối chi thường xuyên.
Các nguồn thu về quỹ đất, quỹ
nhà, XSKT và thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa, các tỉnh, thành phố phải
đưa vào cân đối trong kế hoạch để bố trí các khoản chi XDCB một mặt phải tổ chức
quản lý chặt chẽ để đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm; mặt khác cần theo dõi
riêng để đảm bảo chi phù hợp với tiến độ khả năng thu phát sinh, tránh tình trạng
chi quá khả năng thu gây bị động trong điều hành ngân sách. Tỷ lệ (%) dành cho
đầu tư của từng nguồn thu theo quy định trên được thực hiện thống nhất trong
quá trình điều hành ngân sách.
- Trong chi sự nghiệp kinh tế, bổ
sung thêm nhiệm vụ:
+ Chi trợ cấp tiền điện bơm nước
tiêu úng vượt định mức: khoản chi này phải quản lý theo dõi chặt chẽ, không được
sử dụng vào mục đích khác. Trường hợp trong năm chưa dùng hết số kinh phí đã bố
trí trong kế hoạch, phần còn lại được chuyển sang năm sau để chi tiếp cho nhiệm
vụ này.
+ Chi hỗ trợ bù hụt thu thuỷ lợi
phí cho những tỉnh thường bị ngập úng.
- Trong chi trợ giá chính sách,
ngoài các nội dung chi trợ giá giống gốc, sách báo văn hoá phẩm, thực hiện chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 132/TB ngày 4/10/1995 của Văn
phòng Chính phủ, đã bố trí khoản nợ cước vận chuyển các mặt hàng chính sách miền
núi và kinh phí tương ứng với khoản cấp phát không thu tiền 4 mặt hàng chính
sách miền núi (Công văn số 1960/KTTH ngày 15/4/1994 của Chính phủ) để địa
phương có điều kiện thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi ở
địa phương. Liên Bộ Tài chính - Kế hoạch đầu tư - Uỷ ban dân tộc và miền núi sẽ
có văn bản hướng dẫn cụ thể sau:
2/ Phân định
nguồn thu giữa NSTW và NSĐP
Để ốn định nguồn thu và khuyến
khích các địa phương khai thác có hiệu quả các nguồn thu; việc phân định các
nguồn thu thực hiện như sau:
a. Các khoản thu NSĐP hưởng
100%, bao gồm:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Thuế nhà, đất
- Tiền thuê đất (không kể tiền
thuê đất, mặt nước đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
- Tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà
nước
- Thu giao quyền sử dụng đất
- Thu từ hoạt động sổ số kiến
thiết
- Thuế môn bài
- Thuế sát sinh
- Lệ phí trước bạ
- Thu khác từ khu vực công
thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh
- Thu phí và lệ phí địa phương
- Thu khác của NSĐP (không kể
thu về tiền sử dụng vốn ngân sách, thu hoàn vốn và thu khác từ doanh nghiệp Nhà
nước).
b. Các khoản thu ngân sách địa
phương được hưởng theo tỷ lệ điều tiết chung, gồm:
- Thuế doanh thu
- Thuế lợi tức (trừ thuế lợi tức
của các đơn vị hạch toán toàn ngành) và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trừ
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của liên doanh dầu khí).
- Thuế thu nhập (trừ thuế thu nhập
của công nhân dầu khí).
- Thuế tài nguyên (trừ thuế tài
nguyên nước thuỷ điện Hoà Bình).
- Thu sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước.
c. Thu phạt vi phạm hành chính về
trật tự an toàn giao thông và đô thị: NSTW 30%, NSĐP 70%.
d. Các khoản thu từ hoạt động
khai thác dầu thô, các khoản thu từ xí nghiệp kinh tế Đảng (thành lập trước
ngày 1/7/1992, trường hợp thành lập sau ngày 1/7/1992 phải được sự đồng ý của
Thủ tướng Chính phủ) và các khoản thu không quy định tại điểm (a), (b) và (c)
trên đây, nộp 100% vào NSTW.
e. Nguồn bổ sung từ NSTW: nếu
các khoản thu quy định tại điểm (a) và các khoản quy định tại điểm (b) tối đa
100% vẫn không đảm bảo được nhiệm vụ chi được giao thì NSTW bổ sung cho NSĐP đảm
nhiệm đủ chi.
