BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
12-TC/NLTL
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 08 năm 1973
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH, HƯỚNG DẪN CỤ THỂ MỘT SỐ ĐIỂM TRONG CHẾ ĐỘ QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH HỢP TÁC XÃ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Để phục vụ yêu cầu phát triển
nông nghiệp theo tinh thần nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 19, Bộ Tài
chính và Ủy ban Nông nghiệp trung ương đã tổ chức nghiên cứu việc thi hành chế
độ quản lý tài chính hợp tác xã (1a)ở một số hợp
tác xã thuộc các tỉnh Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An, Vĩnh Phú và Hải Phòng. Qua đợt
nghiên cứu này đã rút ra tình hình như sau:
Tại những hợp tác xã quy mô nông
thôn, sản xuất kinh doanh chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi và các nghề khác
chưa phát triển mạnh thì chế độ quản lý tài chính và chế độ kế toán hợp tác xã
hiện hành về căn bản là thích hợp, đáp ứng được yêu cầu quản lý trong hợp tác
xã.
Tại những hợp tác xã quy mô xã,
sản xuất kinh doanh phát triển tương đối mạnh, chăn nuôi đã trở thành ngành
chính, ngành nghề khác đã phát triển với quy mô khá lớn thì có một số yêu cầu mới
về quản lý cần được giải quyết.
Ở những hợp tác xã này, số chi
phí sản xuất và số thu nhập về trồng trọt không còn chiếm tỷ lệ cao như trước.
Trái lại số chi phí và số thu nhập về chăn nuôi và ngành nghề khác đã tăng lên
nhiều và chiếm tỷ lệ ngày càng quan trọng trong tổng số chi phí và tổng số thu
nhập của hợp tác xã.
Tình hình sản xuất, kinh doanh
trong hợp tác xã đã từng bước mở rộng, nhưng việc tổ chức hạch toán và tính hiệu
quả kinh tế từng ngành sản xuất thì lại chưa được đặt ra. Hợp tác xã không xem
xét và không phân tích được từng yếu tố chi phí sản xuất, nên không có biện
pháp thúc đẩy tiết kiệm, không có cơ sở để phân tích hiệu quả kinh tế của từng
loại cây trồng, từng loại con gia súc của từng đội hoặc từng ngành sản xuất để
động viên khuyến khích những đơn vị quản lý tốt, hoặc kiểm điểm, phê phán những
đơn vị làm kém.
Từ tình hình trên, vấn đề đặt ra
là phải hướng dẫn hợp tác xã tổ chức hạch toán chi tiết, cụ thể để phản ánh
đúng thực tế hoạt động của từng khâu sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, từng
loại cây trồng và từng loại con gia súc, bảo đảm phục vụ thâm canh, tiết kiệm
chi phí sản xuất, tạo điều kiện để tính hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng đội
hoặc từng ngành sản xuất và giá thành của từng loại sản phẩm của từng đội sản
xuất.
Trong thời gian gần đây, Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Nông nghiệp trung ương, Tổng cục Thống kê có ban hành
một số chế độ như chế độ lập kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính thống nhất,
chế độ quyết toán năm. Những chế độ này đều có liên quan mật thiết đến chế độ
quản lý tài chính và chế độ kế toán của hợp tác xã, nên cần hướng dẫn hợp tác
xã cách vận dụng chế độ quản lý tài chính hiện hành cho khớp với các chế độ
khác.
Sản xuất kinh doanh của hợp tác
xã đã phát triển, công tác quản lý tài chính ngày càng phong phú và phức tạp
nhưng tổ chức bộ máy tài chính kế toán của hợp tác xã chưa được kiện toàn về số
lượng cũng như về trình độ năng lực công tác. Mặt khác việc chỉ đạo hướng dẫn,
kiểm tra hợp tác xã thực hiện chế độ quản lý tài chính và chế độ kế toán cũng
chưa chặt chẽ, thường xuyên vì chưa có sự phân công rành mạch giữa các ngành,
các cấp.
Vì vậy cần xác định rõ hơn trách
nhiệm tổ chức bộ máy và cách làm việc của bộ phận quản lý tài chính, kế toán
trong hợp tác xã, đồng thời kiện toàn cơ quan chuyên trách việc này ở các cấp,
nhất là cấp huyện để bảo đảm việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên các
hợp tác xã trong việc tổ chức thực hiện đầy đủ những chế độ quản lý tài chính
và chế độ kế toán đã quy định.
