BỘ VĂN HÓA
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG
HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số : 170-VH/QĐ
|
Hà Nội, ngày 20
tháng 04 năm 1961
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH CHẾ ĐỘ NHUẬN BÚT SÁCH VÀ NHUẬN BÚT CỦA CÁC NGÀNH SÂN KHẤU, MÚA, XIẾC, ĐIỆN
ẢNH, ÂM NHẠC, HỘI HỌA, ĐIÊU KHẮC, MỸ NGHỆ, NHIẾP ẢNH VÀ BÁO CHÍ
BỘ TRƯỞNG BỘ VĂN HÓA
Căn cứ Nghị quyết số 25-CP ngày 24-02-1961 của Hội đồng
Chính phủ về chế độ nhuận bút trả cho những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa
học, kỹ thuật;
Xét đề nghị của các Hội Văn học, nghệ thuật;
Xét đề nghị của các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc ở
trung ương cũng như địa phương sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,
kỹ thuật;
Sau khi đã được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn về chế độ nhuận bút của các
Bộ Nội vụ, Lao động, Tài chính.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Ban
hành chế độ nhuận bút sách và nhuận bút của các ngành sân khấu, múa, xiếc, điện
ảnh, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, mỹ nghệ, nhiếp ảnh, báo chí như quy định ở dưới
đây:
1. Đối với các loại sách được xuất bản lần
thứ nhất sẽ trả cho tác giả một số tiền gốc tương xứng với giá trị và công lao
xây dựng tác phẩm gọi là nhuận bút cơ bản, đồng thời lại trả cho tác giả một số
tiền nhuận bút cho sách in ra tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản.
Khi tái bản không trả nhuận bút cơ bản, chỉ trả nhuận bút cho số sách in ra
tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản.
Cụ thể là: Khi tính nhuận bút số
sách in ra sẽ tính bắt đầu từ lần xuất bản thứ nhất đem cộng với số sách tái bản
in ra các lần sau.
2. Sách giáo khoa chỉ được hưởng tiền nhuận
bút cơ bản, không được hưởng tiền nhuận bút theo số sách in ra, vì số lượng
sách giáo khoa in ra là căn cứ vào số lượng của học sinh nhằm cung cấp tài liệu
học tập cho học sinh. Khi tái bản sách giáo khoa nếu có sửa chữa hoặc bổ sung
thì được trả tiền thù lao cho phần sửa chữa và bổ sung ấy. Những đoạn văn thơ
trích vào sách giáo khoa có tính chất giới thiệu dẫn giải không được tính tiền
nhuận bút.
3. Đối với tất cả các loại sách khi tái bản
có sửa chữa hoặc bổ sung đều được trả tiền thù lao cho phần sửa chữa và bổ sung
ấy.
Đối với các loại sách viết cho thiếu nhi được
khuyến khích trả thêm 5% tiền nhuận bút cơ bản.
4. a) Đối với các loại sách sáng tác, lý luận,
phê bình, nghiên cứu thì tùy theo chất lượng của tác phẩm là chủ yếu và căn cứ
vào số chữ, lấy đơn vị mỗi 1.000 chữ văn xuôi là một trang tác giả (nếu là kịch
bản thì tính 700 chữ, nếu là thơ thì tính 30 câu bằng 1.000 chữ xuôi) được trả
nhuận bút cơ bản chia làm 7 mức:
6đ, 8đ, 11đ, 15đ, 18đ, 23đ, 26đ.
b) Đối với các loại sách: phóng tác, chỉnh
biên thì tùy theo chất lượng của tác phẩm là chủ yếu và căn cứ vào số chữ lấy
đơn vị 1.000 chữ văn xuôi là 1 trang tác giả (nếu là kịch bản thì tính 700 chữ,
nếu là thơ thì tính 30 câu bằng 1.000 chữ văn xuôi) được trả tiền nhuận bút cơ
bản chia làm 7 mức:
3đ, 1đ50, 6đ50, 9đ, 11đ, 14đ, 15đ50.
c) Đối với sách dịch thì tùy theo chất lượng
của bản dịch là chủ yếu lấy đơn vị mỗi 1.000 chữ văn xuôi là 1 trang tác giả (nếu
là thơ thì tính 30 câu bằng 1.000 chữ văn xuôi, còn dịch kịch bản vẫn tính như
văn xuôi tức là vẫn lấy đơn vị là 1.000 chữ văn xuôi) được trả tiền nhuận bút
cơ bản chia làm 7 mức:
3đ, 4đ, 5đ50, 7đ50, 9đ, 11đ50, 13đ.
Dịch sách kinh điển, văn học mà chất lượng
của bản dịch cao, có thể trả mức tiền nhuận bút cơ bản như các loại sách sáng
tác.
5. a) Nhuận bút trả cho số sách in ra thuộc
loại sáng tác lý luận, phê bình, nghiên cứu được tính theo tỷ lệ % (phần trăm)
của nhuận bút cơ bản.
