QUỐC HỘI
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 67-LCT/HĐNN8
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 4 năm 1992
|
LUẬT
CỦA QUỐC HỘI SỐ 67-LCT/HĐNN8 NGÀY 15/04/1992 VỀ BẦU CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM
Căn cứ vào các Điều 7, 9, 54 và
91 của Hiến pháp năm 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Điều 2
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc
hội theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp
luật hoặc Tòa án nhân dân tước các quyền đó.
Điều 3
Đại biểu Quốc hội phải là người
trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc
đổi mới làm cho dân giàu, nước mạnh, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện
nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước, có phẩm chất và đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, được nhân dân
tín nhiệm.
Điều 4
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức
hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
Điều 5
Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố
và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội
bảo đảm cho việc bầu cử tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.
Chính phủ chỉ đạo Uỷ ban nhân
dân các cấp thực hiện công tác bầu cử theo pháp luật.
Điều 6
Kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu
Quốc hội do ngân sách Nhà nước đài thọ.
Chương 2:
SỐ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 7
Tổng số đại biểu Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không quá bốn trăm người.
Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương được bầu ít nhất ba đại biểu.
Thủ đô Hà Nội được phân bổ số đại
biểu thích đáng.
Điều 8
Đại biểu Quốc hội do từng đơn vị
bầu cử bầu ra. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể là một đơn vị bầu cử
hoặc chia thành nhiều đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu không quá ba đại
biểu.
Số đơn vị bầu cử, danh sách các
đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị được tính căn cứ theo số dân do Uỷ ban thường
vụ Quốc hội ấn định và được công bố chậm nhất là bảy mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 9
Số đại biểu Quốc hội người dân tộc
thiểu số trong mỗi khoá Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định, bảo đảm
để thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng.
Điều 10
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều
khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri.
ở miền núi, hải đảo và những nơi
dân cư không tập trung, dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng có thể lập một khu vực
bỏ phiếu.
Bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an
dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi cử tri trở lên có thể lập thành
khu vực bỏ phiếu riêng.
Đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân thành lập những khu vực bỏ phiếu riêng.
Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn định và do Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp
chuẩn y.
Chương 3:
CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU CỬ QUỐC HỘI
Điều 11
Phụ trách tổ chức việc bầu cử đại
biểu Quốc hội có:
- Hội đồng bầu cử ở trung ương;
- Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương;
- Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
- Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
Điều 12
Chậm nhất là chín mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử từ mười lăm đến
hai mươi mốt người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, đại diện Chính phủ.
Hội đồng bầu cử bầu ra Chủ tịch,
một hoặc hai Phó Chủ tịch và Tổng thư ký.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử
trong cả nước, kiểm tra đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu
cử đại biểu Quốc hội;
2- Công bố danh sách những người
ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước;
3- Xét và giải quyết khiếu nại về
công tác của các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; xét và giải quyết khiếu
nại về công tác bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử chuyển đến;
4- Tiếp nhận và kiểm tra biên bản
do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử
trong cả nước;
5- Xét và quyết định việc bầu lại,
bầu thêm hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử ở các đơn vị bầu cử;
6- Tuyên bố kết quả bầu cử trong
cả nước;
7- Cấp giấy chứng nhận cho đại
biểu trúng cử;
8- Trình Quốc hội biên bản tổng
kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về bầu cử.
Điều 13
Chậm nhất là bẩy mươi ngày trước
ngày bầu cử, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban nhân dân phối hợp
với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập Uỷ ban bầu cử từ bẩy đến
chín người, trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện chính
quyền cùng cấp.
Uỷ ban bầu cử bầu ra Chủ tịch,
Phó Chủ tịch và Thư ký.
Uỷ ban bầu cử có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1- Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ
chức bầu cử ở các đơn vị bầu cử; in thẻ cử tri và phiếu bầu theo mẫu của Hội đồng
bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc chấp
hành những quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Ban bầu cử,
Tổ bầu cử;
3- Nhận đơn và hồ sơ của những
người ứng cử;
4- Lập danh sách những người ứng
cử theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử quyết định.
