Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội
Tại kỳ họp này, Bộ
Công Thương đã nhận được chất vấn của 18 vị Đại biểu Quốc hội và 1 đoàn
Đại biểu Quốc hội về những vấn đề liên quan đến lĩnh vực công nghiệp và thương
mại như tình hình nhập siêu năm 2008, tình hình cung ứng ngành điện mùa khô
2008, tình hình sử dụng vốn đầu tư của các tập đoàn Bộ Công Thương đã có văn bản
trả lời kịp thời gửi tới các vị Đại biểu Quốc hội, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội
có liên quan.
Thừa uỷ quyền của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Công Thương xin phép được báo cáo với Quốc hội 3 nhóm vấn đề
được các vị Đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm là (1) bảo đảm cung cầu
các mặt hàng thiết yếu, (2) tình hình xuất nhập khẩu, nguyên nhân nhập siêu và
các giải pháp hạn chế, (3) công tác quản lý thị trường.
1.
Về bảo đảm cung cẩu các mặt bàng thiết yếu
Bảo đảm cân đối cung
cầu hàng hoá là tiền đề quyết định cho sự bình ổn của thị trường, tránh đột biến
về giá và ngăn chặn đầu cơ, buôn lậu. Theo tính toán, nhu cầu của toàn bộ nền
kinh tế về các mặt hàng thiết yếu năm 2008 tăng khoảng 14% so với năm 2007. Với
nguồn hàng sản xuất trong nước và được bù đắp phần còn thiếu bằng nhập khẩu như
dự kiến kế hoạch là hoàn toàn đáp ứng đủ. Điều quan trọng là phải tháo gỡ khó
khăn do giá của một số hàng hoá thế giới và trong nước tăng cao ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất và đời sống. Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện giá theo
cơ chế thị trường, nhưng để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, Chính phủ
đã chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than, nước sinh hoạt, cước
vận chuyển máy bay, tàu hoả, xe buýt. Riêng về giá bán xăng dầu, trong trường hợp
giá dầu thế giới tăng đột biến, Chính phủ sẽ nghiên cứu phương án tổng thể,
thích hợp, với tinh thần Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng chia sẻ, gánh
vác để vượt qua khó khăn, giữ ổn định và phát triển.
Trước những diễn biến
phức tạp của thị trường thế giới, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cụ thể từng Bộ quản
lý ngành phải tập trung chỉ đạo và chịu trách nhiệm bảo đảm cung ứng đủ những mặt
hàng thiết yếu trong mọi tình huống với giá cả hợp lý. Các Bộ cùng các
Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, trước
hết là các doanh nghiệp nhà nước phối hợp thực hiện đồng bộ các biện pháp, đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn hàng và không để đầu cơ tăng giá. Chính
phủ cũng yêu cầu và kêu gọi cộng đồng doanh nghiệp và mỗi người dân tiết kiệm tối
đa trong sản xuất, trong tiêu dùng để góp phần cùng cả nước kiềm chế lạm phát.
Sau đây là cân đối những
mặt hàng thiết yếu năm 2008:
1.1 Lúa gạo
Theo Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, sản lượng lúa cả năm 2008 có khả năng đạt khoảng 35,9
-36 triệu tấn, trên cơ sở xác định sản lượng lúa Đông Xuân 2007-2008 của các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long là 9,6 triệu tấn (tăng 550 ngàn tấn so với vụ Đông Xuân
2006-2007). Sau khi trừ khoảng 27,8 triệu tấn lúa cho tiêu dùng nội địa còn khoảng
8,7 triệu tấn lúa dành cho xuất khẩu (tương đương 4,5 triệu tấn gạo).
Trong tình hình trên
thị trường thế giới, nguồn cung gạo vẫn thấp hơn nhu cầu khoảng 5 triệu tấn cộng
thêm với tình hình mất mùa tại một số nước nên giá gạo thế giới tăng liên tục từ
đầu năm đến nay; theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương đã cùng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Hiệp hội Lương thực điều hành xuất
khẩu khoảng 3,5 triệu tấn gạo đến hết quý III/08 (Quý 4 sẽ tuỳ tình hình thu hoạch
vụ hè thu để quyết định tiếp)
Ước 4 tháng đầu năm
2008, nước ta đã xuất khẩu được 1,567 triệu tấn gạo, chi tăng 11,6% so với cùng
kì về lượng nhưng đã tăng tới 72,6% về trị giá.
