BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
26-TC/ĐTXD
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 9 năm 1986
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 26-TC/ĐTXD NGÀY 13-9-1986
HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP
TRONG XÂY DỰNG CƠ BẢN
Thi hành Quyết định
số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời về quyền tự
chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ phân
phối lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp đối với xí nghiệp, công ty, xí nghiệp
liên hợp xây lắp xí nghiệp, công ty khảo sát xây dựng; xí nghiệp, viện thiết kế
quy hoạch xây dựng; xí nghiệp, viện thiết kế công trình xây dựng (gọi chung là
xí nghiệp) quốc doanh hạch toán kinh tế độc lập như sau:
I-
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG.
1. Chế độ phân phối
lợi nhuận xí nghiệp được quy định dựa trên số lợi nhuận thực sự làm ra của xí
nghiệp, khi phân phối có tính đến mức độ hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh được
duyệt; vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động và sự công bằng xã hội giữa
các đơn vị xí nghiệp và giữa các ngành kinh tế; bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa
3 lợi ích là lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể xí nghiệp và lợi ích cá nhân người
lao động; sử dụng lợi nhuận như một đòn bẩy kinh tế quan trọng để không ngừng
thúc đẩy thi công xây dựng cơ bản phát triển.
2. Căn cứ để thực hiện chế độ
phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực tế đạt được của
đơn vị xí nghiệp:
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của
xí nghiệp được xác định trên cơ sở giá trị sản lượng xây lắp, khảo sát, thiết kế
quy hoạch và thiết kế công trình xây dựng thực hiện được nghiệm thu, thanh toán
tính theo giá dự toán được lập theo định mức, đơn giá Nhà nước quy định (sau
khi đã trừ đi các khoản chênh lệch giá nếu có), trừ đi giá thành kế hoạch.
- Lợi nhuận sản xuất chính, sản
xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm và các khoản lợi nhuận khác (như lợi nhuận sản
xuất phụ trợ, lợi nhuận kinh doanh ngoài cơ bản, lợi nhuận do cung ứng lao vụ
cho bên ngoài...) kế hoạch hoá trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật tài chính
thống nhất của xí nghiệp.
- Lợi nhuận thực hiện của xí
nghiệp bao gồm các khoản lợi nhuận của các phần sản xuất nói trên và được xác định
trên cơ sở giá trị sản lượng xây lắp, khảo sát, thiết kế quy hoạch, thiết kế
công trình xây dựng thực hiện đã được nghiệm thu thanh toán trừ đi giá thành thực
tế được duyệt và trừ đi các khoản thu về chênh lệch giá nếu có.
3. Ngoài khoản lợi nhuận sản xuất
phụ bằng phế liệu, phế phẩm được phân phối theo những tỷ lệ được khuyến khích,
các khoản lợi nhuận còn lại được phâm phối theo những tỷ lệ thống nhất.
4. Để khuyến khích xí nghiệp
hoàn thành vượt mức kế hoạch được duyệt, phần vượt kế hoạch về lợi nhuận được
khuyến khích với tỷ lệ phần trăm để lại xí nghiệp cao hơn.
Ngược lại, nếu xí nghiệp không
hoàn thành toàn diện những chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước thì sẽ bị
phạt trừ vào phần lợi nhuận để lại xí nghiệp.
5. Mở rộng hơn phạm vi sử dụng lợi
nhuận, phạm vi sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ
khen thưởng nhằm nâng cao quyền tự chủ của xí nghiệp trong việc sử dụng phần lợi
nhuận để lại xí nghiệp.
II.
PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP
A. KẾ HOẠCH HOÁ
PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN:
1. Lợi nhuận kế hoạch của xí
nghiệp sau khi dành một phần để trả tiền lãi vay ngân hàng về tài sản cố định
được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng (nếu có) được phân phối như sau:
- Nộp ngân sách Nhà nước: 50%
- Để lại xí nghiệp: 50%
Riêng đối với phần lợi nhuận kế
hoạch của sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm được để lại xí nghiệp 70%, nộp
ngân sách Nhà nước 30%.
2. Toàn bộ phần lợi nhuận để lại
xí nghiệp theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định như sau:
- Cho quỹ khuyến khích phát triển
sản xuất từ 35% đến 50%.
- Số còn lại cho 2 quỹ (khen thưởng
và phúc lợi), trong đó khoảng 1/3 cho quỹ phúc lợi, 2/3 cho quỹ khen thưởng. Tỷ
lệ cụ thể do giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của công
đoàn cơ sở.
B. THỰC HIỆN PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN:
1. Trên cơ sở tổng số lợi nhuận
kế hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước của xí nghiệp nói trên được
duyệt và trở thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao cho xí nghiệp.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách
Nhà nước theo kế hoạch được phân thành 4 quý và xí nghiệp có trách nhiệm nộp đều
đặn hàng tháng (hoặc theo định kỳ) vào ngân sách Nhà nước.
