BỘ
THƯƠNG MẠI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 3875 TM-PC
Về việc thực hiện thí điểm dịch vụ trung
chuyển container
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 9 năm 2002
|
BÁO
CÁO TÓM TẮT
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện quyết định của Thủ tướng
Chính phủ tại văn bản số 424/CP-CN ngày 21 tháng 5 năm 2001 cho phép cảng Bến
Nghé thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container và giao Bộ Thương mại
ban hành quy định cụ thể để quản lý loại hình dịch vụ này, ngày 1 tháng 8 năm
2001 Bộ Thương mại đã ra Quyết định số 815/2001/QĐ-BTM ban hành bản Quy định về
việc thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container tại cảng Bến Nghé, thành
phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26 tháng 7 năm 2001 tại văn bản
số 3301/VPCP-CN, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thêm cảng Sài Gòn và cảng Hải
Phòng thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container. Tiếp đó, Tổng cục Hải
quan cũng đã có quy định về thủ tục hải quan đối với container trung chuyển tại
các cảng này (Quyết định số 770/2001/QĐ-TCHQ ngày 21 tháng 8 năm 2001 ban hành
quy định tạm thời về thủ tục hải quan đối với hàng hóa trung chuyển được đóng
trong container qua cảng Bến Nghé, cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng).
Như vậy, cho đến nay tại Việt Nam đã
có 3 cảng được Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm dịch vụ trung
chuyển container và các cơ quan có thẩm quyền, theo sự chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tương đối đồng bộ để điều
chỉnh hoạt động này. Các văn bản quy phạm pháp luật nói trên đã từng bước đi
vào thực tiễn và được thực tiễn chấp nhận.
Sau một năm thực hiện quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container
và căn cứ khoản 3 văn bản số 424/CP-CN nói trên của Chính
phủ, ngày 31 tháng 7 năm 2002 tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Thương mại đã tổ chức
hội nghị sơ kết, đánh giá việc thực hiện dịch vụ này. Tham dự hội nghị có đại
diện lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, các Bộ: Giao thông Vận tải, Kế hoạch và Đầu
tư, Tài chính, Quốc phòng, Công an; Tổng cục Hải quan; Uỷ ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh; Cục Hàng hải Việt Nam; Tổng công ty Hàng hải Việt Nam và 3 cảng đã
được Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện thí điểm dịch vụ này là cảng Bến
Nghé, cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng.
Dưới đây, Bộ Thương mại xin báo cáo
tóm tắt về việc thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container tại các cảng
của Việt Nam trong một năm qua và có một số kiến nghị cụ thể như sau:
I. Vài nét về tình hình thực hiện
thí điểm dịch vụ trung chuyển container tại các cảng
Căn cứ quy định tại các văn bản
quy phạm pháp luật về thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container, có thể
nói cảng Bến Nghé là một trong những cảng đi đầu trong việc triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, do thời gian chính thức triển khai thực hiện chưa nhiều (nếu tính từ
ngày Bộ Thương mại ban hành Quyết định số 815/2001/QĐ-BTM ngày 1 tháng 8 năm
2001 thì đến nay mới vừa tròn một năm, nhưng nếu tính từ ngày Tổng cục Hải quan
ban hành Quyết định số 770/2001/QĐ-TCHQ ngày 21 tháng 8 năm 2001 về thủ tục hải
quan thì đến nay chưa đầy một năm), do vây, việc thực hiện dịch vụ này trên thực
tế tại các cảng nói chung và tại cảng Bến Nghé nói riêng còn hạn chế.
Do là loại hình dịch vụ mới được phép
thực hiện thí điểm tại Việt Nam và nhiều hãng tàu nước ngoài chưa được biết đến
vì vậy, mặc dù số tàu container vào cảng nhiều nhưng số lượng container được
trung chuyển tại Việt Nam còn hạn chế. Cụ thể tại cảng Bến Nghé trong năm 2001
có 371 lượt tàu chuyên vào cảng với số container là 134.533 TEU (tương đương
1.345.330 tấn) trong đó số container nhập là 74.076 TEU (tương đương với
740.760 tấn) và xuất là 60.457 TEU (tương đương với 604.570 tấn) và trong 6
tháng đầu năm 2002, có 258 lượt tàu chuyên vào cảng với số lượng container là
38.237 TEU (tương đương 382.370 tấn) trong đó số container nhập là 23.959 TEU
(tương đương với 239.590 tấn) và xuất là 14.278 TEU (tương đương với 142.780 tấn).
Tại cảng Hải Phòng, việc triển khai
thực hiện dịch vụ này còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có thêm thời gian để
tuyên truyền thu hút các hãng tàu nước ngoài.
Tại cảng Sài Gòn tuy có một số lợi thế
hơn so với các cảng khác nhưng số lượng container trung chuyển tại cảng này
cũng chưa nhiều. Trong 4 tháng cuối năm 2001 có 28 lượt tàu chuyên vào cảng với
số lượng container trung chuyển là 1.635 TEU (tương đương 16.358 tấn) gồm cả nhập
và xuất và trong 6 tháng đầu năm 2002 có 45 lượt tàu chuyên vào cảng với số lượng
container trung chuyển là 1.516 TEU (tương đương 15.160 tấn) gồm cả nhập và xuất.