3/ Ổn định nhiệm
vụ chi và nguồn thu cho ngân sách địa phương Trên cơ sở nhiệm vụ chi, nguồn thu
và phương thức cân đối ngân sách theo các điểm (1), (2) trên đây, thực hiện ổn
định nhiệm vụ chi, nguồn thu và cân đối ngân sách cho địa phương trong 2 năm
1996 -1997:
a. Tỷ lệ các hoản thu để lại cho
NSĐP nêu tại mục (a), (b), (c) của điểm 2 được ổn định trong 2 năm 1996, 1997.
b. Đối với các địa phương phải
nhận bổ sung từ NSTW: Những tỉnh thuộc diện này, do nguồn thu hạn hẹp nên khả
năng tăng thu không lớn; vì vậy khi xác định số bổ sung năm 1997 giữ ổn định mức
bổ sung như năm 1996 và có xem xét điều chỉnh hỗ trợ thêm một phần. Mức bổ sung
tăng thêm được tính trên cơ sở tỷ lệ giữa số bổ sung từ NSTW với nhiệm vụ chi kế
hoạch 1996 đã giao cho địa phương, tỷ lệ trượt giá của năm 1996 và khả năng của
NSNN. Như vậy việc xác định số bổ sung thêm này không căn cứ vào hiệu số giữa
chi NSĐP và thu NSĐP hưởng như trước.
Ví dụ: Tỉnh A:
- Kế hoạch năm 1996 giao:
+ Số thu NSĐP được hưởng: 50 tỷ
+ Số chi NSĐP: 200 tỷ
+ Số bổ sung từ NSTW cho tỉnh:
150 tỷ
- Năm 1997 xác định số bổ sung
tăng thêm từ NSTW như sau:
+ Tỷ lệ giữa số bổ sung với chi
= 150/200 = 0,75
+ Giá sử tỷ lệ trượt giá thực hiện
1996 là 12% = 0,12
+ Số bổ sung từ NSTW tăng thêm sẽ
là: 150 tỷ x 0,12 x 0,75 = 13,5 tỷ
c. Trong quá trình điều hành
ngân sách năm 1997, nếu có biến động lớn về thu, chi thì được xử lý như sau:
- Số thu tăng do yếu tố quản lý
tích cực của địa phương và do tăng trưởng kinh tế, địa phương được hưởng theo
phân cấp đã quy định và được quyền bố trí tăng chi cho đầu tư phát triển, tăng
quỹ dự trữ tài chính và để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng chưa bố trí được
trong dự toán ngân sách đầu năm.
- Số thu hàng năm tăng do khách
quan như do có doanh nghiệp mới thành lập, tuỳ theo mức thu, Chính phủ xem xét
giao thêm nhiệm vụ chi cho NSĐP hoặc điều chỉnh tỷ lệ để lại hoặc số phải bổ
sung từ NSTW.
- Số thu giảm hoặc chi tăng lớn
do Nhà nước sửa đổi chính sách thì sẽ được xem xét xử lý trong mối quan hệ giữa
các cấp ngân sách theo nguyên tắc nếu biến động lớn vượt quá khả năng của địa
phương phải xem xét để điều chỉnh cho phù hợp.
- Từ năm 1996 thực hiện cơ chế ổn
định nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách; không thực hiện cơ chế thưởng
vượt kế hoạch từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
d. Nhằm tạo điều kiện cho các địa
phương ổn định nhiệm vụ thu chi, địa phương có quyền:
- Được thu một số khoản phụ thu
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
- Được ban hành chế độ và thu một
số khoản phí, lệ phí theo phân cấp của Thủ tướng Chính phủ. Được huy động đóng
góp của nhân dân để xây dựng các công trình phúc lợi của địa phương (bệnh viện,
trường học, và phúc lợi công cộng...).
- Được huy động các nguồn vốn
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ để đáp ứng các nhu cầu đầu tư xây dựng cơ
bản cấp bách khi nguồn thu chưa đảm bảo.
e. Về Xây dựng và tổng hợp dự
toán ngân sách Nhà nước:
- Trên cơ sở chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về xây dựng dự án NSNN năm 1997, Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng
dẫn và dự kiến số kiểm tra thu, chi ngân sách cho từng Bộ, từng địa phương để
các Bộ, địa phương tính toán, xây dựng dự toán thu, chi ngân sách theo các định
hướng chung của Nhà nước.
