UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
147/LCT
|
Hà
Nội, ngày 11 tháng 9 năm 1972
|
PHÁP LỆNH
QUY
ĐỊNH VIỆC BẢO VỆ RỪNG
Rừng là một bộ phận của môi
trường sống, là tài sản quý báu của nước ta, có giá trị lớn đối với nền kinh tế
quốc dân và văn hoá công cộng. Việc bảo vệ rừng phải do Nhà nước và toàn dân
cùng làm.
Căn cứ vào Điều 12 và Điều 40 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà;
Để bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên phong phú của rừng, phát huy tác dụng
to lớn của rừng trong việc giữ nguồn nước và điều tiết nước, giữ đất, chống xói
mòn, chống cát bay, điều hoà khí hậu, hạn chế tác hại của gió, bão, lũ, lụt, hạn
hán, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, củng cố quốc
phòng và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần làm cho nước nhà giàu mạnh;
Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội
và nhân dân, nâng cao ý thức bảo vệ rừng, động viên toàn dân ra sức đấu tranh
chống mọi hành động làm thiệt hại đến rừng,
Pháp lệnh này quy định việc bảo vệ rừng.
Chương
1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều
1
Rừng và đất rừng thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước, tức là của toàn dân, không ai được xâm phạm.
Chính phủ có trách nhiệm quy hoạch
toàn diện và phân phối đất đai cho nông nghiệp, lâm nghiệp và chuyên dùng, có bản
đồ phân định ranh giới rừng và đất rừng đến tận xã.
Nhà nước bảo đảm quyền lợi cho
những tập thể và cá nhân đã có công trồng cây trên đất rừng.
Chính phủ quy định các chính
sách, chế độ nhằm khuyến khích hợp tác xã và nhân dân những nơi có rừng tích cực
tham gia trồng rừng, làm nghề rừng, góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân và
nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
Điều
2
Nhà Nước thống nhất quản lý việc
bảo vệ rừng.
Tất cả các cơ quan, đoàn thể, xí
nghiệp công nghiệp và nông nghiệp, công trường, đơn vị vũ trang nhân dân, hợp
tác xã và toàn dân đều có nghĩa vụ bảo vệ rừng; phải triệt để tuân theo luật lệ
bảo vệ rừng và chống mọi hành động vi phạm luật lệ đó.
Chính phủ tổ chức lực lượng
chuyên trách và lực lượng quần chúng để bảo vệ rừng.
Chương
2:
NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO VỆ RỪNG
Điều
3
Cấm phá rừng. Những rừng tự
nhiên và rừng trồng đều phải được bảo vệ nghiêm ngặt.
Trong trường hợp cần thiết phải
phá rừng để lấy đất trồng trọt, xây dựng theo chủ trương và kế hoạch chung của
Nhà nước hoặc để làm bất cứ việc gì khác thuộc lợi ích công cộng thì phải được
Hội đồng Chính phủ cho phép.
Điều
4
C ấm mọi hành động chặt cây rừng
trái với các điều quy định của Nhà nước.
Việc khai thác rừng phải theo
đúng quy hoạch, kế hoạch, chế độ và thể lệ của Nhà nước và phải được cơ quan
lâm nghiệp từ cấp tỉnh trở lên cho phép. Lâm trường, nông trường, công trường,
xí nghiệp công nghiệp, hợp tác xã, cơ quan, đơn vị vũ trang nhân dân chặt cây rừng
đến đâu phải dọn rừng, tu bổ hoặc trồng lại rừng đến đó, dưới sự hướng dẫn và
kiểm tra của cơ quan lâm nghiệp.
Tập thể hay là cá nhân được phép
lấy gỗ hoặc các lâm sản khác phải nộp tiền nuôi rừng cho Nhà nước để dùng vào
việc bảo vệ và phát triển rừng.
Điều
5
Chính phủ quy định những khu rừng
cấm nhằm bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ di tích lịch sử, bảo vệ sức khoẻ, nghiên cứu
khoa học hoặc phục vụ các lợi ích đặc biệt khác.
Ở những khu rừng này, cấm chặt
cây, trừ trường hợp để dọn rừng và tu bổ rừng, cấm săn bắn chim, muông, thú rừng.
Điều
6
Cấm phát rừng, đốt rừng để làm
nương rẵy.
Chính phủ sẽ đề ra các biện pháp
tích cực để sớm hoàn thành cuộc vận động định canh, định cư ở miền núi.
Ở những nơi chưa hoàn thành việc
định canh, định cư, thì tạm thời Uỷ ban hành chính huyện xét và cho phép làm
nương rẵy trên những vùng đất đai đã được Uỷ ban hành chính tỉnh quy định.
Điều
7
Cấm đốt lửa trong rừng và ven rừng
để dọn đường, hạ cây, lấy củi, săn bắt thú rừng; cấm đốt đồi, bãi thuộc đất rừng
để nuôi cỏ non.
