BỘ
THƯƠNG MẠI
TỔ NCXT VÀ ĐIỀU HÀNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
2983 TM/KHTK
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2002
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Tại công văn số 2479/VPCP/KTTH, ngày 13/5/2002,
của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: đồng
ý tiếp tục duy trì hoạt động của Tổ Nghiên cứu, xúc tiến và điều hành thị trường
trong nước (gọi tắt là Tổ). Thực hiện ý kiến của Thủ tướng, Tổ đã tiếp tục duy
trì hoạt động và nay xin gửi tới Thủ tướng bản Báo cáo Tình hình thị trường
trong nước 7 tháng đầu năm 2002.
BÁO
CÁO TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC 7 THÁNG ĐẦU NĂM 2002
I- TỔNG QUAN TÌNH HÌNH XUẤT, NHẬP
KHẨU
1- Xuất khẩu
7 tháng đầu năm: kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa và dịch vụ ước đạt 10.277 triệu USD, bằng 53,2% kế hoạch năm và giảm
2,8% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó: xuất khẩu hàng hóa ước đạt 8.724 triệu
USD, bằng 95,8% cùng kỳ năm 2001 và bằng 52,6% kế hoạch năm.
Các mặt hàng thuộc nhóm nông, lâm, thủy
sản: kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm trên 7% so với cùng kỳ năm 2001; trong đó thủy
sản đã vươn lên, kim ngạch tăng 2%, cao su, chè, hạt điều và lạc nhân có sự
tăng trưởng khá cao cả về khối lượng lẫn kim ngạch; gạo, cà phê, rau quả vẫn
trong tình trạng kim ngạch giảm.
Các mặt hàng thuộc nhóm hàng công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu tăng khoảng 7% so với cùng kỳ năm
2001; trong đó tăng khá nhất là dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Riêng
hàng điện tử và linh kiện máy tính vẫn giảm 26,4%.
Dầu thô giảm 4,4% về khối lượng nhưng
do giá vẫn ở mức thấp nên kim ngạch giảm 17,8% (giảm 370 triệu USD);
Nhóm các mặt hàng khác giảm gần 3%,
trong đó, tập trung ở các mặt hàng là: sữa (giảm 42,4%), dầu thực vật (giảm
52%), mỳ ăn liền (giảm 21,2%), đường kính (năm ngoái xuất khẩu 15 triệu USD,
nay hầu như không xuất khẩu); các mặt hàng xuất khẩu phi mậu dịch giảm 13,5%.
2- Nhập khẩu
7 tháng đầu năm 2002: kim ngạch nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ ước đạt 11.502 triệu USD, bằng 58,1% kế hoạch năm và
tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó: kim ngạch hàng hóa ước đạt 10.167
triệu USD, tăng 11,6% so cùng kỳ năm 2001 và bằng 58,1% kế hoạch năm.
Phần lớn các mặt hàng thiết yếu phục
vụ sản xuất tăng khối lượng nhập khẩu: sợi tăng 39%, bộ linh kiện ô tô tăng
36,6%, phân bón tăng 34,7%, máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 29,1%, giấy tăng
25,6%, chất dẻo nguyên liệu tăng 20,9%, thép thành phẩm tăng 13,1%, xăng dầu
tăng 6,7%...; giảm nhập khẩu có linh kiện xe gắn máy, bông và linh kiện điện tử.
Nhập siêu 7 tháng đầu năm là 1.225
triệu USD, trong đó phần dịch vụ xuất siêu 218 triệu USD và phần hàng hóa nhập
siêu 1.443 triệu USD, bằng 16,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
II- TỔNG QUAN VỀ LƯU THÔNG HÀNG
HÓA TRONG NƯỚC
1- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch
vụ
7 tháng, ước đạt 158,2 nghìn tỷ đồng
tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2001 (nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng khoảng
8,8%); hầu hết các địa phương đều tăng so với cùng kỳ năm 2001, trong đó: TP.