5- Xét và giải quyết khiếu nại về
bầu cử, về hoạt động của Ban bầu cử hoặc do Ban bầu cử chuyển đến;
6- Nhận và kiểm tra biên bản bầu
cử;
7- Thông báo kết quả bầu cử
chung ở địa phương;
8- Báo cáo tình hình tổ chức và
tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử;
9- Chuyển hồ sơ, biên bản bầu cử
lên Hội đồng bầu cử;
10- Tổ chức việc bầu lại, bầu
thêm theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Điều 14
Chậm nhất là sáu mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với
Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu
cử từ chín đến mười lăm người, trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
đại diện chính quyền địa phương.
Ban bầu cử bầu ra Trưởng ban, một
hoặc hai Phó Trưởng ban và các Thư ký.
Ban bầu cử có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi
hành các quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội của các Tổ bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí
các phòng bỏ phiếu;
3- Xét và giải quyết khiếu nại về
công tác của các tổ bầu cử;
4- Phân phối phiếu bầu cử cho
các tổ bầu cử, chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu cử;
5- Kiểm tra việc lập và niêm yết
danh sách cử tri;
6- Niêm yết danh sách những người
ứng cử trong đơn vị bầu cử;
7- Xét và giải quyết khiếu nại về
người ứng cử;
8- Kiểm tra công việc bầu cử tại
các phòng bỏ phiếu;
9- Tiếp nhận, kiểm tra biên bản
kiểm phiếu do các tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản xác định kết quả bầu cử trong
đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử và tuyên bố kết quả đó;
10- Báo cáo tình hình tổ chức và
tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử và Uỷ ban bầu cử;
11- Giao hồ sơ, tài liệu về bầu
cử cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
12- Tổ chức việc bầu lại, bầu
thêm theo quy định của Luật này.
Uỷ địa phương chỉ có một đơn vị
bầu cử thì Uỷ ban bầu cử thực hiện những quyền hạn và nhiệm vụ của Ban bầu cử
và không thành lập Ban bầu cử.
Điều 15
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực bỏ
phiếu một Tổ bầu cử gồm từ năm đến mười một người trong đó có đại diện Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và đại diện chính quyền địa phương.
Các đơn vị lực lượng vũ trang
nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử từ năm đến
chín người đại diện đơn vị.
Tổ bầu cử bầu bầu ra Tổ trưởng,
một Phó Tổ trưởng và các thư ký.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1- Tổ chức việc bầu cử trong khu
vực bỏ phiếu;
2- Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn
bị hòm phiếu;
3- Phát phiếu bầu cử có đóng dấu
của Tổ bầu cử cho các cử tri;
4- Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ
phiếu;
5- Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm
phiếu để gửi lên Ban bầu cử;
6- Giao biên bản kiểm phiếu và tất
cả những phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
7- Báo cáo tình hình tổ chức và tiến
hành bầu cử theo quy định của cấp trên.
Điều 16
Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử,
Ban bầu cử và Tổ bầu cử không được vận động bầu cử cho những người ứng cử.
Điều 17
Các tổ chức phụ trách bầu cử làm
việc theo chế độ tập thể, các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần
ba tổng số thành viên tham dự. Các quyết định được thông qua khi có đa số biểu
quyết tán thành.
Các tổ chức phụ trách bầu cử có
thể trưng tập cán bộ, nhân viên của các cơ quan Nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ
chức xã hội giúp việc theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng bầu cử, Chủ tịch Uỷ
ban bầu cử hoặc của Trưởng ban bầu cử.
Điều 18
Các cơ quan và nhân viên Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình phải tạo điều kiện thuận lợi giúp Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu
cử và Tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Điều 19
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ sau
khi đã trình Quốc hội biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ, tài liệu về bầu
cử. Các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu
cử tuyên bố kết quả bầu cử trong cả nước.
Chương 4:
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều 20
Trong thời gian lập danh sách cử
tri, công dân có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên hay tạm thời
ở đâu đều được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi đó.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào
danh sách ở một nơi cư trú.
Điều 21
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong các đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân do Ban chỉ huy đơn vị lập theo mỗi khu vực bỏ phiếu.
Điều 22
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri phải niêm yết danh sách đó tại trụ sở
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc tại những nơi công cộng của khu vực bỏ
phiếu và phải thông báo rộng rãi việc niêm yết để nhân dân kiểm tra danh sách cử
tri.
