CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 163-CT
|
Hà Nội, ngày 12
tháng 6 năm 1989
|
CHỈ THỊ
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG GỌI VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Để tạo môi trường
thuận lợi mở rộng quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước, kích thích sự quan
tâm của nước ngoài trong việc đầu tư vào Việt nam, cần hoạch định chính sách và
phương hướng gọi vốn đầu tư nước ngoài, hướng số vốn đó góp vào việc xây dựng một
cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần giải
quyết các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của từng thời kỳ và sử dụng vốn vay của
nước ngoài một cách có hiệu quả.
Trong khi chưa có chiến lược
kinh tế xã hội cho thời kỳ 10 - 15 năm và kế hoạch 1991 - 1995 để làm cơ sở cho
việc hoạch định một chủ trương dài hạn và gọi vốn đầu tư nước ngoài, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng nêu ra một số phương hướng chủ yếu gọi vốn đầu tư nước ngoài cho
một số năm trước mắt.
1. Mục đích của
việc gọi vốn đầu tư nước ngoài.
Việc gọi vốn đầu tư nước ngoài
phải nhằm góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, trước hết là đầu
tư chiều sâu cho các cơ sở sản xuất hiện có để tận dụng năng lực sản xuất hiện
có đi đôi với việc phát triển thêm năng lực sản xuất mới, tạo điều kiện để Việt
nam tham gia ngày càng rộng rãi vào phân công lao động quốc tế trên cơ sở khai
thác đầy đủ và có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước về lao động và tài
nguyên. Cụ thể là nhằm vào các mục đích sau đây:
- Tăng nhanh năng lực sản xuất
hàng xuất khẩu trên cơ sở công nghệ và kỹ thuật tiên tiến; sớm hình thành một số
ngành sản xuất mũi nhọn và một số vùng sản xuất chuyên phục vụ xuất khẩu, có khả
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, nhằm thu hẹp dần sự chênh lệch quá lớn
giữa xuất và nhập.
- Tiếp tục xây dựng nền nông
nghiệp theo hướng sản xuất tổng hợp, hiện đại, có sản lượng và tỷ xuất hàng hoá
cao; xây dựng một số ngành công nghiệp chủ chốt có chọn lọc, nhằm từng bước giải
quyết một cách hợp lý nhu cầu của nền kinh tế quốc dân thay thế dần nhập khẩu,
trước hết trong các lĩnh vực nhiên liệu - năng lượng và nguyên liệu cơ khí chế
tạo...
- Sớm cải thiện và tăng cường cơ
sở vật chất - kỹ thuật của các ngành giao thông vận tải và thông tin liên lạc vốn
là một khâu yếu hiện nay và là một trở ngại cho việc phát triển kinh tế xã hội,
thu hút đầu tư của nước ngoài.
2. Một số
nguyên tắc chủ yếu trong việc gọi vốn đầu tư nước ngoài
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để
tất cả các thành phần kinh tế trong nước có thể tham gia vào quá trình xây dựng
và thực hiện các dự án đầu tư của bên ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau theo
sự chỉ đạo và sự hướng dẫn của Nhà nước. Chủ thể hợp tác đầu tư với nước ngoài
là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân đã nói trong Luật Đầu tư được tự chủ
trong việc ký kết hợp đồng và tự chịu trách nhiệm về hiệu quản kinh tế trong việc
hợp tác.
- Huy động đến mức cao nhất mọi
nguồn tài nguyên trong nước để gọi vốn đầu tư của bên ngoài bằng những hình thức
thích hợp.
- áp dụng nhiều hình thức đầu
tư, bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, cùng có lợi đồng thời bảo đảm chủ quyền và an
ninh của đất nước. Đối với một sản phẩm, cũng có thể áp dụng nhiều hình thức đầu
tư khác nhau.
- Bình đẳng đối với tất cả các đối
tượng tham gia đầu tư vào nước ta. Đồng thời phải nắm vững phương hướng thị trường
mà các Nghị quyết của Đảng đã xác định (dựa vào Liên Xô, mở rộng quan hệ với
Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ thiết lập và mở rộng
quan hệ với các nước khác) để định hướng đúng và có chính sách phù hợp.
- Có những đề mục hợp tác vừa
làm với các nước xã hội chủ nghĩa vừa làm với các nước khác, hoặc làm tay ba giữa
nước ta với một nước xã hội chủ nghĩa và một nước khác...
- Bảo đảm thực hiện các quy định
của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật và tập quán quốc tế.
- Việc lựa chọn các dự án đầu tư
của nước ngoài cần căn cứ vào các tiêu chuẩn chủ yếu như bảo đảm công nghệ và kỹ
thuật tiên tiến; sản phẩm đạt chất lượng cao, giá thành hạ, có khả năng cạnh
tranh; thu hút và sử dụng có hiệu quả nhiều lao động; khai thác hợp lý các nguồn
tài nguyên của đất nước; bảo đảm các nguồn thu của Nhà nước theo Luật định. Trước
mắt, coi trọng gọi vốn cho việc đầu tư chiều sâu, cải tạo và mở rộng các năng lực
sản xuất hiện có nhằm giảm khối lượng đầu tư, thu hồi vốn nhanh.