Sau khi thảo luận nhất trí với Ủy
ban Nông nghiệp trung ương và Ngân hàng Nhà nước. Bộ giải thích và hướng dẫn
thêm cách thi hành chế độ quản lý tài chính hợp tác xã về một số điểm cụ thể để
các ngành các cấp có trách nhiệm chỉ đạo hợp tác xã thực hiện cho phù hợp với
tình hình thực tế sản xuất kinh doanh đang đi lên.
I. VẤN ĐỀ HẠCH
TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA TỪNG NGÀNH SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH TỪNG LOẠI SẢN PHẨM TRONG HỢP TÁC XÃ.
Điều 2, chế độ quản lý tài chính
hợp tác xã đã quy định: “… quản lý tài chính hợp tác xã phải quán triệt nguyên
tắc… quản lý thống nhất, có kế hoạch và theo chế độ hạch toán kinh tế…”
Và điều 4 của chế độ còn quy định:
“… kế hoạch thu chi tài chính phải tính toán chặt chẽ các khoản chi phí sản xuất;
sau mỗi kỳ thu hoạch, hợp tác xã phải xác định đúng đắn các khoản chi phí sản
xuất để bù đắp đầy đủ số hao phí vật chất đã bỏ ra cho các ngành sản xuất …”
Hiện nay, một số hợp tác xã đã tổ
chức sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề như trồng trọt (lúa, màu và cây công
nghiệp); chăn nuôi (lợn, trâu, bò, gà, vịt); nghề khác (gạch, ngói, vôi, vận
chuyển ...); ngoài ra còn có đội xây dựng cơ bản, đội cơ khí. Trong mỗi ngành
có nhiều đội sản xuất. Trong mỗi đội sản xuất lại có tổ chức sản xuất một số loại
sản phẩm khác nhau. Đội trồng lúa hoặc đội trồng cây công nghiệp đều có trồng
thêm mầu. Đội nuôi lợn, có sản xuất ra rau cho lợn ăn, … Để sau mỗi vụ thu hoạch
có thể đánh giá, phân tích đúng hiệu quả kinh tế từng loại cây trồng, từng loại
con gia súc của mỗi đội hoặc mỗi ngành sản xuất, hợp tác xã phải tổ chức hạch
toán cụ thể phần chi phí sản xuất của từng loại cây trồng, từng loại con gia
súc đã thực hiện ở từng đội sản xuất, cũng như phải hạch toán cụ thể phần chi
phí sản xuất thực hiện ở hợp tác xã đem phân bổ cho từng đội hoặc từng ngành sản
xuất, chi phí sản xuất của mỗi đội hoặc ngành sản xuất phải thể hiện toàn bộ
phí tổn sản xuất trực tiếp, gián tiếp và bao gồm cả phần hao phí vật chất và
hao phí lao động. Hao phí lao động trong hợp tác xã chưa tính được bằng
tiền còn tính bằng ngày công, nhưng cũng phải hạch toán đầy đủ số lao động sống
đã bỏ ra để tiến hành sản xuất trong các ngành nghề, từ đó tính được số chi phí
bằng tiền và hao phí lao động để hoàn thành một đơn vị khối lượng công việc hoặc
tạo ra một đơn vị sản phẩm của mỗi đội hoặc ngành sản xuất.
Việc tổ chức hạch toán chi phí sản
xuất trong hợp tác xã bao gồm:
Ngành trồng trọt, gồm có:
- Hạch toán chi phí sản xuất từng
vụ của từng loại cây trồng trong từng đội trồng lúa, đội trồng màu hoặc đội trồng
cây công nghiệp. Nếu trong các đội ấy có trồng xen kẽ loại cây nào thì cũng hạch
toán chi phí sản xuất riêng loại cây ấy. Từ đó, hợp tác xã có cơ sở so sánh số
chi phí sản xuất đã bỏ ra với số sản phẩm đã thu được của từng loại cây trồng
trong mỗi đội, biết được hao phí lao động vật hóa và lao động sống của một đơn
vị sản phẩm, biết được hiệu quả sản xuất, kinh doanh của từng loại cây trồng
trong mỗi đội;
- Hạch toán tổng số chi phí của
mỗi đội đã sử dụng, so sánh với giá trị tổng sản phẩm của các loại cây trồng mà
đội đã thu được, để biết hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn đội;
- Hạch toán chi phí sản xuất của
các đội trồng trọt đã bỏ ra, so sánh với giá trị tổng số sản phẩm của các đội
trồng trọt đã thu được để biết hiệu quả sản xuất, kinh doanh của toàn ngành trồng
trọt.