Cụ thể là: Tính số sách in ra lần thứ
nhất cộng với số sách in ra các lần sau mà trả theo một tỷ lệ % của nhuận bút
cơ bản giảm dần xuống như dưới đây:
Từ 1.000 đến 10.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 6% tiền nhuận bút cơ bản .
Từ 10.001 đến 30.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 5% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 30.001 bản trở lên, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 4% tiền nhuận bút cơ bản.
b) Nhuận bút trả cho số sách in ra thuộc loại
sách phóng tác, chỉnh biên được tính theo % của nhuận bút cơ bản .
Cụ thể là: Tính số sách in ra lần thứ
nhất cộng với số sách in ra các lần sau mà trả theo một tỷ lệ % (phần trăm) của
nhuận bút cơ bản giảm dần xuống như quy định dưới đây:
Từ 1.000 đến 10.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 3% tiền nhuận bút cơ bản .
Từ 10.001 đến 30.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 2% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 30.001 bản trở lên, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 1% tiền nhuận bút cơ bản.
c) Nhuận bút trả cho số sách dịch được tính
theo tỷ lệ % của nhuận bút cơ bản.
Cụ thể là: Tính số sách in ra lần thứ
nhất cộng với số sách in ra các lần sau mà trả theo một tỷ lệ % của nhuận bút
cơ bản giảm dần xuống như quy định dưới đây:
Từ 1.000 đến 10.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 2% tiền nhuận bút cơ bản .
Từ 10.001 đến 30.000 bản, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 1% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 30.001 bản trở lên, mỗi 1.000 bản được
trả thêm 0,5% tiền nhuận bút cơ bản.
6. Để tránh tình trạng do yêu cầu học tập,
phổ biến chính sách vận động quần chúng, v.v… mà số lượng sách phải in ra gấp
nhiều lần so với mức in bình thường, do đó tiền nhuận bút số sách in ra sẽ quá
chênh lệch với số tiền nhuận bút cơ bản, vì vậy đối với những sách đó không lấy
1.000 bản làm đơn vị mà sẽ lấy 3.000 bản, 5.000 bản làm đơn vị để tính trả nhuận
bút cho số sách đó được in ra như điểm 4 đã quy định ở trên.
Các nhà xuất bản sẽ căn cứ vào tính chất và
đối tượng phục vụ cũng như số lượng các loại sách thường được in ra nhiều hay
ít mà quy định đơn vị số lượng sách in ra cho được thích hợp với từng nhà xuất
bản, sau khi đã được Cục xuất bản thỏa thuận và Bộ Văn hóa thông qua.
7. a) Đối với các loại sách cũ đã xuất bản
trước cũng như sau Cách mạng tháng 8-1945 và trong thời gian kháng chiến, mà từ
ngày hòa bình lập lại cho tới nay chưa tái bản hoặc đã tái bản ở nhà xuất bản
tư nhân thì kể từ ngày ban hành chế độ nhuận bút này, nếu được nhà xuất bản
công tái bản thì vẫn được trả đủ 100% tiền nhuận bút cơ bản.
b) Đối với các loại sách đã xuất bản trước
cũng như sau Cách mạng tháng 8-1945 và trong thực hiện kháng chiến, ngoài việc
được hưởng tiền nhuận bút cơ bản như mục a ở điểm 6 nói trên còn được hưởng tiền
nhuận bút theo số sách in ra như điểm 4 và 5 đã quy định ở trên.
8. Đối với các loại sách đã xuất bản hoặc
tái bản sau ngày hòa bình lập lại tại nhà xuất bản công nay được in lại thì
không phải trả tiền nhuận bút cơ bản mà chỉ tính tiếp theo những số bản lần trước
mà trả tiền nhuận bút theo số sách in ra cho tác giả theo như điểm 4 và 5 đã
quy định ở trên.
9. Tác phẩm nào đạt được yêu cầu của
nhà xuất bản mà nhà xuất bản đã hứa hẹn sử dụng, nhưng vì một lý do chính đáng
nào đó, không thể xuất bản được thì nhà xuất bản phải trả cho tác giả có tác phẩm
đó tối thiểu là 50% số tiền nhuận bút cơ bản và thương lượng với tác giả nếu
sau này tác phẩm đó được xuất bản thì sẽ được tính trả thêm cho đủ mức tiền nhuận
bút cơ bản đã được quy định.
10. Thẩm tra duyệt lại sách thì căn cứ tính
chất bản thảo và sự thẩm duyệt tốn nhiều công phu hay ít mà tính thù lao trả
cho mỗi bản thảo từ 3đ đến 60đ. Trường hợp đặc biệt có thể cân nhắc trả hơn.
11. Đối với những tác phẩm âm nhạc, hội họa,
điêu khắc, nhiếp ảnh, v.v… được sử dụng bằng hình thức sản xuất thì sẽ tính nhuận
bút theo quy định trả nhuận bút của ngành đó.