- Theo thời gian quy định, các Bộ,
các địa phương sẽ làm việc với Bộ Tài chính về kế hoạch ngân sách của mình để Bộ
Tài chính có cơ sở tham gia định hướng bố trí ngân sách với các Bộ, các địa
phương và có căn cứ tổng hợp dự toán ngân sách Nhà nước trình Quốc hội.
- Dự toán thu, chi ngân sách
hàng năm các cấp ở địa phương phải gửi lên cấp trên; xã gửi Chủ tịch UBND huyện
(qua phòng Tài chính); huyện, xã gửi Chủ tịch UBND tỉnh (qua sở tài chính đối với
các địa phương không còn ngân sách cấp huyện), tỉnh gửi Thủ tướng Chính phủ
(qua Bộ Tài chính) để xem xét dự toán thu, chi ngân sách có đảm bảo đúng phương
hướng của Nhà nước và của địa phương không. Trong vòng 15 ngày cấp trên phải
xem xét và có ý kiến về dự toán ngân sách của cấp dưới, quá thời hạn trên, nếu
không có ý kiến gì của cơ quan cấp trên, thì địa phương được tổ chức thực hiện
ngân sách do địa phương xây dựng.
III- VỀ THỰC
HIỆN, QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH NGÂN SÁCH NĂM 1996
1/ Về thu
ngân sách:
- Các Bộ, ngành và các địa
phương cần khẩn trương làm tốt công tác phân bổ kế hoạch thu cho các đơn vị trực
thuộc, từ đó có căn cứ chỉ đạo tốt công tác thu ngân sách ngay từ đầu năm.
- Ngành Hải quan cần phối hợp chặt
chẽ với ngành thuế tổ chức tốt công tác thu thuế XNK, đồng thời chỉ đạo hệ thống
thu theo dõi hạch toán rõ ràng số thu thuế XNK ở từng cửa khẩu.
- Ngành thuế, Hải quan cần khẩn
trương đổi mới các biện pháp thu thuế:
+ Đánh giá cụ thể kết quả thực
hiện thu ngân sách năm 1995, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm để
có biện pháp thực hiện công tác thu năm 1996.
+ Tiếp tục tranh thủ sự chỉ đạo,
lãnh đạo của cấp trên, cấp uỷ và chính quyền địa phương trong công tác đôn đốc,
thực hiện thu thuế trên địa bàn.
+ Hướng dẫn các doanh nghiệp Nhà
nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (nhất là các hộ lớn) thực hiện tốt chế
độ kế toán, có chế độ quản lý hoá đơn bán hàng để có căn cứ nắm chắc nguồn thu,
đôn đốc thu nộp các khoản thu phát sinh vào ngân sách Nhà nước; điều chỉnh
doanh thu tính thuế kịp thời, chống thất thu có hiệu quả.
+ Chấn chỉnh, tăng cường công
tác kiểm tra chống thất thu ngân sách, chống thất thu về đối tượng nộp thuế,
doanh thu và chi phí bất hợp lý.
+ Thường xuyên củng cố và kiện
toàn bộ máy để có lực lượng làm tốt nhiệm vụ thu được giao.
2/ Về chi
ngân sách:
- Các khoản chi ngân sách phải
được phân bổ cụ thể và đúng mục địch trên cơ sở nhiệm vụ chi ngân sách năm 1996
của từng Bộ, ngành, địa phương đã được Thủ tướng Chính phủ giao. Trong quá
trình thực hiện, điều hành đảm bảo chi đúng mục tiêu, đúng đối tượng và theo
đúng dự toán được duyệt. Thủ trưởng các Bộ, ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và thủ trưởng các đơn vị cơ sở chịu trách nhiệm
về quản lý, sử dụng có hiệu quả kinh phí ngân sách Nhà nước.