Tại thị trường trong
nước, sau biến động giá gạo những ngày cuối tháng 4/2008, đến nay giá gạo trên
thị trường đã ổn định dần. Hiện giá thóc gạo phổ biến ở mức như sau: (đ/kg)
|
Miền
Bắc
|
Miền
Nam
|
Thóc tẻ thường
Gạo tẻ thường
|
6.000
- 6.500
9.000
- 10.000
|
5.000
- 6.000
9.000
- 11.000
|
Dự báo giá lương thực
còn tiếp tục diễn biến phức tạp và luôn ở mức cao. Mặc dù trong nước hoàn toàn
đáp ứng đủ nhu cầu chúng ta vẫn cần phải tăng cường quản lý nguồn hàng nhằm bảo
đảm an ninh lương thực, ổn định thị trường, không để xảy ra khan hiếm cục bộ, đặc
biệt là phải ngăn chặn bằng được tình trạng đầu cơ và thực hiện tốt việc điều
hành xuất khẩu để đạt được hiệu quả cao nhất có thể.
1.2. Thực phẩm
Dự kiến nguồn cung một
số loại thực phẩm năm 2008 như sau:
- Sản lượng thịt các
loại khoảng 4,2 triệu tấn.
- Sản lượng trứng khoảng
5,56 tỷ quả.
Tổng lượng thức ăn
tinh là 18 triệu tấn. Sản lượng thức ăn công nghiệp dự kiến là 8,8 triệu tấn,
tăng 14%. Để bảo đảm sản lượng thức ăn cần nhập khẩu khô dầu các loại 2,2 - 2,4
triệu tấn; ngô hạt 650 -700 ngàn tấn; bột cá 150 - 200 ngàn tấn; thức ăn bổ
sung 200 ngàn tấn.
Hiện nay, dịch bệnh
trên gia súc, gia cầm diễn biển phức tạp, có chiều hướng lan rộng, đặc biệt dịch
lợn tai xanh đã gây thiệt hại lớn đến chăn nuôi (tính đến ngày 27/4/2008 đã có
3 tỉnh có dịch cúm gia cầm, 1 tỉnh có dịch lở mồm long móng và 8 tỉnh có
dịch bệnh tai xanh, tổng số lợn bị tiêu huỷ trên 230 ngàn con) đã ảnh hưởng tới
việc khôi phục và phát triển chăn nuôi và nguồn cung thực phẩm cho nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Đồng thời lại xảy ra tình trạng xuất khẩu gia súc qua biên giới,
nhất là các loại con giống. Do đó đòi hỏi chính quyền các địa phương tiếp tục
có những giải pháp tích cực, hiệu quả trong tuyên truyền, nắm bắt và xử lý tình
hình để ngăn chặn, dập tắt các ổ dịch, hạn chế thấp nhất thiệt hại.
1.3. Đường
Dự báo nhu cầu đường
năm 2008 là 1.320 ngàn tấn. Sản lượng đường vụ 2007-2008 đạt khoảng 1.138 ngàn
tấn, cộng với khoảng 100 ngàn tấn đường thủ công và khoảng 58 ngàn tấn đường nhập
theo hạn ngạch thuế quan sẽ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Trên thị trường thế
giới, đường là mặt hàng cung lớn hơn cầu khoảng 9 triệu tấn nên dù giá dầu thô
tăng ở mức cao nhưng giá đường biến động không nhiều.
Trong nước giá đường
tương đối ổn định. Giá bán lẻ phô biến 8.000 – 10.000 đ/kg tùy loại.
1.4. Muối
Dự báo nhu cầu muối
năm 2008 khoảng 1.340 ngàn tấn. Theo báo cáo của Cục Chế biến, sản lượng muối cả
nước luỹ kế từ đầu vụ đến nay đạt khoảng 342 ngàn tấn (đạt 31% kế hoạch năm và
tăng 171% so với cùng kỳ năm trước). Giá thu mua muối phổ biến ở mức 900-1.000
đ/kg. Giá bán lẻ phổ biến 1.500 - 3.000 đ/kg. Dự báo sản lượng muối sản xuất
trong nước là 1,1 triệu tấn, cộng với tồn kho và nhập khẩu khoảng 230
ngàn tấn sẽ đáp ứng đủ nhu cầu trong nước.
1.5. Phân bón
Dự báo nhu cầu phân
bón các loại năm 2008 là gần 8 triệu tấn. Năng lực sản xuất trong nước đáp ứng
được gần 4,8 triệu tấn, trong đó hoàn toàn đáp ứng nhu cầu các loại phân chứa
lân, phân NPK; chủ yếu chỉ phải nhập khẩu phân đạm urê và phân DAP mà trong nước
chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ.
Qua 4 tháng đầu trong
nước đã sản xuất được khoáng 1.731 ngàn tấn, nhập khẩu khoảng 1.583 ngàn
tấn các loại, tăng 40,8% về lượng nhưng tăng tới 156,7% về trị giá so với cùng
kỳ năm ngoái, trong đó riêng phân urê là 412 ngàn tấn, tăng 114,6% về lượng và
tăng 209,6% về trị giá.