12. Căn cứ vào quy định trả nhuận bút sách
(và nhuận bút đối với từng ngành âm nhạc, hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, v.v…
thuộc về hình thức nhuận bút sách) các nhà xuất bản sẽ dựa vào những quy định
đó mà có thể quy định chi tiết để áp dụng cho từng nhà xuất bản được thích hợp,
sau khi đã được Bộ Văn hóa thông qua.
1. Kịch bản gồm : kịch nói, kịch hát
v.v…Đối với các kịch bản ấy thuộc loại: sáng tác, cải tiến, phóng tác, chỉnh
lý, chuyển thể, dịch (kể cả các kịch bản do những con rối biểu diễn) diễn trọn
1 tối (trên dưới hai tiếng) được các đoàn kịch quốc doanh và dân doanh thu và
được Vụ Nghệ thuật công nhận thì tùy theo chất lượng một kịch bản mà trả tiền
nhuận bút cơ bản từ 400đ đến 2.000đ và chia làm 2 loại như dưới đây:
Loại sáng tác kịch nói, kịch hát được
trả tiền nhuận bút cơ bản làm 6 mức:
800đ, 1.000đ, 1.300đ, 1.500đ, 1.800đ, 2.000
đồng.
Loại cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển
thể, dịch được trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
400đ, 550đ, 750đ, 900đ, 1.100đ, 1.300 đồng.
- Đối với các loại kịch bản nói trên không
diễn trọn 1 tối (mà chỉ diễn khoảng trên dưới một tiếng) thì Vụ Nghệ thuật căn
cứ, vào chất lượng kịch bản là chủ yếu và thời gian biểu diễn của mỗi kịch bản
mà trả nhuận bút bằng 20% đến 80% số tiền nhuận bút cơ bản của các loại kịch bản
diễn trọn một tối như đã quy định ở trên.
2. Đối với kịch bản như sáng tác, cải biên,
phóng tác, chỉnh lý, chuyển thể, dịch được các đoàn kịch quốc doanh và dân
doanh ở địa phương biểu diễn có doanh thu và được Sở hoặc Ty Văn hóa địa phương
công nhận thì tùy theo chất lượng của kịch bản là chủ yếu và thời gian biểu diễn
mà trả tiền thù lao bằng từ 30% đến 80% số tiền nhuận bút cơ bản của các loại kịch
bản được biểu diễn trên sân khấu như điểm 1 đã quy định ở trên.
Nếu kịch bản nào đã diễn cho công chúng xem
ở địa phương có giá trị và có thể phổ biến chung được thì các Sở hoặc Ty Văn
hóa sẽ gửi kịch bản đó cho Vụ Nghệ thuật. Khi được Vụ Nghệ thuật công nhận và
trả tiền nhuận bút cơ bản cho kịch bản đó như điểm 1 đã quy định ở trên thì sẽ
trừ số tiền thù lao mà các Sở hoặc Ty Văn hóa đã trả cho tác giả trước đây.
3. Thành lập một quỹ trả nhận bút của
ngành sân khấu: sẽ do các đoàn văn công trung ương trích đồng loạt một tỷ lệ
là 8% số tiền doanh thu biểu diễn còn các đội văn công và các đoàn kịch dân
doanh sẽ tùy khả năng tài chính của từng địa phương mà trích 5%, hoặc 6%, hoặc
7% số tiền doanh thu biểu diễn để thành lập một quỹ trả nhuận bút cho ngành sân
khấu.
Số quỹ nói trên hiện nay tạm thời chia làm
2 phần. Một phần giao cho Vụ Nghệ thuật quản lý gọi là quỹ của trung ương; còn
một phần quỹ giao cho Sở hoặc Ty Văn hóa quản lý gọi là quỹ của địa phương.
Cụ thể là: các đoàn văn công trung
ương trích đồng loạt 8% số tiền doanh thu biểu diễn chuyển lên Vụ Nghệ thuật để
làm quỹ của trung ương.
- Các đội văn công và các đoàn kịch dân doanh
địa hương nếu diễn kịch bản do địa phương mình công nhận và đã trả tiền thù lao
cho kịch bản đó rồi, thì sẽ tùy theo khả năng tài chính của từng địa phương mà
trích 5% hoặc 6% hoặc 7% số tiền doanh thu biểu diễn chuyển lên Sở hoặc Ty Văn
hóa trực tiếp phụ trách quản lý để làm quỹ của địa phương. Sở hoặc Ty Văn hóa
đó sẽ trả tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn cho tác giả có kịch bản đó và báo
cho Vụ Nghệ thuật biết.