- Các đơn vị sử dụng kinh phí
NSNN phải lập kế hoạch chi hàng quý (chia ra tháng) và quyết toán quý gửi cơ
quan Tài chính đồng cấp; các trường hợp không có báo cáo tình hình sử dụng kinh
phí NSNN quý trước mà không có lý do chính đáng thì cơ quan tài chính phải đình
chỉ cấp phát ngân sách quý tiếp theo (trừ các khoản chi lương và có tính chất
lương) cho đến khi đơn vị có báo cáo.
- Những khoản chi đã ghi kế hoạch
và có nguồn thu đảm bảo, các Bộ ngành, địa phương và đơn vị không được cắt giảm.
Cơ quan tài chính các cấp phải cấp phát kịp thời theo tiến độ thực hiện công việc,
không được cấp dồn vào cuối quý, cuối năm.
-Tiếp tục
đình chỉ các khoản chi xây dựng trụ sở mới, mua sắm ô tô và trang bị nội thất đắt
tiền trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan đảng và đoàn thể có sử dụng
kinh phí từ nguồn ngân sách cấp phát. Những trường hợp đặc biệt cần thiết, các
địa phương, các cơ quan đơn vị phải báo cáo cụ thể để Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch
và đầu tư thẩm tra trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Chỉ bố trí kế hoạch chi và cấp
phát chi trong phạm vi nguồn thu chắc chắn, trong tổng mức đã giao. Trường hợp
thu không đạt kế hoạch phải giảm chi tương ứng. Riêng những địa phương có số
thu tăng thì phần tăng thu được dành cho đầu tư phát triển, tăng quỹ dự trữ tài
chính và để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng chưa bố trí được trong dự toán
ngân sách đầu năm.
- Việc sửa đổi, bổ sung các chế
độ chính sách làm giảm thu hoặc tăng chi chỉ được thực hiện khi có nguồn thu đảm
bảo và phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các Bộ, ngành, địa phương và đơn
vị không được tuỳ tiện ban hành các chế độ thu, chi trái với các quy định
chung.
- Những công việc phát sinh
ngoài kế hoạch, nếu chính đáng và cấp thiết (kể cả xảy ra hoả hoạn, đói kém,
thiên tai diện vừa và nhỏ) các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị chủ động sắp xếp
lại nhiệm vụ chi trong phạm vi tổng mức kinh phí được giao cả năm để có nguồn
đáp ứng.
- Nguồn thu về bảo hiểm y tế, viện
phí theo các chế độ đã ban hành là những nguồn thu quan trọng để hỗ trợ cho
công việc khám chữa bệnh, phải được quản lý chặt chẽ đảm bảo sử dụng hiệu quả.
Tập trung kinh phí từ nguồn NSNN vào công tác phòng bệnh, chữa bệnh cho các đối
tượng chính sách, người quá nghèo và thực hiện các chương trình Quốc gia quan
trọng.
- Cơ quan bảo hiểm xã hội phải sớm
hoàn thiện bộ máy, phối hợp chặt chẽ với ngành tài chính đảm bảo thu đầy đủ
BHXH theo chế độ quy định, thực hiện quản lý chi trả đúng chính sách cho người về
hưu, các đối tượng xã hội.
-Về tiết kiệm chi:
+ Các Bộ, ngành, địa phương và
đơn vị cơ sở bao gồm cả lĩnh vực HCSN, XDCB, an ninh quốc phòng, sau khi nhận
được kế hoạch chi phải xây dựng phương án tiết kiệm cụ thể. Nội dung và các biện
pháp tiết kiệm phải thực hiện đúng chỉ thị số 368/TTg ngày 22/6/1995 của Thủ tướng
Chính phủ; số kinh phí tiết kiệm được để lại cho đơn vị sử dụng vào những việc
có hiệu quả, thiết thực mà đầu năm chưa bố trí trong kế hoạch; đơn vị phải có
phương án sử dụng cụ thể báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp để theo dõi, quản
lý. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước phải đăng ký mức và biện pháp tiết kiệm
chi, phần lợi nhuận tăng thêm do thực hiện tiết kiệm, doanh nghiệp Nhà nước được
quyền giữ lại đầu tư SXKD sau khi nộp thuế lợi tức theo quy định.
+ Việc xây dựng phương án tiết
kiệm, các Bộ, tỉnh, thành phố phải xong trong tháng 1/1996 và có báo cáo gửi Bộ
Tài chính. Bộ tài chính tổng hợp toàn quốc báo cáo Chính phủ và Quốc hội.