Ngành chăn nuôi gồm có: hạch
toán chi phí sản xuất của đội nuôi lợn, đội nuôi trâu bò, đội hoặc tổ nuôi gia
cầm, đội nuôi cá, tổng hợp toàn ngành chăn nuôi.
Ngành nghề khác gồm có: đội
làm gạch ngói, đội nung vôi, đội vận chuyển, v.v… tổng hợp toàn ngành nghề
khác.
Ngành xây dựng cơ bản gồm
có: từng đội xây dựng, từng công trình xây dựng cơ bản.
Ngành cơ khí gồm có: đội
máy cày, tổ xay sát, nghiền thức ăn gia súc, tổ rèn…
Trong mỗi đội cùa ngành chăn
nuôi, ngành nghề khác, ngành xây dựng cơ bản, hoặc ngành cơ khí, nếu có tổ chức
sản xuất xen kẽ thêm một số loại sản phẩm nào khác thì cũng phải tổ chức hạch
toán riêng và cụ thể từng loại sản phẩm xen kẽ ấy giống như tổ chức hạch toán của
ngành trồng trọt.
Về nội dung cụ thể các khoản chi
phí sản xuất từng ngành, xin xem bảng phụ lục kèm theo thông tư này. (*)
Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất
như trên, sau mỗi vụ sản xuất, hợp tác xã có thể xác định chính xác phần chi
phí sản xuất đã thực hiện ở từng đội sản xuất đối chiếu với sản phẩm do đội làm
ra, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của từng đội; phân tích từng yếu tố
chi phí sản xuất. Khi phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn ngành, hợp
tác xã tổng hợp số chi phí sản xuất đã thực hiện ở các đội và phần chi phí thực
hiện ở hợp tác xã phân bổ cho ngành, từ đó hợp tác xã có cơ sở để phân tích hiệu
quả sản xuất kinh doanh của từng ngành sản xuất.
II. MỘT SỐ ĐIỂM
TRONG CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CẦN VẬN DỤNG CHO KHỚP VỚI CÁC CHẾ ĐỘ KHÁC.
1. Việc thực hiện kế hoạch
thu chi tài chính: Điều 6 của chế độ quản lý tài chính hợp tác xã đã quy định
những nguyên tắc lập kế hoạch thu chi tài chính: bảo đảm việc xây dựng kế hoạch
thu chi tài chính tiến hành cùng một lúc và ăn khớp với việc tính toán kế
hoạch sản xuất, lao động, kỹ thuật, vật tư … của hợp tác xã. Nhưng thực tế
trong mấy năm qua, việc lập kế hoạch của hợp tác xã có gặp khó khăn. Kế hoạch sản
xuất kỹ thuật, tài chính của hợp tác xã không được xây dựng cùng một lúc, và
trong hệ thống biểu mẫu kế hoạch có một số điểm trùng lắp và không thống nhất.
Để chấn chỉnh tình hình ấy, Bộ
Tài chính và các ngành có liên quan đã nhất trí với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
nghiên cứu và xây dựng hệ thống biểu mẫu kế hoạch của hợp tác xã gồm có các biểu
mẫu kế hoạch sản xuất, lao động, tài chính, vật tư, kỹ thuật thành một hệ thống
thống nhất do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước ban hành ngày 14-5-1971.
Để bảo đảm việc xây dựng các kế
hoạch trong hợp tác xã có chất lượng, bộ phân tài chính kế toán trong hợp tác
xã phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận sản xuất lao động, vật tư, kỹ thuật
trong hợp tác xã để thực hiện đúng toàn bộ hệ thống kế hoạch thống nhất do Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước đã ban hành, thông qua kế hoạch tài chính mà kiểm tra chất
lượng kế hoạch, sản xuất, kỹ thuật, phát hiện các khả năng tiềm tàng, làm cho kế
hoạch sản xuất của hợp tác xã vừa tích cực, vừa vững chắc.
2. Điều chỉnh kế hoạch thu hoạch
tài chính, điều 7 của chế độ có quy định: “Nếu gặp trường hợp đột xuất ảnh
hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch, ban quản trị phải kịp thời điều chỉnh kế hoạch cho
phù hợp với tình hình mới”.