Hà Nội, khoảng đạt 16,0 nghìn tỷ đồng, tăng 9%; TP. Hồ Chí Minh đạt khoảng 40,6
nghìn tỷ đồng, tăng 14%.
2- Giá cả
Nhìn chung, giá cả trên thị trường nội
địa tương đối ổn định, riêng giá nông sản có xu hướng tăng nhanh so với các
nhóm hàng khác, vì vậy cánh kéo giá nông sản và hàng công nghiệp thu hẹp hơn so
với những tháng cuối năm 2001.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 giảm
0,1% so với tháng 6; tăng 2,8% so với tháng 12 năm 2001 và tăng 4,4% so với
cùng kỳ năm 2001. Trong đó chỉ số giá tiêu dùng ở khu vực nông thôn: giảm 0,2%
so với tháng 6, tăng 2,6% so với tháng 12 năm 2001 và tăng 4,3% so với cùng kỳ
năm 2001.
3- Một số mặt hàng đáng lưu ý
Lương thực: các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long thu hoạch sớm lúa Hè-Thu để tránh lũ, nên nguồn cung thóc, gạo
tăng, làm giá cả những ngày đầu tháng 7 giảm. Giá lúa Hè - Thu tại Đồng Tháp,
Vĩnh Long, Tiền Giang giảm trung bình từ 50 - 100 đ/kg, xuống còn 1.550 - 1.650
đồng/kg; giá gạo tẻ thường 2.800 - 2.900 đ/kg.
Tại các tỉnh phía Bắc, vụ lúa Đông -
Xuân đã thu hoạch xong và đang tập trung vào gieo cấy vụ lúa Mùa. Giá lúa gạo
có xu hướng nhích lên, giá thóc tăng 50 - 100 đ/kg, lên 1.950 - 2.300 đ/kg và gạo
tẻ thường lên 2.850 - 3.100 đ/kg.
Cà phê: 7 tháng đầu năm giá xuất
khẩu ở mức thấp nên giá ở thị trường trong nước tiếp tục đứng ở mức thấp. Đầu
tháng 7, giá chào bán cà phê robusta loại 2 của Việt Nam chỉ đạt 455 - 460
USD/tấn, nên tại các tỉnh Lâm Đồng Đắc Lắc, Đồng Nai, giá cà phê loại xô; 5.800
- 6.100 đ/kg; cà phê loại 1: 6.800 - 7.000 đ/kg. Những ngày cuối tháng 7, giá
đã tăng 100-200 đ/kg.
Thủy sản: tuy đang gặp khó
khăn trong việc xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, nhưng giá cá basa và cá tra tại
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long vẫn tăng khoảng 200 - 500 đ/kg so với đầu năm,
với mức giá này, các hộ nông dân có lãi khoảng 20-30%. 7 tháng đầu năm sản xuất,
kinh doanh thủy sản gặp khó khăn là: tôm chết ở nhiều địa phương (chủ yếu do
nuôi không theo đúng hướng dẫn của Bộ Thủy sản), nên thiếu nguyên liệu chế biến
hàng xuất khẩu.
Mía đường: sản lượng mía niên
vụ 2001-2002 đạt 15,5 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn so với vụ trước; sản xuất
được trên 1 triệu tấn đường các loại, tăng 5,2% so với vụ trước; trong đó: sản
xuất công nghiệp tiêu thụ 8,5 triệu tấn mía, sản xuất được khoảng 760 ngàn tấn
đường; sản xuất thủ công tiêu thụ 6 triệu tấn mía, sản xuất được khoảng 300
ngàn tấn đường.
Giá đường cao hơn cùng kỳ năm trước khoảng
200 - 400 đồng/kg. Hiện nay, phổ biến ở mức 6.300- 6.500 đồng/kg, cao hơn giá
thế giới nên đường nhập lậu tiếp tục tràn vào nội địa (tại cửa khẩu, đường Thái
Lan 4.600- 4.650 đồng/kg).