Nguồn cung phân bón
như trên là đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp. Riêng về giá phân bón từ
đầu năm đến nay tăng liên tục như phân urê: giá chào thị trường thế giới tháng
1 là 370 USD/T thì tháng 4 là 500 USD/tấn, giá nhập khẩu bình quân tháng
1 là 300 USD/T và tháng 4 là 420 USD/T, giá bán thị trường trong nước
tháng 1 là 6.600 đ/kg và tháng 4 là 8.000 đ/kg
1.6. Thép
Nhu cầu tiêu dùng
thép các loại năm 2008 khoảng 12 triệu tấn, trong đó thép xây dựng là 5,350 triệu
tấn; thép tấm, thép lá, thép chế tạo...khoảng 7 triệu tấn. Năng lực sản xuất
trong nước về thép xây dựng khoảng 6 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu, về thép tấm
còn thấp vì các dự án đang trong quá trình đầu tư. Sản xuất trong nước 4 tháng
đạt khoảng 1,384 triệu tấn; sản xuất phôi đạt 630 ngàn tấn. Nhập khẩu thép các
loại 4 tháng đầu năm là 3,3 triệu tấn, trong đó thép xây dựng là 288 ngàn tấn.
Nhập khẩu phôi thép khoảng 1,326 triệu tấn.
Việc sử dụng sắt thép
tăng do nhu cầu đầu tư tăng. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm
phát, các dự án đầu tư cần được rà soát để đảm báo có hiệu quả, kiên quyết đình
hoãn hoặc giãn tiến độ những dự án kém hiệu quả, nên Bộ Công Thương tiếp tục chỉ
đạo theo dõi các biến động của thị trường để có sự điều tiết nhập khẩu một cách
hiệu quả nhất.
1.7. Xi măng
Nhu cầu tiêu thụ xi
măng năm 2008 khoảng 40 - 41 triệu tấn. Trong 4 tháng đã sản xuất được khoảng
12,37 triệu tấn (tiêu thụ 12,12 triệu tấn). Nhập khẩu Clinker 4 tháng khoảng
1,358 triệu tấn (giá nhập bình quân là 39,03 USD/tấn, tăng 24,14% so với giá nhập
bình quân năm 2007).
Giá bán xi măng tại
các nhà máy quí I/2008 tăng khoảng 20.000 - 30.000đ/tấn so với cuối năm 2007 và
được giữ ổn định cho đến nay. Nhưng trên thị trường, giá xi măng đã tăng ở mức
cao hơn (tăng 5.000 - 11.000đ/bao 50 kg), hiện nay phổ biến ở mức giá 885.000-
920.000đ/tấn (phía Bắc) và 1100 000-1140.000đ/tấn (phía Nam) đối với Xi măng
PC40.
Đầu tháng 5/2008, tại
thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam có hiện tượng xi măng khan hiếm cục
bộ và giá bán đã tăng ở mức cao hơn. Trước tình hình này, Bộ Xây dựng đã kịp thời
thành lập đoàn đi kiểm tra và đã có các biện pháp cụ thể để đáp ứng đủ nhu cầu
và giá sẽ ổn định dần do nhiều nhà máy mới tiếp tục đi vào sản xuất. Tuy nhiên,
do sản lượng xi măng ở phía Bắc chiếm tỷ trọng lớn (70%) trong khi tiêu
thụ xi măng ở phía Nam lại chiếm tỷ trọng lớn nên phải vận chuyển xi măng và
clinker vào phía Nam. Vì vậy cần có kế hoạch cụ thể để bảo đảm việc vận chuyển
này nhằm khắc phục tình trạng thiếu hàng cục bộ theo thời điểm như vừa qua.
1.8. Xăng dầu
Đây là mặt hàng mà
chúng ta phải nhập khẩu 100%. Theo kế hoạch năm 2008 nhu cầu nhập khẩu để đáp ứng
tiêu dùng là 14,5 triệu tấn xăng dầu các loại. Trong 4 tháng đầu năm, cả nước
đã nhập 5,249 triệu tấn đúng tiến độ, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
Do giá dầu thô và sản
phẩm xăng dầu 4 tháng đầu năm 2008 biến động phức tạp và luôn tăng ở mức cao
(giá dầu thô tháng 12 năm 2007 là 91,22 USD/thùng thì tháng 5 năm 2008 là
126,27 USD/thùng, giá dầu Diesel tháng 12 năm 2007 là 638,18 USD/tấn thì tháng
5 năm 2008 là 933,63 USD/tấn...) nên giá bán lẻ các loại xăng dầu trong nước đã
được điều chỉnh tăng từ ngày 25 tháng 2 năm 2008 lên mức khá cao và ổn định cho
đến nay. Tuy vậy, do mức giá thế giới tăng cao như hiện nay nên kinh doanh xăng
dầu gặp rất nhiều khó khăn do bị lỗ nặng. Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính
và Bộ Công Thương phối hợp xem xét có đề xuất phương án xử lý phù hợp.