- Các đội văn công và các đoàn kịch dân
doanh địa phương nếu diễn kịch bản mà không thuộc địa phương mình công nhận và
không phải trả thù lao cho kịch bản đó, thì vẫn phải trích 5% hoặc 6% hoặc 7% số
tiền doanh thu biểu diễn để góp vào quỹ trả nhuận bút của ngành sân khấu, nhưng
cần khuyến khích việc sử dụng kịch bản được rộng rãi nên được giữ lại 1% số tiền
doanh thu biểu diễn đó để nhập vào quỹ trả nhuận bút của địa phương mình. Còn lại
4%, hoặc 5% hoặc 6% số tiền doanh thu biểu diễn đó, các Sở hoặc Ty Văn hóa địa
phương sẽ chuyển cho Vụ Nghệ thuật. Vụ Nghệ thuật có trách nhiệm chuyển số tiền
trả nhuận bút về số lượt biểu diễn cho tác giả theo như điều 4 đã quy định dưới
đây. Còn tất cả số tiền còn lại Vụ Nghệ thuật sẽ chuyển cho nơi đã công nhận và
đã trả thù lao cho kịch bản đó.
4. Đối với các kịch bản được Vụ Nghệ thuật
hoặc được các Sở, Ty Văn hóa công nhận và đã được trả đủ mức nhuận bút cơ
bản hoặc đã trả đủ mức thù lao cho kịch bản đó như điểm 1 và 2 đã quy định ở
trên, còn được trả nhuận bút về số lượt biểu diễn bằng cách trích một tỷ lệ %
(phần trăm) số tiền doanh thu biểu diễn của kịch bản đó (chưa trừ chi phí biểu
diễn) để trả nhuận bút cho tác giả.
Cụ thể là: Kịch bản thuộc loại sáng
tác được trích 1% số tiền doanh thu biểu diễn nhưng khi kịch bản đó đã hưởng
nhuận bút vể số lượt biểu diễn tới 50% số tiền nhuận bút cơ bản rồi thì bắt đầu
giảm xuống chỉ còn được hưởng 0,6% số tiền doanh thu biểu diễn.
Kịch bản thuộc loại cải biên, phóng tác, chỉnh
lý, chuyển thể, dịch được trích 0,6% số tiền doanh thu biểu diễn, nhưng khi kịch
bản đó đã hưởng nhuận bút về số lượt biểu diễn tới 50% số tiền nhuận bút cơ bản
thì bắt đầu giảm xuống chỉ còn được hưởng 0,3% số tiền doanh thu biểu diễn.
5. Đối với các kịch bản, đã công diễn trước
ngày 01-03-1959 và đã được hưởng tỷ lệ % (phần trăm) tiền doanh thu biểu diễn
thì không được hưởng nhuận bút cơ bản nữa, nhưng vẫn được hưởng nhuận bút về số
lượt biểu diễn như điểm 4 đã quy định ở trên.
6. a) Đối với các kịch bản, công diễn sau
ngày 01-03-1959 thì được tính bắt đầu từ ngày chính thức công diễn đầu tiên ở một
đoàn kịch quốc doanh hoặc dân doanh ở trung ương cũng như ở địa phương cho hết
thời hạn là 2 năm thì bắt đầu hưởng nhuận bút về số lượt biểu diễn như điểm 4
đã quy định ở trên ví dụ: 1 kịch bản công diễn từ 01-05-1959 thì đến ngày
01-05-1961 mới hết thời hạn.
b) Vì tình hình đặt biệt của ngành sân khấu
nên sau ngày 01-03-1959 việc trả nhuận bút cho tác giả có kịch bản đang công diễn
quy định như dưới đây:
- Kịch bản thuộc loại sáng tác diễn ở các
đoàn văn công trung ương trích 6% số tiền doanh thu biểu diễn, diễn ở các
đội văn công và các đoàn kịch dân doanh địa phương thì sẽ tùy theo khả năng tài
chính của từng địa phương mà trích 4% hoặc 5% hoặc 6% số tiền doanh thu biểu diễn
(chưa trừ chi phí biểu diễn) để trả nhuận bút cho tác giả có kịch bản đó.
- Kịch bản thuộc loại cải biên, phóng tác,
chỉnh lý, chuyển thể, dịch diễn ở các đoàn văn công trung ương trích 4% số
tiền doanh thu biểu diễn, diễn ở các đội văn công và đoàn kịch dân doanh địa
phương thì sẽ tùy theo khả năng tài chính của từng địa phương mà trích 2% hoặc
3% hoặc 4% số tiền doanh thu biểu diễn (chưa trừ chi phí biểu diễn) để trả nhuận
bút cho tác giả có kịch bản đó.
c) Đối với một số vở kịch có giá trị, công
diễn sau ngày 01-03-1959 thì tính bắt đầu từ ngày chính thức công diễn cho đến
hết thời hạn là 2 năm, nếu chưa được hưởng đủ mức nhuận bút cơ bản hoặc mức thù
lao như điểm 1 và 2 đã quy định ở trên thì có thể giải quyết bằng hai cách: một
là, ngoài thời hạn 2 năm nói trên, sẽ ra hạn thêm 6 tháng nữa để tác giả có kịch
bản đó được tiếp tục hưởng tỷ lệ % (phần trăm) số tiền doanh thu biểu diễn như
mục b ở điểm 6 nói trên đã quy định; hai là, xét một số vỡ hiện nay vẫn công diễn
mà trả nhuận bút cơ bản hoặc trả thù lao cho tương xứng với giá trị của kịch bản
đó. Khi trả nhuận bút cơ bản theo mức ở trung ương, hoặc trả thù lao theo mức ở
địa phương thì sẽ trừ số tiền nhuận bút theo chế độ cũ mà trước đây tác giả có
kịch bản đó đã hưởng.