Phân bón: khối lượng tiêu thụ
giảm 13% so với cùng kỳ năm 2001, chủ yếu do chuyển đổi diện tích trồng cây
công nghiệp, sang nuôi trồng thủy sản vượt 40% so với dự kiến (riêng lúa giảm khoảng
30 ngàn ha, so với cuối năm 2001); phù sa bồi đắp nhiều hơn mọi năm, nông dân
giảm sử dụng phân.
Giá u rê từ 2.400 - 2.450 đồng/kg giảm
còn 2.000 - 2.200 đồng/kg. Tiêu thụ phân bón sản xuất nội địa vẫn rất khó khăn
do phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Xăng dầu: do giá trên thị trường
thế giới biến động, từ đầu năm đến nay, Nhà nước đã 7 lần điều chỉnh thuế suất thuế
nhập khẩu, điều chỉnh tăng giá bán dầu hỏa lên 300 đồng/lít và ma zút lên 200 đồng/kg.
7 tháng đầu năm, vấn đề nổi lên là
ngoại tệ nhập khẩu rất khó khăn, Ngân hàng Nhà nước cùng các Bộ/ngành đã có nhiều
biện pháp để đảm bảo ngoại tệ cho các doanh nghiệp, từ cuối tháng 6, đã đảm bảo
ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu. Nhưng do đủ lực lượng đáp ứng nhu cầu, nên giá
bán lẻ các loại xăng dầu tương đối ổn định.
Sắt thép: 7 tháng đầu năm, thị
trường trong nước sôi động và tiêu thụ khá tốt, một số nhà máy còn ký được hợp
đồng xuất khẩu sang Cămpuchia, như: công ty thép miền Nam, công ty thép Tây Đô,
công ty thép Linh Xuân.
Hiện nay, thép tấm phổ biến ở mức
5.000 - 5.500 đ/kg, thép phi 6, 8 liên doanh tại các đại lý vẫn ổn định ở mức
4.650 đ/kg, nhưng trên thị trường phổ biến ở mức 4.900 đ/kg, có nơi bán tới
5.000 đ/kg, nguyên nhân chủ yếu do giá phôi thép trên thế giới tăng và nhu cầu
xây dựng tăng.
Xi măng: nhu cầu tiêu dùng tiếp
tục tăng, Bộ Xây dựng cùng các Bộ/ngành đã chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, tăng nhập
khẩu Clinker, bỏ thu chênh lệch giá Clinker nhập khẩu, chuyển xi măng từ miền Bắc
vào miền Nam... nên thị trường ổn định về giá và đủ về lượng, đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng.
3- Bán hàng chính sách ở các tỉnh
miền núi
Muối iốt: 7 tháng ước bán
33.800 tấn, bằng 45% kế hoạch năm và bằng 95% cùng kỳ năm 2001. Có nhiều tỉnh
đã tăng mức bán so với cùng kỳ năm 2001 là: Đắc Lắc, Hòa Bình, Phú Thọ, Bắc
Giang, Gia Lai...
Dầu hỏa: 7 tháng ước bán
11.800 tấn, so với cùng kỳ năm 2001, bằng 54% kế hoạch và tăng 7%. Có nhiều tỉnh
mức bán tăng so với cùng kỳ năm 2001 là: Yên Bái, Lào Cai, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Hòa Bình, Gia Lai, Lâm Đồng...