Hiện nay, quy mô sản xuất kinh
doanh của hợp tác xã đã phát triển, điều chỉnh bất kỳ một phần nào trong hệ thống
kế hoạch của hợp tác xã cũng có ảnh hưởng đến việc đầu tư vốn chi phí sản xuất
hoặc vốn xây dựng cơ bản, có liên quan đến nguyên tắc quản lý dân chủ trong hợp
tác xã, và ảnh hưởng đến thu nhập của hợp tác xã và xã viên.
Vì vậy, khi có tình hình đột xuất
xảy ra, có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, lao động và tài chính
như thay đổi loại cây trồng, thay đổi diện tích gieo trồng, thay đổi nội dung sử
dụng các quỹ tích lũy, công ích, vốn sản xuất… thì tập thể ban quản trị phải thảo
luận, cân nhắc kỹ, nếu thấy cần điều chỉnh kế hoạch thì ban quản trị phải có dự
kiến điều chỉnh đồng bộ cho kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư và tài chính và
tổ chức họp với đại biểu các đội sản xuất để thông qua kế hoạch điều chỉnh, sau
đó ban quản trị phải báo cáo kế hoạch điều chỉnh với kỳ họp đại hội xã viên gần
nhất.
Trường hợp đột xuất gây ra do nắng
hạn, mưa úng hoặc do thiên tai mất mùa và các trường hợp tương tự khác… thì Ban
quản trị thảo luận tập thể, quyết định bổ sung khoản chi phí sản xuất kịp thời,
đáp ứng yêu cầu sản xuất. Nhưng sau đó, Ban quản trị phải báo cáo việc chi bổ
sung ấy với kỳ họp đại hội xã viên gần nhất.
3. Thực hiện chế độ hợp đồng
kinh tế, thực hiện kế hoạch sản xuất, lao động, vật tư, tài chính trong hợp
tác xã có liên quan đến các cơ quan kinh tế của Nhà nước và các hợp tác xã bạn.
Sau khi các kế hoạch của hợp tác xã đã được đại hội xã viên thông qua, ngoài những
điểm đã quy định trong chế độ về tổ chức thực hiện kế hoạch thu chi tài
chính, Ban quản trị còn có nhiệm vụ tổ chức ký hợp đồng với các cơ quan
kinh tế của Nhà nước và các hợp tác xã bạn.
Hợp tác xã cần ký các loại hợp
đồng như:
- Mua nguyên, nhiên liệu: phân đạm,
lân, vôi, giống lúa, lợn, các giống khác; vật liệu cho nghề khác, cho xây dựng
cơ bản; lương thực, thực phẩm cho chăn nuôi…
- Thuê các loại máy cơ khí phục
vụ cho công việc sản xuất hợp tác xã: máy kéo máy bơm, thủy lợi tưới tiêu, thuyền
xe vận chuyển…
- Bán nông sản cho các cơ quan
thu mua.
Thực hiện chế độ hợp đồng 2 chiều:
nội dung hợp đồng phải ghi rõ số lượng, chất lượng, địa điểm và thời gian giao
nhận, thời gian hoàn thành, cách thức thanh toán v.v… phải có sự bàn bạc dân chủ,
bình đẳng, quá trình thực hiện hợp đồng, nếu vì lý do khách quan không thực hiện
được thì hai bên bàn bạc với nhau để giải quyết kịp thời, hai bên đều phải tôn
trọng hợp đồng và nghiêm chỉnh thực hiện, bên nào vi phạm hợp đồng đã ký cũng
phải chịu sự xử lý của hội đồng trọng tài cấp huyện.
4. Quyết toán năm kế hoạch của
hợp tác xã, điều 8 của chế độ nói về nguyên tắc thu, chi tài chính trong hợp
tác xã có quy định:
“Hợp tác xã không được ghi vào
quyết toán những khoản thu chưa thực hiện và những khoản chi phí chưa có thu nhập.
Trường hợp đặc biệt, những hợp tác xã chuyên trồng những loại cây mà sau ngày
31 tháng 12 mới có thu hoạch thì có thể ghi vào quyết toán năm kế hoạch những
khoản thu chắc chắn thực hiện được trong vòng tháng 1 năm sau. Những khoản thu
chi sẽ thực hiện từ ngày 1 tháng 2 trở đi phải chuyển hết cho năm sau”.
