BỘ
LÂM NGHIỆP
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
6/VP
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 4 năm 1990
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LÂM NGHIỆP SỐ 6/VP NGÀY 4-4-1990 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUYẾT
ĐỊNH SỐ 99-CT NGÀY 24-4-1989 CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHẾ BIẾN TỪ GỖ.
Ngày 24-4-1989 Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng đã ra quyết định số 99-CT về việc đẩy
mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến từ gỗ.
Ngày 3-2-1990 Hội đồng Bộ trưởng
ra Quyết định 34-HĐBT về việc sắp xếp lại tổ chức dịch vụ và xuất nhập khẩu lâm
sản.
Ngày 6-3-1990 Bộ Lâm nghiệp, Bộ
Kinh tế Đối ngoại và Tổng cục Hải quan ra thông tư liên Bộ số 4-TT/LB quy định
trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ phối hợp giữa ba ngành Lâm nghiệp, Kinh tế đối
ngoại, Hải quan trong việc quản lý và kiểm tra xuất khẩu, nhập khẩu lâm sản.
Bộ Lâm nghiệp ra Thông tư này hướng
dẫn các địa phương và các đơn vị kinh doanh sản xuất thực hiện đúng các quyết định
số 99-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và
quyết định số 34-HĐBT của Hội đồng bộ trưởng nói trên về việc xuất khẩu gỗ và sản
phẩm chế biến từ gỗ.
1- Đối với gỗ
rừng tự nhiên và đặc sản rừng
a) Sản phẩm được xuất khẩu
Từ năm 1990 trở đi không xuất khẩu
gỗ tròn mà chỉ xuất khẩu các mặt hàng chế biến từ gỗ như: đồ gỗ và đồ gỗ kết hợp
song mây, ván sàn, ván sàn tinh chế, gỗ lạng, gỗ dán, ván dăm, ván sợi ép, gỗ xẻ,
v.v... Các loại gỗ cấm xuất khẩu kể cả gỗ xẻ gồm có: Cẩm lai, gõ đỏ, Gụ, Dáng
hương, Lát, Hoàng đàn, Mun, Sến, Nghiến, Sao, Lam xanh (theo quyết định số 99-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
Đối với đặc sản rừng và động vật
rừng xuất khẩu theo quy định trong thông tư liên Bộ số 4 ngày 6-3-1990 nói
trên.
Đối với song mây, cần tổ chức chế
biến thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị và từ năm 1991 trở đi sẽ không xuất khẩu
song mây dưới dạng nguyên liệu thô.
b) Đối với gỗ để xuất khẩu tồn
kho của năm 1989 đã được đoàn kiểm tra của Bộ Lâm nghiệp kiểm kê và đóng dấu
búa cuối năm 1989, có đủ biên lai nộp tiền nuôi rừng, nếu muốn xuất khẩu cũng
phải chế biến thành các mặt hàng đã nói trên.
Những đơn vị có gỗ xuất khẩu tồn
kho năm 1989 không có khả năng chế biến thành hàng xuất khẩu sẽ bán cho các Tổng
công ty dịch vụ sản xuất và xuất nhập khẩu Lâm sản I, II, III thuộc Bộ Lâm nghiệp
để chế biến thành sản phẩm được xuất khẩu.
c) Đối với gỗ quý hiếm tồn kho
năm 1989 đã được các đoàn kiểm tra của Bộ Lâm nghiệp kiểm kê và đóng dấu búa cuối
năm 1989 nếu bán gỗ tròn được giá cao hơn sản phẩm đã chế biến thì đăng ký xin
xuất khẩu với Bộ Lâm nghiệp để Bộ Lâm nghiệp cùng với Bộ Thương nghiệp xem xét
giải quyết.
d) Đối với gỗ khai thác từ năm
1990 trở đi
Với các tỉnh, các cơ sở trực thuộc
Bộ Lâm nghiệp và các ngành có quản lý rừng, sản phẩm chế biến từ gỗ để xuất khẩu
chỉ được sử dụng tối đa 50% sản lượng gỗ khai thác theo thiết kế khai thác được
duyệt trong năm kế hoạch, số gỗ còn lại để sử dụng ở trong nước và địa phương.
Tuyệt đối không khai thác những
loại gỗ quí hiếm cấm xuất khẩu.
Những đơn vị không có rừng chỉ
được xuất khẩu sản phẩm gỗ khi có hợp đồng liên kết liên doanh về khai thác và
chế biến gỗ với tỉnh và các đơn vị có rừng được phép khai thác, số lượng gỗ xuất
khẩu này sẽ trừ vào chỉ tiêu được phép xuất khẩu của tỉnh và đơn vị có rừng đã
ký kết hợp đồng nói trên.
2- Đối với gỗ
rừng trồng
Các loại gỗ rừng trồng như bạch
đàn, mỡ, bồ đề, keo là tràm, đước, thông, tràm, v.v... được xuất khẩu dưới dạng
gỗ tròn. Các đơn vị khai thác gỗ rừng trồng phải có thiết kế khai thác được duyệt.
Chỉ tiêu xuất khẩu gỗ rừng trồng
ở vùng giấy, vùng mỏ, vùng có nhà máy dăm xuất khẩu (kể cả vùng dự kiến xây dựng
nhà máy) chỉ được giải quyết sau khi đã đáp ứng nhu cầu của nhà máy và gỗ cho
trụ mỏ. Đối với gỗ do nhân dân trồng, Sở Lâm nghiệp và Sở Nông - Lâm xem xét
nguồn gỗ có thể khai thác được trong năm để lập kế hoạch xin xuất khấu và phải
thực hiện đúng quy trình kỹ thuật đối với diện tích trồng tập trung.
Các địa phương phải có kế hoạch
bảo vệ nghiêm ngặt rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng ven biển, những hàng cây
dọc đường để tránh chặt phá bừa bãi ảnh hưởng xấu đến phòng hộ nông nghiệp bảo
vệ môi trường và cảnh quan đất nước.
3- Trình tự
thủ tục và thời hạn làm kế hoạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
Tất cả các tỉnh, các cơ sở trực
thuộc Bộ Lâm nghiệp và các ngành có rừng được phép xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
phải trình duyệt thiết kế khai thác với Bộ Lâm nghiệp vào tháng 8 hàng năm để
chuẩn bị cho kế hoạch năm sau.
Các đơn vị không có rừng muốn xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ phải trình với Bộ Lâm nghiệp các hợp đồng liên kết liên
doanh khai thác, chế biến gỗ với những đơn vị có rừng được phép khai thác.
Tháng 10 hàng năm, các Sở Lâm
nghiệp, Sở Nông-Lâm, các đơn vị xin xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ gửi đăng ký xin
xuất khẩu về Bộ Lâm nghiệp để chuẩn bị cho kế hoạch xuất khẩu năm sau.
Bộ Lâm nghiệp căn cứ vào lượng gỗ
khai thác được trong năm kế hoạch để xác định chỉ tiêu được xuất khẩu của tỉnh
và các đơn vị bao gồm cả phần được xuất khẩu của các đơn vị lấy nguồn gỗ từ rừng
của tỉnh.
Chỉ tiêu này được gửi cho Uỷ ban
kế hoạch Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh để theo dõi và gửi cho Bộ Thương nghiệp
để làm căn cứ xét cấp hạn ngạch xuất khẩu.