4- Quản lý thị trường
7 tháng đầu năm, lực lượng Quản lý thị
trường đã đồng loạt ra quân, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thực hiện theo tinh
thần chỉ đạo của Chính phủ tại công điện 1254/VPCP, ngày 14/3/2002 của Văn
phòng Chính phủ và phương án số 0993/BCĐ 127, ngày 20/3/2002 của Ban chỉ đạo
127 TW. Mặc dù có đạt được một số kết quả, nhưng nhìn chung tình hình vẫn chưa
chuyển biến rõ rệt và không đồng đều ở các địa phương; thậm chí có mặt còn
nghiêm trọng hơn: buôn lậu vẫn gia tăng và diễn biến phức tạp trên tất cả các
tuyến; hàng nhập lậu, hàng giả và gian lận thương mại đa dạng; phương thức, thủ
đoạn hoạt động của các đối tượng buôn lậu tinh vi hơn; sự chống trả người thi
hành công vụ của chúng cũng trắng trợn và quyết liệt hơn.
Tình trạng đáng lưu ý là: việc chỉ
thu thuế hàng hóa khi lưu thông, không quan tâm đến xuất xứ hàng hóa, nên các
thương nhân đã sử dụng hóa đơn của Bộ Tài chính lưu thông hàng nhập khẩu; hàng
nhập lậu bày bán công khai tại các trung tâm thương mại, chợ ở khu vực biên giới...
6 tháng đầu năm lực lượng Quản lý thị
trường đã phát hiện và xử lý khoảng 38 ngàn vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu;
sản xuất buôn bán hàng giả, kém chất lượng; kinh doanh trái phép...; tổng số tiền
thu được 63 tỷ đồng.
III- MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ ĐỀ NGHỊ
1- Một số nhận định
(1) Nhìn chung từ đầu năm đến nay thị
trường ổn định, không có biến động lớn, ảnh hưởng xấu tới sản xuất và tiêu
dùng. Lưu thông hàng hóa phát triển trên tất cả các địa phương trong cả nước,
góp phần đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và nâng cao mức sống của dân cư. Sức mua ở
khu vực nông thôn sau một thời gian dài không tăng, nay đã tăng (đến tháng 7 đã
tăng 4,4%, so với cùng kỳ 2001).
(2) Về khối lượng và tốc độ hàng hóa
lưu chuyển trên thị trường: nhiều mặt hàng bán ra tăng hơn cùng kỳ năm 2001
như: thép, xi măng, gạo, thực phẩm, hàng ăn uống giải khát, hàng mỹ phẩm, hàng
may mặc, giày, dép..., những mặt hàng năm 2001 chậm tiêu thụ nay cũng đã tiêu
thụ được, như: vải, quần áo may sẵn....
(3) Cơ cấu hàng hóa: chủng loại hàng
hóa có giá trị lớn như: đất, nhà ở loại kiên cố, ô tô, xe máy... đang tăng dần
tỷ trọng quỹ hàng hóa tiêu dùng của dân cư, không còn hạn hẹp như trước đây.
(4) Về giá cả: từ đầu năm 2002 đến
nay, giá lương thực và thực phẩm tăng, có lợi cho nông dân và làm cho sức mua 7
tháng đầu năm ở khu vực nông thôn tăng khoảng 4% so với cùng kỳ 2001. Tuy
nhiên, việc giá mua gom tăng cũng đang làm xuất khẩu nông sản gặp khó khăn (do
giá thị trường thế giới không tăng tương ứng).
(5) Về tổ chức mua gom và bán hàng:
Về mua gom hàng hóa của các doanh
nghiệp đã dần hình thành mạng lưới ổn định; nông sản sản xuất ở các vùng tập
trung, việc mua gom nhiều nông sản đã bắt đầu thông qua hợp đồng tiêu thụ sản
phẩm, giúp người sản xuất chủ động đầu tư, thâm canh nâng cao năng suất, góp phần
tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Riêng việc mua gạo, cà
phê cho xuất khẩu, năm nay có tình hình khác với những năm trước: giá xuất khẩu
có nhích lên, nhưng giá mua trong nước lại tăng nhanh hơn, nên xuất khẩu gặp
khó khăn.