Điều 23
Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu
thấy có sai lầm hoặc thiếu sót, thì trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày
niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng miệng hoặc bằng giấy với
cơ quan lập danh sách cử tri, cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những
khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại
hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết và thông báo cho người
khiếu nại hoặc báo cáo biết kết quả giải quyết.
Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo
không đồng ý về cách giải quyết đó, thì có quyền khiếu nại lên Tòa án nhân dân
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Tòa án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Tòa
án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Điều 24
Từ khi công bố danh sách cử tri
cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu
ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri, thì có quyền xin giấy chứng nhận của
Uỷ ban nhân dân nơi đó để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu
ở nơi mới đến. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban nhân dân phải ghi ngay vào danh
sách, bên cạnh tên cử tri: "Đi bỏ phiếu nơi khác".
Chương 5:
ỨNG CỬ, ĐỀ CỬ VÀ HIỆP
THƯƠNG GIỚI
THIỆU NGƯỜI ỨNG CỬ ĐAỊ BIỂU QUỐC
HỘI
Điều 25
Công dân muốn ứng cử đại biểu Quốc
hội theo quy định của Luật này, thì chậm nhất sáu mười ngày trước ngày bầu cử phải
nộp tại Uỷ ban bầu cử nơi mình ứng cử đơn xin ứng cử kèm theo sơ yếu lý lịch và
giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú về quyền ứng
cử theo quy định tại Điều 2 của Luật này.
Điều 26
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị gồm đại diện các tổ chức thành viên
để hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người của
các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước ở trung ương giới thiệu
ra ứng đại biểu Quốc hội. Đại diện Hội đồng bầu cử được mời dự hội nghị này.
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức hội nghị gồm đại diện các
tổ chức thành viên để hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và phân bổ số
lượng người ở địa phương mình được giới thiệu ra ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại
diện Uỷ ban bầu cử được mời dự hội nghị này.
Điều 27
Theo cơ cấu, thành phần và số lượng
người ứng cử đã được thỏa thuận, các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan
Nhà nước đề cử đại biểu của mình.
Điều 28
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, trên cơ sở tiêu chuẩn và cơ cấu đã thoả thuận, bàn bạc,
điều chỉnh để tập hợp danh sách sơ bộ những người được đề cử và những người tự ứng
cử, gửi lấy ý kiến cử tri ở cơ sở nơi công tác và nơi cư trú.
Điều 29
Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị
trấn được tổ chức theo đơn vị thôn, ấp, hoặc tổ dân phố do Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với Uỷ ban nhân dân cùng cấp
triệu tập và chủ trì; Hội nghị cử tri ở cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các
đơn vị khác là Hội nghị công nhân, viên chức hoặc Hội nghị đại biểu của công
nhân, viên chức do Thủ trưởng và Chủ tịch công đoàn cơ quan, tổ chức, đơn vị
triệu tập và chủ trì; Hội nghị cử tri ở đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân là Hội
nghị quân nhân do Thủ trưởng đơn vị triệu tập và chủ trì. Tại Hội nghị này, cử
tri đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối
với người được đề cử, người tự ứng cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo
quyết định của Hội nghị.
Người được đề cử và người tự ứng
cử, đại diện tổ chức, cơ quan, đơn vị có người đề cử và người tự ứng cử được mời
tham dự hội nghị này.
Điều 30
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiệp thương với đại diện các tổ chức thành viên lựa
chọn trong số những người được đề cử, người tự ứng cử để lập Danh sách chính thức
những người của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, cơ quan Nhà nước ở trung
ương ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại diện Hội đồng bầu cử được mời dự hội nghị này.
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiệp thương với đại diện các tổ
chức thành viên, lựa chọn trong số những người được đề cử, người tự ứng cử để lập
Danh sách chính thức những người ở địa phương ứng cử đại biểu Quốc hội. Đại diện
Uỷ ban bầu cử được mời dự hội nghị này.
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử, biên bản hội nghị hiệp thương và Danh sách người ứng cử phải được
Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Hội đồng bầu
cử và Uỷ ban bầu cử.