7. Đối với các loại kịch, bắt đầu chính thức
công diễn từ ngày 01-03-1961 trở đi sẽ thực hiện đúng như bản quy định trả nhuận
bút kịch bản của ngành sân khấu.
8. Đối với các loại kịch bản văn học sân khấu
sau khi đã được Vụ Nghệ thuật hoặc được các Sở, Ty Văn hóa địa phương công nhận
thì sẽ căn cứ vào chất lượng mà sơ bộ định giá trả 50% số tiền nhuận bút cơ bản,
hoặc 50% số tiền thù lao cho tác giả, đồng thời đặt trách nhiệm cho tác giả sửa
chữa kịch bản đó cho tới khi được chính thức công diễn sẽ định giá chính thức
và trả nốt. Nhưng nếu vì một lý do chính đáng nào đó, kịch bản đã được công nhận
mà không biểu diễn được, hoặc có biểu diễn mà không doanh thu, thì tác giả đó vẫn
được hưởng tối thiểu là 50% số tiền nhuận bút cơ bản, hoặc 50% số tiền thù lao,
và nơi sử dụng kịch bản đó có trách nhiệm thương lượng với tác giả, nếu
sau này kịch bản đó được công diễn, thì sẽ tính trả thêm cho đủ mức tiền nhuận
bút cơ bản đã quy định.
Trường hợp kịch bản được công nhận và đã
chính thức diễn cho nhân dân xem mà nơi sử dụng kịch bản đó lại yêu cầu tác giả
chỉnh lý cho kịch bản đó được tốt hơn, thì sẽ căn cứ vào công phu và chất lượng
của kịch bản đó được nâng cao hơn trước nhiều hay ít, mà nơi sử dụng trả thêm
cho tác giả tiền thù lao bằng từ 5% đến 20% số tiền nhuận bút cơ bản hoặc số tiền
thù lao nói trên.
9. Đối với những kịch bản sáng tác chưa được
công nhận mà được Vụ Nghệ thuật in Ronéo phổ biến xuống các Sở, Ty Văn hóa hoặc
được các Sở Ty Văn hóa in Ronéo hoặc Litho phổ biến xuống các xí nghiệp, công
trường khu phố, xã v.v…thì căn cứ vào chất lượng là chủ yếu và thời gian biểu
diễn dài hay ngắn mà trả tiền thù lao cho một kịch bản chia làm 4 mức: 10đ,
20đ, 30đ, 40đ. Nếu chỉ là cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển thể, dịch, thì
được trả 40% đến 60% của thù lao sáng tác. Trường hợp kịch bản nào đã trả tiền
nhuận bút cơ bản hoặc được trả tiền thù lao rồi mà in Litho hoặc Ronéo để phổ
biến thì không phải trả khoản thù lao nói trên nữa.
10. Đối với các kịch bản sân khấu truyền
thanh như: kịch, tuồng, chèo, cải lương, v.v… do Đài phát thanh Tiếng nói Việt-
Nam yêu cầu tác giả sáng tác thì tùy theo chất lượng của kịch bản đó là chủ yếu
và thời gian biểu diễn mà Đài trả tiền nhuận bút cơ bản cho mỗi kịch bản từ 10đ
đến 200 đồng.
Cụ thể là :
Kịch bản từ 5 đến 15 phút được trả nhuận
bút cơ bản từ 10 đồng đến 30 đồng.
Kịch bản từ 15 đến 30 phút được trả nhuận
bút cơ bản từ 20 đồng đến 50 đồng.
Kịch bản từ 30 đến 60 phút được trả nhuận
bút cơ bản từ 40 đồng đến 80 đồng.
Kịch bản từ 60 đến 120 phút được trả nhuận
bút cơ bản từ 60 đồng đến 200 đồng.
Trường hợp các kịch bản nói trên thuộc
loại cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển thể, dịch, thì Đài sẽ trả nhuận bút
bằng từ 20% đến 50% số tiền nhuận bút cơ bản của kịch bản sáng tác.
11. Tất cả các khoản tiền trả nhuận bút hoặc
thù lao nói trên trả cho kịch bản, múa, xiếc, nhạc sử dụng bằng hình thức sân
khấu đều trích vào quỹ trả nhuận bút của ngành sân khấu, ở trung ương hoặc ở địa
phương. Riêng những tác phẩm sử dụng bằng hình thức phát thanh thì sẽ do Đài
phát thanh tiếng nói Việt-Nam trích vào quỹ sự nghiệp phí của mình mà trả nhuận
bút.