II. Đánh giá chung về việc
thực hiện thí điểm dịch vụ trung chuyển container trong năm qua và một số ý kiến
về việc quản lý loại hình dịch vụ này
Tại hội nghị, nhìn chung các ý kiến đều
nhất trí đánh giá dịch vụ trung chuyển container là một trong những loại hình dịch
vụ phát triển trên thế giới đặc biệt là ở các nước có đường biển thuận lợi. Ở
Việt Nam, tuy còn mới mẻ và kết quả thực hiện thí điểm dịch vụ này trong năm
qua còn hạn chế nhưng nhìn một cách tổng thể, chúng ta vẫn có thể đánh giá rằng
đây là loại hình dịch vụ phù hợp và có khả năng phát triển mạnh trong tương lai
tại các cảng của Việt Nam, đáp ứng với nhu cầu của các hãng tàu biển trong nước
và nước ngoài, góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước nói chung và các cảng của
Việt Nam nói riêng, góp phần tạo điều kiện cho Việt Nam chủ động hội nhập với
thương mại, hàng hải khu vực và thế giới.
Có thể có cả 3 cảng Bến Nghé, Sài
Gòn, Hải Phòng trong năm qua đều đã có nhiều cố gắng khắc phục mọi khó khăn, vừa
tuyên truyền, triển khai thực hiện nhiệm vụ vừa tìm tòi, phát hiện những vấn đề
mới phát sinh và kịp thời kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để xem xét,
giải quyết trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam hiên hành và
góp phần làm cho các quy định của pháp luật Việt Nam ngày càng có sự tương đồng
với các quy định của pháp luật và tập quán thương mại, hàng hải quốc tế.
Xuất phát từ nhận thức dịch vụ trung
chuyển là nghiệp vụ của người vận tải trong việc sắp xếp, bố trí lịch tàu, loại
tàu vận chuyển sao cho có hiệu quả cao nhất, thời gian vận chuyển ngắn nhất,
qua đó giảm chi phí vận chuyển, hội nghị có hai loại ý kiến về việc quản lý loại
hình dịch vụ này.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng cần có
quy chế quản lý dịch vụ này và trên cơ sở kết quả thí điểm trong năm qua, tiếp
tục cho 3 cảng Bến Nghé, Sài Gòn, Hải Phòng được thực hiện trung chuyển. Đây sẽ
là bước khởi đầu cho việc tạo dựng hành lang pháp lý cho các cảng trung chuyển
container quốc tế sau này tại Việt Nam.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị cân nhắc
thêm và không nhất thiết phải có quy chế quy định về dịch vụ này vì đây là nghiệp
vụ của người vận tải liên quan đến bốc xếp và không nên giới hạn cho 3 cảng mà
nên mở ra cho tất cả các cảng của Việt Nam thực hiện.
III. Một số kiến nghị cụ thể của Bộ
Thương mại
Là cơ quan được Thủ tướng Chính phủ
giao trách nhiệm ban hành quy định để quản lý loại hình dịch vụ trung chuyển
cũng như chủ trì hội nghị sơ kết, Bộ Thương mại cho rằng:
Thứ nhất, tuy đây là loại hình dịch vụ
liên quan đến nghiệp vụ của các hãng tàu nhưng có liên quan đến chính sách mặt
hàng (hàng hóa nhập cảng, xuất cảng Việt Nam) nên vẫn cần có văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh để vừa tạo thuận lợi cho các cảng triển khai thực hiện vừa
bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước đối với loại hình dịch vụ này.
Thứ hai, nên mở rộng diện hàng hóa được
trung chuyển không chỉ cho hàng hóa đóng trong container mà còn cho cả một số
hàng hóa không đóng trong container (trước mắt cho hai mặt hàng dễ quản lý là ô
tô và sắt thép).
Thứ ba, sau một năm triển khai thực
hiện thí điểm, thời gian và kết quả còn hạn chế nên cần được tính toán, cân nhắc
kỹ việc có nên mở rộng loại hình dịch vụ này ra các cảng của Việt Nam hay trước
mắt vẫn cần tiếp tục duy trì việc thực hiện thí điểm thêm một thời gian nữa (01
năm) đối với 3 cảng đã được phép thực hiện dịch vụ này và có thể xem xét bổ sung
một cảng nữa là Tân Cảng Sài Gòn.
Với tinh thần đó, Bộ Thương mại xin
trân trọng báo cáo và đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo để thực hiện.
(Xin gửi kèm theo dự thảo “Quyết định
của Bộ trưởng Bộ Thương mại ban hành Quy chế về kinh doanh dịch vụ trung chuyển
hàng hóa đóng trong container và một số hàng hóa không đóng trong container tại
các cảng của Việt Nam” thay thế cho Quyết định số 815/2001/QĐ-BTM ngày 01 tháng
8 năm 2001 của Bộ Thương mại).
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG
Mai Văn Dâu
|