3/ Đối với
các chương trình mục tiêu quốc gia:
- Chương trình mục tiêu: Phổ cập
cấp 1 và xoá mù chữ, thực hiện chính sách giáo dục đối với miền núi và dân tộc,
tăng cường cơ sở vật chất các trường giáo dục, phân ban trung học, bồi dưỡng
giáo viên, biên soạn lại giáo trình đào tạo, nâng cấp các trường đào tạo (bao gồm
sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị đào tạo, tin học, ngữ âm), nâng cấp các bệnh
viện, trùng tu di tích lịch sử, đưa văn hoá thông tin về cơ sở, phát triển điện
ảnh phủ sóng phát thanh vùng núi, vùng cao biên giới, hải đảo, vùng sâu; chống
ma tuý, chống tệ nạn mại dâm; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; đưa
truyền hình về vùng núi, vùng cao biên giới và hải đảo. Các chương trình mục
tiêu nói trên do Trung ương phân bổ kế hoạch.
Nhiệm vụ của cơ quan chủ quản
chương trình mục tiêu và nhiệm vụ của các Bộ, các địa phương trong công tác quản
lý thực hiện chương trình mục tiêu như sau:
+ Các cơ quan chủ quản chương
trình phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư giúp Chính phủ phân bổ
nhiệm vụ chi thực hiện chương trình mục tiêu cho từng Bộ, từng địa phương; hướng
dẫn và kiểm tra tình hình thực hiện; chấm dứt việc xét duyệt cụ thể từng danh mục,
dự án trong tổng mức chương trình mục tiêu đã giao cho các Bộ, các địa phương để
giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà.
+ Các Bộ, các địa phương có
trách nhiệm phân bổ, xét duyệt và quyết định cụ thể danh mụ, dự án trong tổng mức
các chương trình mục tiêu đã được giao; báo cáo kết quả phân bổ với cơ quan chủ
quản chương trình mục tiêu, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư để có căn cứ phối
hợp kiểm tra giám sát quá trình thực hiện chương trình mục tiêu; thực hiện quyết
toán chi theo đúng quy định hiện hành.
+ Đối với phần các Bộ, cơ quan
Trung ương thực hiện, kinh phí được giao trong kế hoạch chi thường xuyên của
các Bộ, cơ quan; đối với phần do các địa phương thực hiện, kinh phí được tính
vào NSĐP (là một nhiệm vụ chi của NSĐP) và giao cho địa phương quản lý thực hiện.
Các địa phương có trách nhiệm phân bổ chi tiết cho từng đơn vị được giao thực
hiện phù hợp với tổng thể của từng chương trình, mục tiêu đã được Trung ương
thông báo, đồng thời quản lý chặt chẽ từng chương trình mục tiêu, nhằm thực hiện
đúng mục đích và có hiệu quả.
- Các chương trình mục tiêu: Chống
bệnh sốt rét, bướu cổ, chống bệnh phong, chống bệnh lao, chống HIV, dân số
KHHGĐ, giúp trẻ em suy dinh dưỡng và gặp khó khăn, tiêm chủng mở rộng, sắp xếp
lao động và giải quyết việc làm, phủ xanh đồi núi trọc (327), phát triển công
nghệ thông tin, chương trình dinh dưỡng do các Bộ chủ quản chương trình phối hợp
cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, phân bổ và thông báo cho các địa
phương để phối hợp quản lý. NSTW trực tiếp cấp phát kinh phí của chương trình
do các cơ quan Trung ương thực hiện và cấp uỷ quyền qua sở tài chính vật giá tỉnh,
thành phố. Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình sắp xếp
lao động và giải quyết việc làm, thực hiện phương thức cấp phát cho vay qua kho
bạc Nhà nước như năm 1995. Riêng chương trình phủ xanh đất trống đồng bằng và
bãi bồi ven biển (773) sẽ có hướng dẫn sau.