1.9. Giấy
Nhu cầu tiêu dùng giấy
năm 2008 khoảng 2 triệu tấn các loại, trong đó giấy in, giấy viết khoảng 300
ngàn tấn; giấy in báo khoảng 110 ngàn tấn. Để đáp ứng nhu cầu sẽ sản xuất trong
nước khoảng 1,3 triệu tấn, nhập khẩu khoảng 960 ngàn tấn giấy các loại và 150
ngàn tấn bột giấy. Qua 4 tháng đã sản xuất được 396 ngàn tấn giấy, nhập 35 ngàn
tấn bột và 361 ngàn tấn giấy các loại.
Giá nguyên liệu và sản
phẩm giấy trên thị trường thế giới 4 tháng đần năm 2008 tăng dần và ở mức cao.
Hiện giá bột giấy gỗ mềm tẩy trắng sợi dài (NBSK) tại châu Âu là 891,89 USD/tấn,
tăng 20,73 USD/tấn so với đầu năm. Giá bột gỗ cứng tẩy trắng (BHKP) hiện là
823,27 USD/tấn, tăng 23,27 USD/tấn so với tháng trước và 45,26 USD/tấn so với đầu
năm. Mặc dù vậy, từ tháng 4/2008 giá các loại giấy trong nước mới được các
doanh nghiệp điều chỉnh tăng khoảng từ 2-5% tuy từng chủng loại. Bộ Công Thương
đang tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất và bình ổn giá để đáp ứng
nhu cầu.
1.10. Thuốc chữa
bệnh
Trong 4 tháng qua có
thể nói sản xuất và nhập khẩu thuốc chữa bệnh đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Nhưng do biến động tăng của giá nguyên liệu và các chi phí nên giá
một số loại thuốc có sự điều chỉnh tăng. Hiện nay có khoảng 20.000 mặt hàng thuốc
lưu hành trên thị trường. Chi số giá Dược phẩm và dịch vụ y tế 4 tháng đầu năm
tăng 2,7%.
2.
Về tình hình xuất nhập khẩu, nguyên nhân nhập siêu và giải pháp hạn chế
Bước vào thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng
cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ như cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm; chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp;
thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, hội nhập kinh tế quốc tế chưa có
nhiều kinh nghiệm; kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc; hạ tầng kinh tế - xã hội
và nguồn nhân lực chưa đáp ửng kịp yêu cầu phát triển; khả năng hấp thụ vốn của
nền kinh tế còn thấp... Mặt khác, từ những tháng cuối năm 2007 tình hình kinh tế
thể giới diễn biến rất phức tạp; giá dầu thô, giá lương thực và giá nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị tăng cao tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô;
giá tiêu dùng trong nước quý IV tăng rất mạnh, làm cho chỉ số giá tiêu dùng cả
năm 2007 tăng 12,63%; kim ngạch nhập khẩu cả năm tăng 39,6%, nhập siêu tăng
cao, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu và gấp hơn 2,7 lần năm 2006.[1]
Trước tình hình đó, để
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 được Quốc hội thông
qua, Chính phủ đã tập trung sức chỉ đạo theo dõi sát tình hình, phát hiện và xử
lý kịp thời những vấn đề phát sinh; đưa ra nhiều chính sách, biện pháp nhằm kiềm
chế lạm phát; tăng cường quản lý thị trưởng, giá cả và ổn định thị trường tiền
tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
cho phát triển sản xuất, đầu tư; đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu và bảo đảm
cân đối các hàng hoá thiết yếu... Tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm
2008 tiếp tục đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận, trong đỏ giá trị sản xuất
công nghiệp tăng 16,4%, xuất khẩu tăng cao hơn cùng kỳ năm trước (27,6% so với
22%), nhưng nhập khẩu tăng quá cao so với 4 tháng đầu năm 2007 (71% so với
33,6%), nhập siêu 4 tháng cao nhất trong nhiều năm qua.