Điều 31
Hội đồng bầu cử công bố người ứng
cử theo danh sách từng đơn vị bầu cử, theo đề nghị của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
và Uỷ ban bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Số người trong danh sách ứng cử ở
mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó.
Người ứng cử chỉ được ghi tên ứng
cử ở một đơn vị bầu cử.
Điều 32
Người ứng cử không được tham gia
Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử. Nếu là thành viên của
các tổ chức phụ trách bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử, thì người ứng cử phải
rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử kể từ ngày ghi tên
vào danh sách người ứng cử.
Điều 33
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải nộp tại Uỷ ban bầu
cử hồ sơ những người trong danh sách ứng cử gồm:
1- Giấy giới thiệu người ứng cử;
2- Đơn ứng cử có ghi tên, tuổi,
nghề nghiệp, nguyên quán, địa chỉ, nơi ra ứng cử;
3- Sơ yếu lý lịch;
4- Giấy của cơ quan Nhà nước,
nơi cư trú chứng nhận người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử nói ở Điều
2 của Luật này.
Khi nhận các giấy tờ trên, Uỷ
ban bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Điều 34
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử, Ban bầu cử phải niêm yết Danh sách người ứng cử ở đơn vị mình theo
quyết định của Hội đồng bầu cử.
Điều 35
Kể từ ngày công bố Danh sách người
ứng cử, công dân có quyền khiếu nại, báo cáo với Ban bầu cử hoặc Uỷ ban bầu cử
về những sai lầm, thiếu sót trong Danh sách người ứng cử. Ban bầu cử hoặc Uỷ
ban bầu cử phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, báo cáo đó. Nếu người khiếu
nại hoặc báo cáo không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử hoặc Uỷ ban
bầu cử thì có quyền khiếu nại, báo cáo với Hội đồng bầu cử. Quyết định của Hội
đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Điều 36
Người ứng cử có tên trong Danh
sách ứng cử đã công bố thực hiện quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ,
tiếp xúc với cử tri và báo cáo với cử tri dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của
người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.
Việc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri do
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc việt Nam Tổ chức.
Chương 6:
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Mục 1: NGÀY BẦU CỬ
Điều 37
Việc bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc
hội tiến hành trong cùng một ngày trong cả nước.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật,
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là chín mươi ngày trước
ngày bầu cử.
Điều 38
Trong thời hạn mười ngày trước
ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử,
nơi bỏ phiếu và thời gian bỏ phiếu, bằng các hình thức niêm yết, phát thanh và
mọi phương tiện thông tin khác của địa phương.
Mục 2: THỂ THỨC
BỎ PHIẾU
Điều 39
Cuộc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ
sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bẩu cử có thể quyết định cho
khai mạc sớm hoặc bế mạc muộn hơn giờ quy định, nhưng không được trước năm giờ
sáng hoặc quá mười giờ đêm.
Điều 40
Mỗi cử tri chỉ có quyền bỏ một
phiến bầu.
Cử tri phải tự mình đi bầu,
không được nhờ người khác bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư, trừ những
trường hợp nói tại Điều 41 của Luật này.
Điều 41
Cử tri không thể tự viết được
phiếu bầu thì có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự tay mình bỏ phiếu. Nếu
vì tàn tật không tự bỏ phiếu được, thì cử tri có thể nhờ người khác bỏ phiếu
vào hòm phiếu.
Cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật
không thể đến phòng bỏ phiếu được, có thể đề nghị Tổ bầu cử mang hòm phiếu và
phiếu bầu đến nơi ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này, Tổ bầu cử có thể tổ chức
hòm phiếu phụ mang đến nơi ở của cử tri để tiếp nhận phiếu bầu.
Điều 42
Lúc cử tri viết phiếu, không ai
được đến xem, kể cả nhân viên Tổ bầu cử.
Nếu viết hỏng cử tri có quyền đề
nghị Tổ bầu cử đổi cho phiếu bầu khác.
Điều 43
Mọi người đều phải tuân theo nội
quy của phòng bỏ phiếu.
Điều 44
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn
cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu, thì chỉ sau khi số cử
tri này bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 45
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu
phải tiến hành liên tục; nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu,
thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu, báo cáo cho Ban bầu
cử biết và phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu được tiếp tục.