3. Một số chính
sách liên quan đến đầu tư của nước ngoài.
a) Chính sách tài nguyên:
- Đối tượng hợp tác với nước
ngoài là toàn bộ tài nguyên thiên nhiên hiện có trên đất liền, trên biển và ở
thềm lục địa thuộc lãnh thổ Việt Nam, trừ những vùng và khu vực liên quan đến
quốc phòng và an ninh của Việt Nam.
- Việc hợp tác phải bảo đảm khai
thác tài nguyên một cách hợp lý nhất và có hiệu quả nhất; khai thác phải đi đôi
với bảo vệ và bồi dưỡng, cấm mọi biểu hiện phung phí và triệt hạ tài nguyên.
- Việc khai thác tài nguyên phải
gắn liền với yêu cầu bảo vệ môi trường, môi sinh và bảo đảm các điều kiện sinh
thái bình thường, bao gồm cả việc thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt các yêu cầu về
phục hồi và tái sinh các nguồn lợi động vật, thực vật ở khu vực khai thác.
- Tuỳ theo tình hình và yêu cầu
phát triển kinh tế trong nước, Nhà nước sẽ quy định đối tượng tài nguyên cụ thể
được hợp tác khai thác với nước ngoài trong từng thời kỳ.
b) Chính sách thị trường và khu
vực:
Với các điều kiện khác như nhau
(vốn đầu tư, hiệu quả, công nghệ, chất lượng sản phẩm, v.v....) thì ưu tiên chọn
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa làm đối tượng hợp tác, kế đến là ấn Độ và
khu vực Châu á, các nước tư bản phát triển các tổ chức kinh tế quốc tế...
c) Chính sách đối với các thành
phần kinh tế và quan hệ giữa trung ương và địa phương:
- Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và thực hiện các dự án đầu
tư của nước ngoài theo kế hoạch và sự hướng dẫn của Nhà nước.
- Kinh tế quốc doanh đóng vai
trò chủ chốt trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, đồng thời hướng dẫn và hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài.
- Quốc doanh trung ương, nói
chung trực tiếp xây dựng và thực hiện các dự án về thăm dò địa chất, khai thác
và chế biến khoáng sản; xây dựng các xí nghiệp công nghiệp nặng, các công trình
hạ tầng, các cơ sở nhiên liệu - năng lượng và nguyên liệu có ý nghĩa đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân; xây dựng các cơ quan nghiên cứu khoa học, sự nghiệp
ngân hàng... Quốc doanh trung ương hợp tác đầu tư với nước ngoài trên các lĩnh
vực này một cách độc lập hoặc với sự tham gia của quốc doanh địa phương và các
thành phần kinh tế khác.
- Quốc doanh địa phương và các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được hợp tác hoặc tham gia hợp tác với nước
ngoài trong các lĩnh vực khác không kể ở trên. Nói chung đó là những đối tượng
hợp tác quy mô vừa và nhỏ, mau cho sản phẩm và sớm thu hồi vốn.
- Trong việc quản lý sự hợp tác
và đầu tư với nước ngoài, trước hết phải bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi của các tổ chức kinh tế là chủ đầu tư, đồng
thời tăng cường sự quản lý Nhà nước của Hội đồng Bộ trưởng, của các Bộ, Tổng cục
và uỷ ban Nhân dân các cấp.
Trên đây là phương hướng chủ yếu
tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài cho thời kỳ trước mắt. Trong vòng hai tháng kể
từ khi nhận được Chỉ thị này, các Bộ, Tổng cục và địa phương cần cụ thể hoá
danh mục các công trình cần gọi vốn đầu tư nước ngoài, gửi danh mục các công
trình đó (kèm theo một số thông số kinh tế - kỹ thuật chủ yếu hoặc dự án đầu tư
sơ bộ) cho uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư để tổng hợp trình Hội đồng Bộ
trưởng phê chuẩn.
Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu
tư khẩn trương đặt kế hoạch phối hợp các ngành và tranh thủ sự giúp đỡ của các
tổ chức của Liên hợp quốc để sớm mở một cuộc hội thảo với các nhà đầu tư nước
ngoài vào nửa cuối năm 1989; tại đó sẽ giới thiệu danh mục các dự án ưu tiên đã
được Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn, để các nhà đầu tư nước ngoài có cơ sở tìm hiểu,
cân nhắc hiệu quả kinh tế của các dự án, đẩy tới một bước quan hệ hợp tác giữa
các chủ đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với các công trình đặt ra với
các nước xã hội chủ nghĩa sẽ bàn bạc và thoả thuận với các nước anh em thông
qua phối hợp kế hoạch 1991 - 1995.