Nhập khẩu tăng cao chủ
yếu là do số lượng nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy
móc phục vụ sản xuất và đầu tư tăng nhanh và phải chịu mặt bằng giá cao hơn nhiều
so với cùng kỳ (theo tính toán thì tác động do giá tăng chiếm 70% mức tăng nhập
khẩu); tác động của việc cắt giảm thuế theo lộ trình WTO; nhưng nguyên nhân sâu
xa là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và còn nhiều yếu kém, công nghiệp sản xuất
tư liệu sản xuất và công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, tốc độ tăng xuất khẩu
thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu; hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu là gia công
lắp ráp (khoảng 70% nguyên liệu và linh kiện phải nhập khẩu) và hiệu quả
đầu tư thấp, còn nhiều lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng. Tỷ trọng các mặt
hàng thuộc nhóm tiêu dùng chi chiếm tỷ trọng như (năm 2007 chiêm khoảng trên 3%
tổng kim ngạch nhập khẩu)
Phân tích cơ cấu kim
ngạch nhập khẩu trong 4 tháng đầu năm cho thấy các doanh nghiệp trong nước nhập
20,6 tỷ USD tăng 86%; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập 8,7 tỷ
USD, tăng 43,7%. Có nhiều mặt hàng đều tăng cả về số lượng và trị giá như sắt
thép tăng 100% về lượng và 143% về trị giá, phôi thép tăng 93% về lượng và
185,2% về trị giá, phân bón tăng 40,8% về lượng và 156,6% về trị giá, xăng dầu
tăng 8% về lượng và 71% về trị giá... Tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu tháng 4 bắt
đầu có xu hướng giảm so với tháng 3 và phù hợp với dự báo là 7,85 tỷ USD
(giảm 220 triệu USD, trong đó, riêng ôtô dưới 12 chỗ ngồi nhập khẩu đã giảm
44,7% so với tháng 3). Đồng thời, cỏ thể thấy việc nhập khẩu của khối các doanh
nghiệp FDI, cũng như việc nhập khẩu nguyên liệu để gia công hàng xuất khẩu cho
đối tác nước ngoài, nhất là trong ngành dệt may, da giày (khoảng 7,5 USD để có
kim ngạch xuất khẩu khoảng 14 tỷ USD) không làm ảnh hưởng tới khả năng thanh
toán ngoại tệ của Chính phủ. Ngoài ra, việc nhập khẩu máy móc, trang thiết bị
cho các dự án phải chấp nhận tăng trong giai đoạn đầu tư và sẽ được thu hồi dần
thông qua việc tiêu thụ sản phẩm khi dự án đi vào hoạt động, khi đó sẽ có tình
hình ngược lại.
Để kiềm chế và giảm dần
nhập siêu, góp phần kiềm chế lạm phát, thực hiện Chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công
Thương đã và đang phối hợp với các Bộ, ngành chức năng có liên quan triển khai
các nhóm giải pháp sau đây:
2.1. Tiếp tục đảy
mạnh xuất khẩu
Đây là biện pháp vừa
có tính cơ bản lâu dài, vừa có tính cấp bách trước mắt để kiềm chế nhập siêu, sẽ
tiến hành đồng bộ theo 5 hướng
Một là, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, tăng giá trị hàng hóa xuất
khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng sản xuất do bị hạn chế về
cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết...) không có điều kiện tăng nhiều về khối
lượng, trong đó đặc biệt chú ý đến các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản.
Hai là, tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, thiết bị,
đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng
trưởng cao, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch
xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội
như các sản phẩm chế biến, công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh
kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện...
Ba là, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh
sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng, không bị hạn chế về khả năng sản
xuất, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như: hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm
cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm...
Bốn là, tập trung khai thác theo chiều sâu đối với các thị trường xuất khẩu
truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc phát triển các thị
trường có chung đường biên giới với Việt Nam thông qua việc xem xét điều chỉnh
những quy định không phù hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua.
Năm là, rà soát và phát hiện các mặt hàng có khả năng sản xuất và không hoặc
chưa bị hạn chế về thị trường như đồ nhựa các loại, sản phẩm cơ khí và va li,
túi xách, mũ ô dù.
Bên cạnh đó cần xây dựng
đề án đẩy mạnh xúc tiến thu hút các tập đoàn kinh tế lớn ở nước ngoài vào Việt
Nam đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu; tăng thêm nguồn lực cho hoạt động xúc tiến;
cho doanh nghiệp vay vốn thu mua nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu và
kinh doanh xuất khẩu; áp dụng lãi suất vay hợp lý đối với hoạt động xuất khẩu;
tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trọng lĩnh vực hoàn thuế và thủ tục hải
quan, tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu, nhất là đối với những mặt hàng nhập
khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu như thuỷ sản, hạt điều...
Với việc thực hiện tốt
các giải pháp trên, khả năng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 sẽ đạt được
khoảng 25% so với thực hiện năm 2007, cao hơn mục tiêu đầu năm đề ra (là 22%).