- Cơ quan tài chính ưu tiên cấp
phát kinh phí cho các chương trình, mục tiêu để đảm bảo tiến độ công việc (đối
với các địa phương thuộc diện nhận bổ sung từ NSTW, cần lập kế hoạch chi thực
hiện chương trình mục tiêu hàng quý gửi Bộ Tài chính để bổ sung ngân sách cho tỉnh
có đủ nguồn kinh phí thực hiện). Cơ quan chủ quản chương trình phối hợp với Bộ
Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát để đảm bảo chi đúng đối tượng, đúng chế độ, theo mục tiêu đã đề ra. UBND
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý,
chỉ đạo và điều hành các chương trình trên địa bàn và công bố công khai cho nơi
thực hiện biết kinh phí bố trí cho từng chương trình để chủ động triển khai thực
hiện.
4/ Về quỹ dự trữ
tài chính nhà nước và sử dụng dự phòng NSNN:
a) Quỹ dự trữ tài chính nhà nước:
- Chỉ có ngân sách Trung ương và
ngân sách tỉnh được hình thành quỹ dự trữ tài chính; quỹ dự trữ tài chính của
NSTW được hình thành từ nguồn chi NSTW hàng năm và do Bộ trưởng Bộ Tài chính quản
lý; quỹ dự trữ tài chính ngân sách tỉnh được hình thành từ nguồn tăng thu và kết
dư ngân sách tỉnh hàng năm và do Chủ tịch UBND tỉnh quản lý.
- Quỹ dự trữ tài chính nhà nước
(quỹ dự trữ tài chính Trung ương, quỹ dự trữ Tài chính ngân sách tỉnh) được quản
lý theo nguyên tắc bảo tồn và không ngừng tăng thêm, quỹ chỉ được sử dụng tạm
thời khi cân đối ngân sách gặp khó khăn do nguồn thu chưa tập trung kịp và phải
hoàn trả vào cuối năm.
b) Sử dụng dự phòng NSNN:
- Các cấp ngân sách đều được bố
trí khoản dự phòng (dự bị phí). Dự phòng ngân sách của từng cấp chỉ được sử dụng
cho những nhiệm vụ chi đột xuất và do cấp có thẩm quyền quyết định trên nguyên
tắc đảm bảo được cân đối ngân sách được Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp
thông qua.
- Thẩm quyền quyết định chi từ dự
phòng NSNN thực hiện như sau:
+ Đối với dự phòng NSTW, Bộ trưởng
Bộ Tài chính sau khi tham khảo ý kiến của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư, quyết
định bổ sung dự toán cho các Bộ, địa phương các khoản chi từ 1.000 triệu đồng
trở xuống để khắc phục hậu quả thiên tai dịch hoạ và các nhu cầu khấn cấp khác,
hoặc đã có kế hoạch nhưng không đủ, sau đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ và chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về các quyết định đó; đối với các khoản
chi chưa có kế hoạch hoặc vượt kế hoạch trên 1.000 triệu đồng, trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét quyết định.
+ Đối với việc sử dụng dự phòng
của NSĐP để bổ sung chi cho các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương quản lý và cho
ngân sách cấp dưới, cơ quan tài chính - vật giá, sau khi tham khảo ý kiến của
các ban, ngành liên quan, trình Chủ tịch UBND tỉnh xem xét quyết định hoặc thực
hiện theo sự phân cấp của Chủ tịch UBND tỉnh.
5/ Kiểm soát
chi NSNN:
Về nguyên tắc, mọi khoản chi từ
NSNN đều phải được kiểm tra kiểm soát chặt chẽ ở các khâu trước, trong và sau
khi cấp phát. Tuỳ theo nội dung, tính chất của từng khoản chi cần có các biện
pháp, phương thức cấp phát kiểm tra kiểm soát phù hợp. Bộ Tài chính sẽ có văn bản
quy định chi tiết về trình tự, thủ tục điều kiện, phương thức cấp phát thanh
toán, hạch toàn kế toán cho từng khoản chi đảm bảo chi đúng chế độ, đúng mục
đích, tiết kiệm.
IV- TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Các Bộ, ngành, UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào Quyết định số 861/TTg ngày
30/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn này để tổ chức, hướng
dẫn các cơ quan, đơn vị và các cấp chính quyền thuộc địa phương thực hiện.
2. Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/1996. Quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về
Bộ Tài chính để hướng dẫn bổ sung.