Thực hiện quy định trên, trong mấy
năm qua, nhiều hợp tác xã dự thu không chính xác, số dự thu thường cao hơn hoặc
thấp hơn thực tế. Do đó khoản dự thu, một số hợp tác xã phải tạm sử dụng
vốn sản xuất hoặc vốn tích lũy tương đương với số dự thu đế phân phối. Nhưng đến
khi thu hoạch thực tế nếu không đạt mức sản phẩm đã dự kiến thì không đủ tiền để
trả lại vốn sản xuất hoặc quỹ tích lũy, đưa đến tình trạng chia mất vốn sản xuất
hoặc quỹ tích lũy.
Để khắc phục tình trạng trên, thời
gian quyết toán năm sản xuất của hợp tác xã từ nay về sau vẫn lấy ngày 31 tháng
12, nhưng chỉ được ghi những khoản thu thực hiện trước ngày 31 tháng 12 vào quyết
toán năm kế hoạch. Những khoản thu sẽ thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm sau đều
chuyển hết cho năm sau. Bản quyết toán của hợp tác xã từ nay về sau không có
khoản dự thu nữa. Những khoản chi phí sản xuất cho cây trồng và con gia súc sẽ
thu hoạch từ ngày 1 tháng 1 trở đi thì hợp tác xã phải hạch toán rõ trên cơ sở
chứng từ cụ thể cho năm sau, hợp tác xã không được ước tính số chi phí sản xuất
để chuyển cho năm sau nữa.
Trong năm đầu những khoản thu sẽ
thu trong tháng một năm sau quá nhiều nếu không tính thu vào năm trước, có ảnh
hưởng đến giá trị ngày công. Trường hợp này, đại hội xã viên quyết định trích một
phần quỹ dự trữ hoặc có kế hoạch vay tín dụng ngắn hạn để chia cho ngày công, bảo
đảm giá trị ngày công của năm kế hoạch không thấp quá so với những năm thu hoạch
bình thường. Số quỹ dự trữ đã trích này hoặc số tiền vay tín dụng ngắn hạn phải
được bù đắp lại đầy đủ khi phân phối vụ chiêm năm sau.
III. VỀ TỔ CHỨC
VÀ CÁCH LÀM VIỆC CỦA BỘ PHẬN CHUYÊN TRÁCH CÔNG TÁC TÀI CHÍNH KẾ TOÁN TRONG HỢP
TÁC XÃ
1. Về tổ chức bộ máy kế toán
tài chính điều 30 của chế độ có quy định: “Bộ máy kế toán tài chính của hợp
tác xã gồm có kế toán trưởng, nhân viên kế toán (nếu cần) thủ quỹ, thủ kho, kế
toán đội hoặc tổ sản xuất”.
Hiện nay, đã có những hợp tác xã
tổ chức sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề, chăn nuôi từng bước trở thành
ngành chính, một số nghề khác đã mở rộng. Vì vậy bộ máy kế toán tài chính những
hợp tác xã loại này phải được kiện toàn để đủ năng lực thực hiện đầy đủ chế độ
hạch toán kinh tế trong hợp tác xã. Bộ máy kế toán tài chính của hợp tác xã cần
có: kế toán trưởng và một số kế toán viên chuyên trách một số công việc trong
công tác kế toán, để bảo đảm vừa có người chỉ đạo tổ chức, hướng dẫn, tổng hợp,
vừa có người chuyên trách để ghi chép ở từng ngành sản xuất. Kế toán trưởng và
kế toán viên đều phải được đào tạo, bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ. Kế toán trưởng
phải có năng lực, đạo đức như đã quy định trong chế độ và cần được bồi dưỡng
thêm để có đủ năng lực hướng dẫn các ngành mới phát triển tổ chức hạch toán và
phân tích hoạt động kinh tế của từng ngành sản xuất cũng như của toàn hợp tác
xã. Kế toán viên phải biết giữ sổ sách, ghi chép đúng chế độ, cung cấp số liệu
tham gia phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh, phản ánh kịp thời của ngành sản
xuất do mình phụ trách
Về trách nhiệm của kế toán trưởng
điều 32 của chế độ có quy định: “Kế toán trưởng phải kiểm tra việc chấp hành
nguyên tắc, chế độ và kỷ luật tài chính kế toán trong hợp tác xã, gặp trường hợp
ban quản trị hợp tác xã quyết định các khoản thu, chi không đúng chế độ, kế
toán trưởng có quyền yêu cầu chấp hành đúng; nếu ý kiến đó không được chấp nhận
thì kế toán trưởng vừa chấp hành quyết định của ban quản trị, vừa báo cáo kịp
thời với ban kiểm soát hợp tác xã hoặc với Ủy ban hành chính xã”
Để phù hợp với chương III Điều lệ
tổ chức kế toán Nhà nước vừa được sửa đổi nay sửa lại đoạn quy định trên như
sau:
Kế toán trưởng phải kiểm tra việc
chấp hành nguyên tắc, chế độ và kỷ luật tài chính, kế toán trong hợp tác xã. Gặp
trường hợp Ban quản trị hợp tác xã quyết định các khoản thu, chi không đúng chế
độ, kế toán trưởng có quyền yêu cầu chấp hành đúng, nếu ý kiến đó không được chấp
nhận thì kế toán trưởng yêu cầu ban quản trị ra lệnh bằng văn bản; khi ban quản
trị đã ra lệnh bằng văn bản rồi thì kế toán trưởng vừa chấp hành quyết định của
ban quản trị, vừa có nhiệm vụ báo cáo với ban kiểm soát hợp tác xã và Ủy ban
hành chính xã.