Điều 46
Nếu vì lý do đặc biệt cần hoãn
ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cho Ban bầu cử biết để đề nghị Hội
đồng bầu cử xét định.
Chương 7:
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1: VIỆC
KIỂM PHIẾU
Điều 47
Việc kiểm phiếu phải được tiến
hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử
phải thống kê và niêm phong lại số phiếu bầu không sử dụng đến và phải mời hai
cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện đoàn thể,
tổ chức đề cử hoặc người được ủy nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và
khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền
hình, phát thanh được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Điều 48
Những phiếu sau đây là không hợp
lệ:
1- Phiếu không phải là phiếu
theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2- Phiếu không có dấu của Tổ bầu
cử;
3- Phiếu để số người được bầu
quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
4- Phiếu gạch xoá hết tên những
người ứng cử;
Điều 49
Nếu có phiếu nào nghi là không hợp
lệ, thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa vấn đề này ra toàn tổ giải quyết.
Điều 50
Những khiếu nại tại chỗ về việc
kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản.
Nếu Tổ bầu cử không giải quyết
được, thì phải chuyển đến Ban bầu cử để giải quyết.
Điều 51
Tổ bầu cử phải ghi vào biên bản
kết quả kiểm phiếu:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ
phiếu;
- Số cử tri tham gia bỏ phiếu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Những khiếu nại nhận được, những
khiếu nại đã giải quyết và cách giải quyết, những khiếu nại chưa giải quyết.
Biên bản làm thành hai bản, có
chữ ký của tổ trưởng, thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu:
một bản gửi đến ban bầu cử; một bản gửi đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
chậm nhất là ba ngày sau ngày bầu cử.
Mục 2: KẾT QUẢ BẦU CỬ Ở
ĐƠN VỊ BẦU CỬ
Điều 52
Khi nhận được biên bản của Tổ bầu
cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử
ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Quốc hội được ấn định
cho đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu
cử;
- Số cử tri tham gia bỏ phiếu, tỷ
lệ so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do các Tổ bầu
cử đã giải quyết, những khiếu nại do Ban bầu cử giải quyết, những khiếu nại
chuyển đến Uỷ ban bầu cử, Hội đồng bầu cử giải quyết.
- Biên bản làm thành ba bản, có
chữ ký của Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các thư ký: một bản gửi Hội đồng bầu cử;
một bản gửi Uỷ ban bầu cử; một bản gửi về Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, chậm nhất là năm ngày sau ngày bầu cử.
Điều 53
Trong số đại biểu mà đơn vị bầu
cử được bầu, người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn
là người trúng cử. Trong trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau, thì dựa
vào thứ tự tuổi mà sắp xếp, người nhiều tuổi hơn được trúng cử.
Mục 3: VIỆC BẦU
THÊM VÀ BẦU LẠI
Điều 54
Nếu trong cuộc bầu cử đầu tiên,
số người trúng cử chưa đủ số đại biểu do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cho
đơn vị bầu cử thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo lên Uỷ
ban bầu cử; Uỷ ban bầu cử báo cáo với Hội đồng bầu cử để xem xét và quyết định.
Trong trường hợp có bầu thêm, thì phải được tiến hành chậm nhất là ba mươi ngày
sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm cử tri chỉ chọn bầu trong danh
sách những người đã ứng cử kỳ đầu nhưng không trúng cử.
Điều 55
Uỷ mỗi đơn vị bầu cử, nếu số cử
tri đi bỏ phiếu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu cử
ghi rõ điều đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Uỷ ban bầu cử; Uỷ ban bầu cử phải
quyết định ngày bầu lại chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên.
Trong cuộc bầu lại chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử kỳ đầu.
Điều 56
Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn
theo danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và phải được tiến hành
theo những quy định của Luật này, trừ điều kiện phải được quá nửa số phiếu hợp
lệ quy định ở Điều 53 và phải có quá nửa số cử tri đi bầu
quy định ở Điều 55.