2.2. Thực hiện
các giải pháp giảm nhập khẩu
Nhằm hạn chế nhập khẩu,
giảm thâm hụt cán cân thương mại, cần tập trung thực hiện nghiêm túc và hiệu quả
Nghị quyết số 10/2008NQ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 4 năm 2008 về các biện
pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững. Cụ thể là:
- Đối với nhóm mặt
hàng cần nhập khẩu và nhóm mặt hàng nhập khẩu cần kiểm soát: Đây là nhóm quan
trọng, thiết thực phục vụ cho sản xuất và đầu tư, nhưng vẫn phải tính đến khả
năng giảm nhập khẩu hợp lý ở 2 nhóm này thông qua việc lập các đoàn kiểm tra
liên ngành về việc sử dụng các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch lởn như (sắt
thép, phôi thép, máy móc...) để đề xuất các biện pháp giảm cầu và hạn chế nhập
khẩu, thông qua chính sách thuế và các biện pháp phi thuế, kiểm soát chặt chẽ
hiệu quả các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư công; khuyến khích tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng; điều hành chính sách tài khoá theo hướng tiết kiệm
chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; phấn đấu giảm
tỷ lệ thâm hụt ngân sách, triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng,
tiêu dùng; đẩy mạnh sản xuất, sử dụng hiệu quá nguyên liệu trong nước thay thế
hàng nhập, nhất là tại các dự án, các công trình lớn...thì mới có khả năng giảm
nhập siêu vì tỷ trọng khối này chiếm tới hơn 90% kim ngạch nhập khẩu.
- Đối với nhóm mặt
hàng hạn chế nhập khẩu: Nhóm này chỉ chiếm khoảng 6-7% tỷ trọng kim ngạch nhập
khẩu nhưng lại là những mặt hàng nhạy cảm nên cần tăng cường quản lý chặt nhập
khẩu, nhất là những mặt hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Để giảm nhập khẩu nhóm
hàng này có thể áp dựng các biện pháp như nâng thuế suất thuế nhập khẩu tới trần
của khung thuế suất theo cam kết; nâng thuế tiêu thụ đặc biệt; nộp thuế nhập khẩu
trước khi nhận hàng; kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng và bảo lãnh cho vay
nhập khẩu hàng trả chậm, đồng thời tăng cường tuyên truyền người dân triệt đê
thực hành tiết kiệm, tích cực sử dụng hàng trong nước.
Với tất cả các biện
pháp trên hy vọng sẽ kiềm chế được tình hình nhập siêu ở mức hợp lý (theo tính
toán tại thời điểm giá dầu thô hiện nay dao động 110- 120 USD/thùng phấn đấu
đưa tỷ lệ nhập siêu cả năm 2008 khoảng 30% so với 2007). Tuy nhiên vẫn cần nhấn
mạnh thêm rằng, nếu giá cả thế giới tiếp tục tăng cao thì tỷ lệ nhập siêu có thể
thay đổi.
3.
Về công tác quản lý thị trường
Năm 2008 tình hình
kinh tế thế giới có những biến động khó lường bởi tác động suy giảm của nền
kinh tế Mỹ và đã ảnh hưởng tới nên kinh tế nước ta. Trong những tháng đầu năm
2008, thị trường hàng hoá và dịch vụ diễn biến khá phức tạp, do giá xăng đầu,
giá vàng thế giới cùng một số nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao; thời tiết
không thuận lợi (rét đậm, rét hại dài ngày), dịch bệnh ở người, gia súc, gia cầm
tái phát tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Do vậy giá nhiều loại hàng
hoá và dịch vụ đã tăng hơn cùng kỳ. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo thực
hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững, kết quả là chỉ số giá tiêu dùng sau
2 tháng đã có xu hướng giảm dần (tháng 1 tăng 2,38%, tháng 2 tăng
3,56%, tháng 3 tăng 2,99%, tháng 4 tăng 2,2%) và 4 tháng tăng 11,6% so với
tháng 12/2007. Đây mới là kết quả bước đầu và tình hình vẫn còn nhiều diễn biến
phức tạp. Vì vậy Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương không được
lơ là, chủ quan trước những kết quả đã đạt được, phải tập trung theo dõi sát diễn
biến của thị trường và biến động giá, nhất là giá dầu trên thị trường thế giới,
đảm bảo ổn định cung cầu hàng hóa; quản lý, kiểm soát chặt chẽ nguồn hàng, chống
đầu cơ tăng giá, trục lợi đối với những mặt hàng thiết yếu...Thực hiện chỉ đạo
của Chính phủ lực lượng Quản lý thị trường trên cả nước đã triển khai các công
việc:
- Chủ động bằng mọi
biện pháp nắm chắc tình hình cung cầu hàng hoá, lượng hàng dự trữ của các đơn vị
kinh doanh đối với 10 mặt hàng thiết yếu: lương thực, xăng dầu, phân bón, thuốc
chữa bệnh, sắt thép, xi măng, than, đường, giấy, muối.