12. Thành lập một quỹ cho vay để trả nhuận
bút của ngành sân khấu ở trung ương cũng như ở địa phương để giúp cho thực hiện
chế độ nhuận bút của ngành sân khấu được tốt (Bộ Văn hóa và Bộ Tài chính sẽ có
văn bản hướng dẫn về việc thành lập quỹ đó).
1. Đối với các điệu múa, múa trong kịch hoặc
trong kịch hát, v.v… được các đoàn văn công trung ương biểu diễn có doanh thu
và được Vụ Nghệ thuật công nhận thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền
nhuận bút cơ bản theo những điểm quy định dưới đây:
2. a) Sáng tác tiết mục múa từ 4 đến 8 người
ví dụ: như điệu múa Chuông thời gian biểu diễn dưới 10 phút tùy theo chất lượng
là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức: 70đ, 100đ, 120đ, 150đ.
b) Sáng tác tiết mục múa từ 9 đến 16 người
ví dụ như điệu múa Rông chiêng, ô và sáng tác múa đơn (solo) múa đôi (Duo) (ví
dụ như múa Lào, múa dưới trăng) thời gian biểu diễn từ 4 đến 15 phút tùy theo
chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức: 100đ, 155đ,
195đ, 250đ.
3. a) Sáng tác tiết mục múa trên 17 người
(ví dụ như múa Sạp) thời gian biểu diễn từ 7 đến 15 phút tùy theo chất lượng
làm chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức: 120đ, 185đ, 235đ, 300đ.
Trường hợp tiết mục đông người có thêm nội
dung kịch được trả thêm 20% nhuận bút cơ bản.
b) Thơ vũ đạo (nội dung câu chuyện có kịch
tính như chim Gâu, Phan đình Giót) từ 12 người trở lên thời gian biểu diễn từ
10 đến 15 phút tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia
làm 4 mức: 200đ, 165đ, 335đ, 400đ, nếu có từ 2 cảnh trở lên được trả thêm 20% đến
40% nhuận bút cơ bản.
4. Tổ Khúc múa (suite) là hình thức gồm nhiều
điệu múa nối tiếp nhau mà dựng lên, vì vậy sẽ cộng từng điệu múa một trong tổ
khúc múa mà trả nhuận bút cơ bản.
5. Đối với kịch múa diễn trọn một tối (trên
dưới 2 tiếng) ví dụ: Tấm, Cám thì tùy theo chất lượng của một kịch múa mà trả
tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức: 800đ, 1.000đ, 1.300đ, 1.500đ, 1.800đ,
2.000đ.
Nếu kịch múa chỉ diễn trên dưới một tiếng
thì Vụ Nghệ thuật căn cứ vào chất lượng của kịch múa đó là chủ yếu và thời
gian biểu diễn mà trả nhuận bút bằng từ 20% đến 80% số tiền nhuận bút cơ bản của
kịch múa diễn trọn một tối như đã quy định ở trên.
6. Đối với các điệu múa nói trên ngoài việc
được trả tiền nhuận bút cơ bản rồi còn được trả tiền nhuận bút về số lượt biểu
diễn. Vụ Nghệ thuật sẽ căn cứ vào số lượng vào số lượt biểu diễn nhiều hay ít
mà hàng năm trả thêm tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn cho tác giả, chia làm
3 mức tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản và giảm dần xuống.
Cụ thể từng năm được trả tiền nhuận bút về
số lượt biểu diễn như dưới đây:
|
Năm thứ nhất
|
Năm thứ hai
|
Năm thứ ba trở đi
|
Nhuận bút cơ bản
|
Số lượt điệu múa biểu diễn nhiều được
trả thêm
Số lượt điệu múa biểu diễn trung
bình được trả thêm
Số lượt điệu múa biểu diễn ít được
trả thêm
|
50%
40%
30%
|
40%
30%
20%
|
30%
20%
10%
|
của nhuận bút cơ bản
nt
nt
|
Trường hợp năm thứ nhất cũng như những năm
sau mà những điệu múa nói trên được sử dụng biểu diễn quá ít thì nơi sử dụng không
phải trả nhuận bút về số lượt biểu diễn như đã quy định ở trên.
7. Múa trong kịch hát nếu là điệu múa hoàn
toàn độc lập thì người sáng tác núa được trả đủ tiền nhuận bút cơ bản như những
đểim đã quy định ở trên, nếu múa chỉ là phụ họa thêm cho phần hát thì tùy theo
sự đóng góp của nó mà trả tiền nhuận bút bằng từ 30% đến 60% số tiền nhuận bút
cơ bản.
Trong kịch hát có từng đoạn múa thì tính từng
đoạn múa ấy tùy theo chất lượng của nó mà cộng lại để trả nhuận bút cơ bản.