Mục 4: VIỆC TỔNG
KẾT CUỘC BẦU CỬ
Điều 57
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản
xác định kết quả của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Uỷ
ban bầu cử lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Số lượng đơn vị bầu cử;
- Số lượng người ứng cử của địa
phương;
- Tổng số cử tri ở địa phương;
- Số lượng cử tri tham gia bỏ
phiếu và tỷ lệ so với số lượng cử tri ghi trong danh sách của các đơn vị bầu cử
ở địa phương;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại Ban bầu cử đã
giải quyết;
- Những khiếu nại Uỷ ban bầu cử
đã giải quyết;
- Những việc quan trọng đã xảy
ra và cách giải quyết;
- Những kiến nghị lên Hội đồng bầu
cử.
Biên bản ghi thành bốn bản có chữ
ký của Chủ tịch, Thư ký Uỷ ban bầu cử: một bản gửi lên Hội đồng bầu cử; một bản
gửi cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tương đương; hai bản gửi cho Thường trực Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp chậm nhất là bảy ngày sau ngày bầu cử.
Điều 58
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản
của tất cả các ban bầu cử, Uỷ ban bầu cử và giải quyết các khiếu nại nếu có, Hội
đồng bầu cử lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu Quốc hội được
bầu;
- Tổng số người ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Tổng số cử tri đã đi bầu, tỷ lệ
so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Danh sách những người trúng cử
và số phiếu bầu cho mỗi người;
- Những việc quan trọng đã xảy
ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành bốn bản có chữ
ký của Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng bầu cử: một bản gửi Uỷ ban thường vụ Quốc
hội; một bản gửi Chính phủ; một bản trình Quốc hội và một bản lưu trữ.
Chương 8:
VIỆC BẦU CỬ BỔ SUNG ĐAỊ BIỂU QUỐC HỘI
Điều 59
Trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử
nào khuyết đại biểu Quốc hội, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể quyết định
việc bầu cử bổ sung đại biểu cho đơn vị đó. Uỷ ban thường vụ Quốc hội lập Uỷ
ban bầu cử bổ sung từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và một số đoàn thể nhân dân, do Phó Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch.
Điều 60
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định ngày bầu cử bổ sung và công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử;
nếu thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội dưới hai năm, thì không tổ chức bầu
cử bổ sung.
Điều 61
Danh sách cử tri do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập phải được công bố chậm nhất là mười lăm
ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
Điều 62
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối
hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ở đơn vị bầu cử Ban bầu
cử bổ sung từ ba đến năm người, trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và một số đoàn thể nhân dân ở địa phương.
Ban bầu cử bổ sung bầu ra Trưởng
ban, một Phó Trưởng ban và một Thư ký.
Điều 63
Chậm nhất là mười lăm ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở
mỗi khu vực bỏ phiếu Tổ bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người, trong đó có đại diện
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
Tổ bầu cử bổ sung bầu ra Tổ trưởng,
một Phó Tổ trưởng và một Thư ký.
Điều 64
Quyền hạn và nhiệm vụ của Uỷ ban
bầu cử bổ sung, Ban bầu cử bổ sung, Tổ bầu cử bổ sung và thể thức bỏ phiếu bầu
cử bổ sung cũng theo những quy định về Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử
và về trình tự bầu cử, xác định kết quả bầu cử quy định tại Luật này.
Điều 65
Danh sách người ứng cử đại biểu
Quốc hội ở đơn vị khuyết đại biểu được công bố chậm nhất là mười ngày trước
ngày bầu cử.
Điều 66
Khiếu nại về công tác của Tổ bầu
cử bổ sung do Ban bầu cử bổ sung giải quyết. Khiếu nại về công tác của Ban bầu
cử bổ sung do Uỷ ban bầu cử bổ sung giải quyết.
Chương 9:
XỬ LÝ NHỮNG HÀNH VI VI
PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
Điều 67
Người dùng các thủ đoạn lừa gạt,
mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội của
công dân, người có trách nhiệm trong công tác bầu cử phạm tội giả mạo giấy tờ,
gian lận phiếu hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả bầu cử, thì
tuỳ mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Điều 68
Mọi người có quyền tố cáo những
việc làm trái pháp luật trong lúc bầu cử đại biểu Quốc hội; người cản trở hoặc
trả thù người tố cáo, thì tuỳ mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương
10:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 69
Luật này thay thế Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội ngày 18 tháng 12 năm 1980.
Điều 70
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Lụât này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15 tháng
4 năm 1992.