- Tăng cường kiểm
tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của pháp luật về giá, niêm yết giá
và bán theo giá niêm yết; xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng tình hình khó
khăn để đầu cơ, ép giá, găm hàng gây mất ổn định thị trường đối với các cơ sở
kinh doanh bán lẻ, các chợ, cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị, trung tâm thương mại.
- Kiểm tra việc thực
hiện đo lường hàng hoá (cân, đong, đóng gói hàng hoá), chất lượng hàng hoá, ghi
nhãn hàng hoá của các cơ sở sản xuất kinh doanh bán buôn, bán lẻ đề phát hiện
các thủ đoạn gian lận về giá hoặc lợi dụng đo lường, đóng gói để tăng giá.
- Kiểm tra các biểu
hiện của hành vi đầu cơ (mua vét hàng hoá), dự trữ hàng hoá quá mức; kinh doanh
không đúng ngành nghề, mặt hàng; bịa đặt loan tin không có cơ sở để tăng giả;
kiểm tra các biểu hiện liên kết chiếm lĩnh vị trí độc quyền để tăng giá, ép
giá...
- Phối hợp chặt chẽ với
cơ quan Quản lý giá và các ngành chức năng của địa phương tổ chức các đoàn kiểm
tra đối với các đơn vị kinh doanh có quy mô lớn để xác định khung giá, mức giá,
cơ cấu giá hợp lý đối với một số mặt hàng thiết yếu nêu trên.
Kết quả trong 4 tháng
đầu năm 2008, lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra, xử lý 20.193 vụ vi phạm
(trong đó có 4.393 vụ buôn bán hàng lậu, hàng cấm; 4.826 vụ hàng giả, hàng kém
chất lượng; 7.716 vụ kinh doanh trái phép và 3.258 vụ vi phạm khác) với số thu
61,32 tỷ đồng (trong đó phạt vi phạm hành chính 25,74 tỷ; trị giá hàng tịch thu
là 32,97 tỷ và truy thu thuế là 2,59 tỷ đồng).
Sau đây xin điểm một
số hoạt động chủ yếu
3.1. Công tác
chống buôn lậu, vận chuyển và buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu:
Ngay từ thời điểm
giáp Tết Nguyên đán, lực lượng Quản lý thị trường đã phối hợp với các ngành chức
năng tập trung kiểm tra, ngăn chặn tình trạng buôn bán, vận chuyển và đốt pháo
tại các địa phương như Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An... là những
địa phương có vùng biên. Trong nội địa, các Chi cục Quản lý thị trường đã tập
trung phối hợp điều tra, nắm tình hình, tổ chức kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm
nhằm vào các loại hàng hóa thường được buôn lậu như vải, rượu, thuốc lá, trái
cây, xăng dầu (xuất lậu), mỳ chính, linh kiện điện tử ở các tỉnh phía Nam,
pháo, đồ chơi kích động bạo lực, gia súc, gia cầm, chăn điện, quạt sưởi, bánh kẹo,
nông sản, gốm sứ, vải, mỹ phẩm, gạch ốp lát ở các tỉnh phía Bắc và miền
Trung nên đã ngăn chặn được nhiều vụ lớn, mặc dù các đối tượng buôn lậu
luôn sử dụng những phương thức, thủ đoạn tinh vi để tránh, trốn lực lượng Quản
lý thị trường hoặc chống cự quyết liệt khi bị bắt giữ. Gần đây khi nổi lên tình
trạng xuất lậu xăng dầu, lợn thịt và nhập lậu đường cát, xe đạp điện, gia súc,
gia cầm qua biên giới, Bộ Công thương đã chi đạo cơ quan chức năng và lực lượng
Quản lý thị trường phối hợp với chính quyền các địa phương xử lý, ngăn chặn nên
đã thu được kết quả bước đầu
3.2. Công tác
chống sản xuất, buôn bán hàng giả, vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống dịch:
Trong bối cảnh nhiều
loại dịch bệnh như lở mồm long móng, lợn tai xanh, cúm gia cầm xảy ra ở nhiều địa
phương, Bộ Công thương đã phối hợp chi đạo triển khai kế hoạch Tháng hành động
vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2008 với chủ đề "Thực phẩm chức
năng: hiểu đúng, làm đúng và dùng đúng" và thành lập Đoàn kiểm tra liên
ngành kiểm tra việc thực hiện tại các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hoà Bình; chỉ đạo
lực lượng Quản lý thị trường tập trung kiểm tra việc chấp hành các quy định của
Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng ngừa ô nhiễm thực phẩm, thực hiện
các quy định về kiểm dịch thú y, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm gia cầm, gia
súc, tiêu chuẩn vệ sinh thức ăn đường phố và phối hợp với các cơ quan Y tế, Đo
lường chất lượng, Công an, Thú y... xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Để ngăn chặn tệ làm
hàng giả, hàng nhái ngày càng tinh vi, vi phạm bản quyền, sở hữu trí tuệ, nhất
là các mặt hàng tiêu dùng, máy tính, băng đĩa, phần mềm... lực lượng Quản lý thị
trường đã phối hợp với cơ quan chức năng tăng cường kiềm tra, kiểm soát ngăn chặn
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Ở một số địa
phương đã tổ chức điều tra cơ bản theo ngành hàng; lập kế hoạch, chuyên đề cụ
thể về hàng giả, phối hợp với các tổ chức sở hữu công nghiệp, bản quyền... tìm
hiểu các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để có kế hoạch, giải pháp hiệu quả
trong phòng, chống.