2. Kiểm tra tài chính – kế
toán trong hợp tác xã.
Điều 23 của chế độ có quy định:
“ Việc kiêm tra tài chính – kế
toán trong hợp tác xã do hợp tác xã tự làm là chính, ngoài ra Ủy ban hành chánh
các cấp thông qua các bộ môn chuyên trách của mình, có thể trực tiếp kiểm tra
tài chính kế toán của hợp tác xã nhằm giúp hợp tác xã cải tiến và tăng cường
công tác quản lý tài chính, kế toán”. Về điểm này Bộ hướng dẫn thêm như sau:
Sản xuất của hợp tác xã ngày càng
mở rộng, hoạt động tài chính trong hợp tác xã ngày phát triển, cán bộ kiểm soát
của hợp tác xã thường thay đổi luôn; mặt khác, số cán bộ này lại không thành thạo
về nghiệp vụ kiểm tra tài chính kế toán. Vì vậy ban quản lý hợp tác xã trong Ủy
ban nông nghiệp huyện có trách nhiệm hướng dẫn ban kiểm soát hợp tác xã thường
xuyên kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý tài chính, chế độ kế toán hợp tác
xã của ban quản trị, của bộ phận tài chính kế toán hợp tác xã. Đồng thời ban quản
lý hợp tác xã trong Ủy ban nông nghiệp huyện có trách nhiệm thường xuyên kiểm
tra nắm tình hình nhu cầu thu, chi hàng tháng của hợp tác xã, kịp thời uốn nắn
những hiện tượng lệch lạc và kiểm tra các bản báo cáo quyết toán thu, chi từng
vụ và cả năm của hợp tác xã.
Sau mỗi lần kiểm tra, nếu có những
kết luận của đoàn kiểm tra được đại hội hoặc đại hội xã viên đồng ý thì ban quản
trị và bộ phận tài chính kế toán của hợp tác xã phải thực hiện đầy đủ những kiến
nghị đã đề ra. Biên bản kiểm tra và những ý kến của xã viên về biên bản ấy phải
viết thành 2 bản để lưu lại hợp tác xã 1 bản và gửi lên ban quản lý hợp tác xã
của cấp huyện 1 bản
3. Về trách nhiệm hướng dẫn
thực hiện chế độ quản lý tài chính hợp tác xã
Căn cứ vào điều 35 chế độ quản
lý tài chính hợp tác xã và nghị quyết số 101-CP ngày 3-7-1968 của Hội đồng
Chính phủ về nguyên tắc quản lý tài chính trong hợp tác xã, Ủy ban hành chánh tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và khu vực Vĩnh Linh có trách nhiệm chỉ đạo Ủy
ban nông nghiệp cấp mình tổ chức bộ máy chuyên trách công tác tài chính, kế
toán hợp tác xã ở các cấp tỉnh, thành, huyện với số lượng cán bộ cần thiết để
hướng dẫn thường xuyên việc thực hiện chế độ quản lý tài chính hợp tác xã cho
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp và đặc điểm của địa phương.
Ủy ban hành chính các cấp căn cứ
vào những nội dung hướng dẫn, giải thích trong thông tư này để chỉ đạo để chỉ đạo
thực hiện chế độ quản lý tài chính hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cho phù hợp
với tình hình thực tế sản xuất kinh doanh của từng loại hợp tác xã.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Hoàng Văn Diệm
|
(1a) Hợp
tác xã nói trong văn bản này là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
(*)
Không in bảng phụ lục