Số lợi nhuận được trích lập 3 quỹ
theo kế hoạch cả năm được phân ra làm 4 quý, và hàng quý xí nghiệp được tạm
trích 70% vào mỗi quỹ sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận và các khoản thu
khác vào ngân sách Nhà nước hàng quý theo kế hoạch được duyệt và có ý kiến xác
nhận của cơ quan tài chính (chi cục thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp
trung ương - đối với các đơn vị xí nghiệp trung ương; hoặc tài chính địa phương
- đối với các xí nghiệp địa phương).
2. Hết năm, khi xét duyệt quyết
toán và mức trích lập các quỹ xí nghiệp chính thức, xí nghiệp sẽ được xác định
phần lợi nhuận để lại theo quy định như sau:
- Phần lợi nhuận thực hiện trong
kế hoạch được phân phối theo như điểm 1, phần A, mục II trên đây (50% nộp ngân
sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp).
Riêng đối với lợi nhuận sản xuất
phụ bằng phế liệu, phế phẩm thì tỷ lệ phân phối lợi nhuận được áp dụng chung
cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch: 70% để lại xí nghiệp, 30% nộp ngân
sách nhà nước (nếu xí nghiệp hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của sản xuất chính);
50% để lại xí nghiệp, 50% nộp ngân sách Nhà nước (nếu xí nghiệp không hoàn
thành kế hoạch lợi nhuận của sản xuất chính).
- Phần lợi nhuận được thực hiện
vượt mức kế hoạch (kể cả sản xuất phụ trợ hoặc cung cấp lao vụ cho bên ngoài và
kinh doanh ngoài cơ bản nếu có) được phân phối như sau:
Đối với xí nghiệp xây lắp, khảo
sát xây dựng nộp ngân sách Nhà nước 20%, để lại xí nghiệp 80%
Đối với xí nghiệp thiết kế quy
hoạch nộp ngân sách Nhà nước 40%, để lại xí nghiệp 60%.
3. Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp
(kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) sau khi trừ đi các khoản nộp phạt vi phạm
hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật quản lý tiền mặt, tín dụng, thanh toán
và các khoản cho phí bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành,
được phân phối vào các quỹ như quy định ở điểm 2, phần A, mục II trên đây.
4. Trường hợp xí nghiệp không
hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cả năm nói sau đây thì tổng số 3 quỹ sẽ
bị giảm trừ.
- Đối với chỉ tiêu giá trị sản
lượng xây lắp, khảo sát, quy hoạch, thiết kế xây dựng thực hiện đã được nghiệm
thu thanh toán thì cứ mỗi phần trăm (1%) không hoàn thành thì phạt trừ 2% vào mỗi
quỹ (3 quỹ).
- Đối với chỉ tiêu danh mục công
trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao thì cứ mỗi công trình hoặc hạng
mục công trình hoàn thành bàn giao chậm, mức giảm trừ được tính theo tỷ lệ phần
trăm vào mỗi quỹ (3 quỹ) cụ thể như sau:
Thời
gian chậm
|
Đối
với hạng mục công trình
|
Đối
với công trình
|
Chậm dưới 3 tháng
Chậm từ 3 tháng trở lên
|
2%
5%
|
5%
10%
|
- Đối với chỉ tiêu
các khoản nộp ngân sách Nhà nước (gồm lợi nhuận và các khoản thu khác): cứ mỗi
phần trăm (1%) không hoàn thành thì phạt trừ 2% vào mỗi quỹ (3 quỹ).
5. Ngoài ra nếu xí nghiệp vi phạm
chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước kể dưới đây, thì cứ mỗi
vi phạm tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2% đến 5% số tiền được trích cho
mỗi quỹ (3 quỹ).
- Nộp không kịp thời các khoản
phải nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch hàng quý, bao gồm lợi nhuận, thu quốc
doanh, khấu hao cơ bản và các khoản phải nộp khác như chênh lệch giá (nếu
có)...
- Vi phạm các chế độ báo cáo thống
kê, quyết toán.
Số tiền phạt trừ quy định tại điểm
4 và điểm 5 nói trên, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước.
6. Không hạn chế mức trích tối
đa vào quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, nhưng khi số lợi nhuận trích vào cả 2
quỹ này vượt quá 50% quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của tổng số công nhân
viên xây lắp (khảo sát, thiết kế, quy hoạch) của xí nghiệp, thì số vượt quá này
được phân phối như sau:
- Vượt từ trên 50% đến 70% quỹ
lương cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 50%, nộp lên cơ
quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính (nếu có) 10%, số còn lại bổ
sung vào các quỹ; xí nghiệp vào quỹ nào, bao nhiêu do giám đốc xí nghiệp quyết
định.