Về bán hàng: các doanh nghiệp ngày
càng tổ chức thêm nhiều cửa hàng, điểm bán hàng; mở rộng mạng lưới tiêu thụ
thông qua hình thức đại lý... để tiêu thụ sản phẩm. Ở khu vực nông thôn: hình
thức đại lý hình thức bán hàng của các doanh nghiệp đã góp phần làm cho thị trường
phát triển. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần tạo điều kiện để phát triển dại lý
bán hàng ở nông thôn, do hình thức này phù hợp với quản lý và các điều kiện về
bán hàng của người dại lý ở nông thôn (là nông dân, vốn nhỏ bé, cơ sở cửa hàng,
địa điểm bán hàng đa dạng...).
Nhiều doanh nghiệp sản xuất đã mở các
cửa hàng mẫu để giới thiệu và tiếp cận người tiêu dùng; xây dựng hệ thống cửa
hàng, siêu thị (bao gồm cả cửa hàng tự chọn), để tăng khả năng bán hàng, phục vụ
tiêu dùng của dân cư.
(6) Thương nghiệp nhà nước chủ động
trong việc: tổ chức lưu thông các mặt hàng thiếu yếu; củng cố và phát triển mạng
lưới bán lẻ, nhất là ở khu vực miền núi, đảm bảo lưu thông các mặt hàng chính
sách tới các cụm xã: đi đầu thực hiện văn minh thương nghiệp và nâng cao chất
lượng trong khâu bán lẻ.
(7) Thương nghiệp tư nhân và cá thể,
tiếp tục có vị trí chủ yếu trong khâu bán lẻ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân
cư; là lực lượng quan trọng trong tổ chức tiêu thụ nông sản, mua gom, tạm trữ
nông sản xuất khẩu.
(8) Vệ sinh và an toàn thực phẩm còn
nhiều bất cập, nhiều trường hợp ảnh hưởng tới sức khoẻ của người tiêu dùng. Bao
bì, nhãn, mác hàng hóa phát triển chưa theo kịp yêu cầu của người tiêu dùng.
(9) Công tác bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng chưa được quan tâm đúng mức, người tiêu dùng thường không được đảm bảo
quyền lợi khi tranh chấp về mua, bán hàng hóa.
2- Một số đề nghị
- Các Bộ/ngành tiếp tục tạo điều kiện
để phát triển hình thức mua gom nông sản thông qua hợp đồng giữa doanh nghiệp
và nông dân; trong đó Bộ Thương mại chỉ đạo doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
theo các hợp đồng Chính phủ phải có hợp đồng ký với người sản xuất.
- Đề nghị Bộ Tài chính đến đầu quý
III/2002, giải quyết xong các vấn đề kỹ thuật để áp dụng VAT bằng 0% đối với mặt
hàng là vật tư, nguyên, phụ liệu sản xuất trong nước phục vụ sản xuất hàng xuất
khẩu.
- Đề nghị Chính phủ: giao cho Ngân hàng
nghiên cứu, hình thức hỗ trợ cho các đại lý bán hàng, để phát triển hình thức
này, nhất là ở khu vực nông thôn (có thể bằng cách cho các đại lý vay vốn với
lãi suất ưu đãi để thế chấp, khi nhận làm đại lý); giao Bộ Thương mại phối hợp
với các Bộ/ngành xây dựng dự án và tổ chức kinh doanh kho chứa hàng tại các cửa
khẩu, chợ nông sản ở khu vực đường biên; chấp nhận ý các kiến nghị của Ban chỉ
đạo 127/TW tại báo cáo số 2642/BCĐ-TW, ngày 9/7/2002, về công tác chống buôn lậu,
gian lận thương mại 6 tháng đầu năm và giải pháp từ nay đến cuối năm 2002./.
|
KT.BỘ
TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI
THỨ TRƯỞNG, TỔ PHÓ TỔ NCXT VÀ ĐIỀU
HÀNH THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
Lê Danh Vĩnh
|