8. Một tiết mục vừa hát vừa múa, nếu múa
thì là chủ đạo, hát là phụ (ví dụ như: điệu múa lên núi hái chè của Quảng tây)
thì người sáng tác được trả đủ mức tiền nhuận bút cơ bản theo những điểm đã quy
định ở trên. Nếu hát là chủ đạo, múa là phụ thì người sáng tác múa được trả nhuận
bút bằng từ 30% đến 60% tiền nhuận bút cơ bản về múa.
9. Sáng tác kịch bản trong tiết mục múa
đông người, thợ vũ đạo, tổ khúc múa, kịch múa được trả nhuận bút bằng 40% tiền
nhuận bút cơ bản của sáng tác múa, nhưng nếu chỉ là cải biên, chỉnh lý, kịch bản
hóa các chuyện cổ tích, truyền thuyết thì được trả nhuận bút bằng từ 40% đến
60% số tiền nhuận bút cơ bản của sáng tác kịch bản cho múa.
10. Sáng tác các điệu múa được xưởng phim
Việt nam công nhận và cho quay thành phim thì các điệu múa đó được trả tiền
nhuận bút cơ bản như những điểm đã quy định ở trên. Ngoài ra còn được trả thêm
tiền nhuận bút về số lượng phát hành như đã nói ở điểm 4 trong quy định trả nhuận
bút kịch bản của ngành điện ảnh.
11. Các tiết mục múa thuộc loại phóng tác, cải
biên, chỉnh lý (kể cả các điệu múa cổ điển) thì tùy theo chất lượng cao hay thấp
là chủ yếu và công phu nhiều hay ít mà trả nhuận bút bằng từ 40% đến 60% số tiền
nhuận bút cơ bản của sáng tác múa.
12. Sáng tác nhạc cho múa (kể cả phối âm phối
khí) được trả tiền nhuận bút cơ bản bằng mức tiền nhuận bút cơ bản của sáng tác
tiết mục múa như những điểm đã quy định ở trên. Nhưng chủ yếu là dựa vào chất
lượng nhạc mà định mức tiền nhuận bút cho hợp lý, chứ không lệ thuộc vào tiết mục
múa mà trả tiền nhuận bút cho nhạc.
Nếu tác giả sáng tác nhạc kiêm phối âm phối
khí thì tác giả đó được hưởng đủ 100% tiền nhuận bút cơ bản. Nhưng nếu người
khác phối âm, phối khí thì người ấy được hưởng 30% còn người sáng tác nhạc được
hưởng 70% số tiền nhuận bút cơ bản.
13. Đối với các điệu múa được các đội văn
công cũng như các đoàn kịch dân doanh ở địa phương biểu diễn có doanh thu và được
các Sở, Ty văn hóa địa phương công nhận thì tùy theo chất lượng của điệu múa là
chủ yếu và thời gian biểu diễn mà trả tiền thù lao bằng từ 30% đến 80% số tiền
nhuận bút cơ bản theo những điểm đã quy định ở trên.
Nếu điệu múa nào đã biểu diễn cho công
chúng xem ở các địa phương có giá trị và có thể phổ biến chung được thì các Sở,
Ty văn hóa sẽ gửi các điệu múa đó cho Vụ Nghệ thuật. Khi Vụ Nghệ thuật công nhận
và trả tiền nhuận bút cơ bản theo mức của trung ương như những điểm đã quy định
ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao mà các Sở, Ty Văn hóa đã trả cho tác giả trước
đây.
Còn tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn của
các điệu múa được các đoàn văn công cũng như đoàn kịch dân doanh địa
phương biểu diễn có doanh thu và được Sở hoặc Ty Văn hóa địa phương công nhận
thì hiện nay chưa đặt ra vì chưa có điều kiện theo dõi để tính nhuận bút về số
lượt biểu diễn đó.
14. Đối với sáng tác các điệu múa quần chúng
được Vụ Nghệ thuật công nhận phổ biến xuống các Sở, Ty Văn hóa thì tùy theo chất
lượng là chủ yếu và thời gian dài hay ngắn mà trả tiền thù lao chia làm 3 mức:
10đ, 15đ, 20đ. Nếu chỉ là cải biên hoặc chỉnh lý các điệu múa thì trả tiền thù
lao bằng từ 40% đến 60% của thù lao sáng tác. Trường hợp điệu múa nào đã được
trả tiền nhuận bút cơ bản hoặc tiền thù lao biểu diễn rồi thì Vụ Nghệ thuật
không phải trả khoản thù lao nói trên nữa.
15. Đối với những điệu múa có giá trị hiện
nay vẫn còn đang sử dụng và có doanh thu mà trước đây chưa được trả tiền nhuận
bút thì các cơ quan có kinh doanh sử dụng những điệu múa đó căn cứ vào quy định
này mà trả nhuận bút cơ bản hoặc thù lao cho tác giả có điệu múa đó được hợp
lý.