- Vượt từ trên 70% quỹ lương cơ
bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 70%, nộp lên cơ quan quản
lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính (nếu có) 10%, số còn lại bổ sung vào
các quỹ xí nghiệp; vào quỹ nào, bao nhiêu, do giám đốc xí nghiệp quyết định.
Thời điểm để xí nghiệp được
trích đủ (100%) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định nói
trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách Nhà
nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp) trên cơ sở số
liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
7. Mức trích quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi bình quân trên đầu người của cơ quan liên hiệp các xí nghiệp (tổng
công ty) không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung bằng mức trích
bình quân thực tế đạt được 2 quỹ đó trên đầu người tổng số công nhân viên của
toàn liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty).
Nguồn trích lập 2 quỹ khen thưởng
và phúc lợi của cơ quan liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) là quỹ khen thưởng
và quỹ phúc lợi của các đơn vị xí nghiệp trực thuộc. Mức phân bổ cho từng đơn vị
xí nghiệp trực thuộc do giám đốc liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) quyết định
tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể của từng đơn vị xí nghiệp.
III.
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ VIỆC SỬ DỤNG 3 QUỸ XÍ NGHIỆP.
Ngoài những quy định
hiện hành về nội dung sử dụng 3 quỹ xí nghiệp nay bổ sung thêm các nội dung
sau:
1. Dành từ 1% đến 3% quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất của các đơn vị, xí nghiệp hạch toán kinh tế độc lập để
lập quỹ dự trữ tài chính tập trung ở các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp như
liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, Bộ chủ quản. Mức cụ thể do cơ quan quản
lý cấp trên trực tiếp của xí nghiệp quy định.
Xí nghiệp được sử dụng quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất để bổ sung cho nhu cầu tăng vốn lưu động, vốn tự có về
đầu tư xây dựng cơ bản, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ nghiên cứu
khoa học kỹ thuật tập trung theo kế hoạch hàng năm của xí nghiệp.
2. Dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ
khen thưởng của xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng (hoặc quỹ tổng giám đốc liên hiệp
các xí nghiệp, tổng công ty) . Trường hợp cấp trên trực tiếp của xí nghiệp là
Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) không phải là những đơn vị hạch toán
kinh tế tập trung thì 1% đó được chia ra 2 phần: 0,5% để lập quỹ tổng giám đốc
Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) và 0,5% được chuyển lên Bộ để lập quỹ Bộ
trưởng. Trường hợp Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) là những đơn vị hạch
toán kinh tế tập trung thì phải dùng 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của
mình để lập quỹ Bộ trưởng.
IV.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH.
1. Hàng năm, căn cứ
vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan cấp
trên (Bộ, sở chủ quản, Liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty) phải giao kế hoạch
tài chính trong đó có kế hoạch thu nộp ngân sách Nhà nước) cho các đơn vị xí
nghiệp trực thuộc và gửi cơ quan tài chính cùng cấp. Tổng số thu nộp ngân sách
Nhà nước mà cơ quan cấp trên giao cho các đơn vị xí nghiệp trực thuộc không được
thấp hơn chỉ tiêu thu nộp ngân sách Nhà nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trường hợp các cơ quan cấp trên giao thấp hơn thì cứ mỗi phần trăm (1%) giao thấp
hơn phải phạt trừ 2% vào quỹ Bộ trưởng (hoặc quỹ tổng giám đốc Liên hiệp các xí
nghiệp, tổng công ty), nếu không có quỹ Bộ trưởng thì phạt trừ 2% vào quỹ dự trữ
tài chính. Số bị phạt trừ này phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
2. Các đơn vị xí nghiệp cơ sở phải
đăng ký kế hoạch trích lập 3 quỹ có chia ra từng quý với cơ quan tài chính cùng
cấp và ngân hàng nơi xí nghiệp mở tài khoản và được trích hàng quý như quy định
ở điểm 1, phần B, mục II của Thông tư này.
3. Khi duyệt quyết toán hàng năm
cho đơn vị cơ sở, cơ quan quản lý cấp trên với sự tham gia của cơ quan tài
chính cùng cấp duyệt số chính thức về lợi nhuận để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ
và số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước như quy định ở phần B, mục II Thông
tư này. Nếu xí nghiệp sử dụng quá số lợi nhuận để lại xí nghiệp thì phải trừ
vào số trích của năm sau và ngược lại, nếu thiếu được trích thêm.
4. Đối với các đơn vị vừa làm
nhiệm vụ sản xuất, vừa làm nhiệm vụ xây dựng cơ bản theo hình thức tự tổ chức
thi công và có hạch toán riêng như hoạt động xây dựng cơ bản thuộc ngành cao
su, lâm nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, thuỷ lợi, việc phân phối lợi
nhuận do tiêu thụ sản phẩm xây lắp được áp dụng theo các quy định trong Thông
tư này.
5. Thông tư này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận
cả năm 1986 của các xí nghiệp trung ương và địa phương.
Những quy định trước đây trái với
Thông tư này đều bãi bỏ.