Hội đồng chính phủ quy định những
trường hợp được đốt lửa ở trong rừng và ven rừng để sinh hoạt và những trường hợp
do các cơ quan có thẩm quyền cho phép đốt lửa để sản xuất, xây dựng hoặc phục vụ
chiến đấu.
Khi đốt lửa ở trong rừng và ven
rừng, phải nghiêm ngặt thực hiện những biện pháp phòng cháy và chữa cháy rừng.
Khi xảy ra cháy rừng, Uỷ ban
hành chính địa phương phải tổ chức ngay việc chữa cháy. Uỷ ban hành chính các cấp
có quyền huy động lực lượng và phương tiện của các cơ quan, đơn vị và của nhân
dân ở địa phương để chữa cháy rừng.
Điều
8
Cấm ngặt việc thả rông gia súc ở
những khu rừng non, rừng mới trồng hoặc mới dặm cây con.
Việc chăn nuôi gia súc đàn ở nơi
có rừng phải tập trung vào những vùng do Uỷ ban hành chính huyện quy định.
Điều
9
Việc săn, bắt chim, muông, thú rừng
với bất kỳ mục đích gì phải tuân theo luật lệ của Nhà nước về săn, bắt chim,
muông, thú rừng và phải được cơ quan lâm nghiệp từ cấp tỉnh trở lên cho phép.
Điều
10
Hội đồng Chính phủ quy định những
loại thực vật, động vật quý và hiếm trong rừng cần phải đặc biệt bảo vệ và chế
độ bảo vệ các loại đó.
Điều
11
Cơ quan lâm nghiệp có trách nhiệm
tổ chức việc phòng và trừ sâu, bệnh phá hại rừng và phải đặt ra bộ phận chuyên
trách việc điều tra, nghiên cứu, phòng và trừ sâu, bệnh; khi phát hiện có dịch
sâu thì phải kịp thời tổ chức việc diệt trừ dịch sâu.
Các lâm trường, các hợp tác xã
và cơ quan, đoàn thể được phép kinh doanh rừng có nhiệm vụ thực hiện việc phòng
và trừ sâu, bệnh dưới sự chỉ đạo của cơ quan lâm nghiệp địa phương.
Điều
12
Nhân dân những xã ở nơi có rừng
được kiếm củi khô trong rừng để dùng và được thu nhặt lâm sản phụ theo quy định
của Tổng cục lâm nghiệp.
Nhân dân những xã ở nơi có rừng
cần lấy gỗ để sửa chữa nhà, làm nhà hoặc để dùng vào những việc cần thiết khác
trong gia đình thì phải được cơ quan lâm nghiệp từ cấp huyện trở lên xét và cho
phép, theo quy định của Hội đồng Chính phủ.
Điều
13
Các hợp tác xã được Nhà nước
giao rừng để kinh doanh và đất để trồng rừng phải nghiêm chỉnh chấp hành các luật
lệ về bảo vệ rừng, kinh doanh nghề rừng, trồng rừng, và được hưởng quyền lợi
theo chính sách khuyến khích hợp tác xã kinh doanh nghề rừng và trồng rừng.
Chương
3:
TỔ CHỨC BẢO VỆ RỪNG
Điều
14
Dưới sự
lãnh đạo của Hội đồng Chính phủ, Tổng cục lâm nghiệp có trách nhiệm thống nhất
quản lý bảo vệ rừng.
Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền
hạn của mình, Tổng cục Lâm nghiệp quyết định những biện pháp bảo vệ, nuôi, gây
rừng và khai thác rừng, chỉ đạo việc tổ chức các lực lượng bảo vệ rừng, xây dựng
cơ sở kỹ thuật và trang bị kỹ thuật cho việc bảo vệ, chỉ đạo và kiểm tra việc bảo
vệ rừng.
Điều
15
Dưới sự chỉ đạo về nghiệp vụ của
Tổng cục Lâm nghiệp, Uỷ ban hành chính các địa phương có rừng chịu trách nhiệm
quản lý việc bảo vệ, nuôi, gây rừng và khai thức rừng theo đúng quy hoạch, kế
hoạch, chế độ và thể lệ của Nhà nước; lãnh đạo các cơ quan lâm nghiệp địa
phương trong việc bảo vệ rừng; tổ chức và quản lý các lực lượng bảo vệ rừng
theo quy định của Hội đồng Chính phủ.
Điều
16
Nay thành lập lực lượng chuyên
trách bảo vệ rừng gọi là Kiểm lâm nhân dân. Lực lượng này được tổ chức trong
ngành lâm nghiệp từ cấp huyện trở lên thành hệ thống biệt lập đối với các đơn vị
kinh doanh lâm nghiệp, để bảo đảm thực hiện công tác bảo vệ rừng đến từng khu rừng.