3.3. Công tác
kiểm tra giá, ổn định thị trường:
Đây là công tác quan
trọng được Bộ Công Thương tập trung thường xuyên sự chỉ đạo lực lượng Quản lý
thị trường cả nước tăng cường kiểm tra, kiểm soát về chống đầu cơ găm hàng, tạo
nhu cầu ảo gây mất ổn định thị trường, kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo
giá niêm yết, thực hiện quy chế ghi nhãn hàng hoá đối với các mặt hàng thiết yếu,
có nhu cầu cao như: sắt thép, xi măng, phân bón, rượu, bia, mỹ phẩm, thực phẩm,
thuốc lá ngoại... nhằm giữ vững và bình ồn thị trường, kiềm chế tốc độ tăng giá
theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Trong 2 ngày cuối
tháng 4 (26-27/4) khi phát hiện việc tăng giá gạo tại một số tỉnh, thành phố,
dưới sự chỉ đạo kịp thời và kiên quyết của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương
đã nhanh chóng chỉ đạo lực lượng Quản lý thị trường cả nước phối hợp cùng cơ
quan Công an kiểm tra, để nếu phát hiện hiện tượng đầu nậu đầu cơ, găm hàng, ép
giá, sẽ có xử lý ngay, đồng thời phối hợp với Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn điều động tăng lượng gạo bán ra với giá ổn định và giữ như mức trước đó
nên cơn sốt giá đã được khắc phục.
Đối với mặt hàng xăng
dầu, Bộ Công thương đã có Công điện khẩn chỉ đạo lực lượng Quản lý thị trường
kiểm tra, giám sát bảo đảm ổn định thị trường tại thời điểm điều chỉnh giá bán
xăng, dầu và kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện niêm yết giá và bán
theo giá niêm yết tại các tổng đại lý, đại lý và các điểm kinh doanh xăng dầu.
Ngoài ra, lực lượng
Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố còn phối hợp với lực lượng Thuế, Thanh
tra Tài chính... kiểm tra việc chấp hành chế độ thuế, chế độ hóa đơn chứng từ ở
nhiều đơn vị kinh doanh, phát hiện, ngăn chặn tình trạng trốn lậu thuế do kê
khai không đứng, không đầy đủ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, chú trọng
các lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, dịch vụ ăn uống, khách sạn, vũ trường, thuốc
tân dược... Đã phát hiện và xử lý đối với các vi phạm như doanh nghiệp không hoạt
động tại địa chỉ đã đăng ký; kinh doanh sai nội dung đăng ký; kinh doanh không
có giấy phép; kinh doanh đĩa CD không tem kiểm soát, sao chép phần mềm bất hợp
pháp...
Nhằm tăng cường hiệu
quả của công tác chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, Bộ Công thương sẽ
báo cáo Chính phủ đề nghị Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các Điều 153, 155 của Luật Hình sự theo hướng nâng cao khung hình
phạt, điều chỉnh nội dung của tội danh cho phù hợp hoàn cảnh mới.
Trên đây là báo cáo của
Bộ Công thương về những vấn đề được các vị Đại biểu Quốc hội và cử tri quan
tâm.
Xin chân thành cám ơn
sự chú ý của các vị Đại biểu Quốc hội./.
Nơi nhận:
-Như trên;
-Đoàn Thư ký kỳ họp;
-Thủ tướng Chính phủ (để b/c);
-Văn phòng Quốc hội;
-Văn phòng Chính phủ;
-Lãnh đạo Bộ;
-Lưu: VP, Vụ KH
|
BỘ
TRƯỞNG
Vũ Huy Hoàng
|
[1] Giá tiêu dùng quý IV năm 2007 tăng 5%.
Số
liệu báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 2: kim ngạch nhập khẩu năm 2007 ước đạt 57
tỷ đô la Mỹ, tăng 27%. Nhập siêu 9 tỷ đô la Mỹ, tỉ lệ nhập siêu là 18,75%