Kiểm lâm nhân dân có nhiệm vụ tuần
tra rừng, kiểm tra việc thực hiện các chế độ, thể lệ bảo vệ rừng trong các đơn
vị kinh doanh thuộc ngành lâm nghiệp, trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, hợp
tác xã và trong nhân dân; ngăn ngừa mọi hành động vi phạm luật lệ bảo vệ rừng;
phát hiện những vụ cháy rừng và tổ chức việc chữa cháy rừng; tuyên truyền, giáo
dục ý thức bảo vệ rừng. Căn cứ vào những điều quy định của pháp luật, Kiểm lâm
nhân dân có quyền khám xét, bắt giữ tang vật trong các vụ vi phạm, lập biên bản,
xử lý hoặc chuyển tới cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Kiểm lâm nhân dân được trang bị
những phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Cán bộ và nhân viên Kiểm lâm
nhân dân được mặc đồng phục, mang vũ khí, phù hiệu, cấp hiệu, và được hưởng các
chế độ do hội đồng Chính phủ quy định.
Điều
17
Lực lượng quần chúng bảo vệ rừng
được tổ chức trong các xã, thị trấn, thị xã, thành phố có rừng, trong các lâm
trường, nông trường, công trường, xí nghiệp công nghiệp, cơ quan ở trong rừng
hoặc ven rừng, nhằm thực hiện công tác bảo vệ rừng ở cơ sở.
Dưới sự hướng dẫn của Kiểm lâm
nhân dân, lực lượng quần chúng bảo vệ rừng ở cơ sở có nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục ý thức bảo vệ rừng, bảo đảm thực hiện quy ước bảo vệ rừng ở địa phương
và đơn vị mình, thực hiện việc phòng cháy, chữa cháy và ngăn ngừa việc chặt,
phá rừng trái với luật lệ của Nhà nước.
Lực lượng bảo vệ rừng ở cơ sở được
cấp những phương tiện và dụng cụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều
18
Các đơn vị quân đội nhân dân, công
an nhân dân vũ trang, cảnh sát nhân dân ở những nơi có rừng có nhiệm vụ bảo đảm
chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ bảo vệ rừng trong đơn vị mình và tham gia công
tác bảo vệ rừng ở địa phương.
Chương
4:
VIỆC THƯỞNG, PHẠT
Điều
19
Tập thể hoặc cá nhân nào có
thành tích trong việc nuôi rừng và gây rừng, ngăn chặn hoặc tố giác các hành động
chặt, phá, khai thác rừng trái phép, trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng hoặc
có những thành tích khác về bảo vệ rừng thì được xét khen thưởng theo quy định
của Nhà nước.
Điều
20
Những người vì tham gia bảo vệ rừng
mà mang thương tật hoặc tài sản riêng bị thiệt hại thì được bảo đảm quyền lợi
theo chế độ do Nhà nước quy định. Trong trường hợp bị hy sinh thì gia đình được
lĩnh tiền tử tuất và được giúp đỡ.
Điều
21
Kẻ nào vi phạm một trong những
điều ghi ở Chương II của Pháp lệnh này hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái
phép lâm sản mà không gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng thì bị cảnh cáo hoặc
bi phạt tiền từ 1 đồng đến 200 đồng. Cơ quan Kiểm lâm nhân dân huyện có quyền cảnh
cáo hoặc phạt tiền đến 100 đồng; trong trường hợp số tiền phạt quá 100 đồng thì
cơ quan Kiểm lâm nhân dân tỉnh xét và xử lý.
Nếu đương sự khiếu nại, thì Uỷ
ban hành chính cùng cấp xét và quyết định.
Điều
22
Kẻ nào vi phạm một trong những
điều ghi ở Chương II của Pháp lệnh này hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái
phép lâm sản, gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng hoặc đã bị xử phạt mà còn
vi phạm thì sẽ bị truy tố trước Toà án nhân dân và có thể bị phạt tù từ ba
tháng đến 2 năm và phạt tiền từ 200 đồng đến 2.000 đồng, hoặc một trong hai
hình phát đó.
Cố ý huỷ hoại tài nguyên rừng hoặc
cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về bảo vệ rừng, gây thiệt
hại đến tài nguyên rừng; thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vô ý làm cháy rừng
hay là có những hành động khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng
thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa, ngày 21 tháng 10 năm 1970.
Cố ý phá hoại tài nguyên rừng vì
mục đích phản cách mạng thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản
cách mạng, ngày 30 tháng 10 năm 1967.
Điều
23
Ngoài việc xử phạt nói ở Điều 21 và Điều 22, cơ quan xử lý còn có thể thu hồi giấy phép
và tịch thu tang vật.
Điều
24
Người nào lạm dụng chức vụ, quyền
hạn ra lệnh cho người thuộc quyền mình chặt, phá rừng, hoặc làm những việc khác
gây thiệt hại đến tài nguyên rừng thì cũng bị xử lý theo các Điều
21, 22, 23 của Pháp lệnh này.
Chương
5:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều
25
Hội đồng Chính phủ quy định những
điều cụ thể để thi hành Pháp lệnh này.
Điều
26
Những điều quy định trước đây
trái với Pháp lệnh này thì nay bị bãi bỏ.
Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thông qua tại Hà Nội, ngày 6 tháng 9 năm 1972.