1. Đối với các tiết mục xiếc được
đoàn xiếc trung ương biểu diễn có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công nhận thì
tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền nhuận bút cơ bản theo những quy định
dưới đây:
2. Các tiết mục người biểu diễn
và thú vật biểu diễn.
a) Sáng tác tiết mục xiếc từ 3 đến 6 động
tác, biểu diễn từ 3 đến 5 phút, tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận
bút cơ bản chia làm 4 mức:
50đ, 68đ, 82đ, 100đ.
b) Sác tác tiết mục xiếc từ 7 động tác đến
10 động tác biểu diễn từ 6 đến 10 phút, tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả
nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức:
80đ, 110đ, 130đ, 160đ.
c) Sáng tác tiết mục xiếc từ 11 động tác trở
lên biểu diễn từ 11 đến 20 phút, tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận
bút cơ bản chia làm 4 mức :
90đ, 130đ, 160đ, 200đ.
d) Sáng tác tiết mục xiếc có tình tiết, có
nội dung biểu diễn từ 10 phút trở lên tuìy theo chất lượng là chủ yếu được trả
nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức:
200đ, 310đ, 390đ, 500đ.
3. Các tiết mục xiếc hề.
a) Sáng tác hề xen vào tiết mục có kỹ xảo
(ví dụ: hề xe đạp, hề leo cột) tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận
bút cơ bản chia làm 4 mức:
20đ, 31đ, 39đ, 50đ.
b) Sáng tác hề thành tiết mục độc lập và kỹ
xảo (ví dụ hề tranh ghế) từ 5 đến 15 phút tùy theo chất lượng là chủ yếu được
trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức: 50đ, 68đ, 82đ, 100đ
c) Sáng tác hề câm có nội dung giáo dục
từ 5 đến 15 phút tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia
làm 4 mức:
80đ, 110đ, 130đ, 160đ.
d) Sáng tác hề câm có nội dung giáo dục, có
tình tiết từ 5 đến 15 phút tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ
bản chia làm 4 mức:
100đ, 135đ, 165đ, 200đ.
4. Các tiết mục ảo thuật xem một
mặt sân khấu vuông.
a) Sáng tác tiết mục nhỏ làm bằng nhanh tay
hoặc bằng những dụng cụ nhỏ chỉ xem gần được (ví dụ: xé giấy vụn ra lại lành)
tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức:
10đ - 17đ - 23đ - 30đ.
b) Sáng tác tiết mục trung bình làm bằng
nhanh tay và dụng cụ nhỏ ở xa cũng xem được (ví dụ: chai biến đổi, bóng hóa bồ
câu) tùy theo chất lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chai làm 4 mức:
40đ, 51đ, 59đ, 70đ.
c) Sáng tác tiết mục lớn dùng dụng cụ lớn ở
xa xem được rõ (ví dụ: biến người trong hợp, cưa người làm 2 đoạn) tùy theo chất
lượng là chủ yếu được trả nhuận bút cơ bản chia làm 4 mức:
50đ, 68đ, 82đ, 100đ.
Trường hợp xây dựng tiết mục ảo thuật biểu
diễn ở sân khấu tròn xem cả 4 mặt xung quanh, tùy theo chất lượng là chủ yếu được
trả nhuận bút cơ bản gấp đôi ảo thuật xây dựng biểu diễn một mặt ở sân khấu
vuông vì phải mất nhiều công phu xây dựng cơ bản hơn.
5. Các tiết mục xiếc thuộc loại cải
biên phóng tác, chỉnh lý thì tùy theo chất lượng cao hay thấp là chủ yếu và
công phu nhiều hay ít mà trả nhuận bút bằng từ 40% đến 60% số tiền nhuận bút cơ
bản của sáng tác xiếc.
6. Đối với các tiết mục xiếc nói
trên ngoài việc được trả tiền nhuận bút cơ bản rồi còn được trả tiền nhuận bút
về số lượt biểu diễn. Vụ Nghệ thuật sẽ căn cứ vào số lượt biểu diễn nhiều hay
ít mà hàng năm trả thêm tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn cho tác giả chia
làm 3 mức tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản giảm dần xuống.
Cụ thể từng năm được trả tiền nhuận bút về
số lượt biểu diễn như dưới đây:
|
Năm thứ nhất
|
Năm thứ hai
|
Năm thứ ba trở đi
|
Nhuận bút cơ bản
|
Số lượt tiết mục xiếc biểu diễn nhiều được trả thêm
Số lượt tiết mục xiếc biểu diễn trung bình được trả
thêm
Số lượt tiết mục xiếc biểu diễn ít
được trả thêm
|
50%
40%
30%
|
40%
30%
20%
|
30%
20%
10%
|
của nhuận bút cơ bản
nt
nt
|
Trường hợp năm thứ nhất cũng như những năm
sau mà những tiết mục xiếc nói trên, được sử dụng biểu diễn sử dụng quá ít thì
nơi sử dụng sẽ không phải trả nhuận bút về số lượt biểu diễn như đã quy định ở
trên.
7. Sáng tác các tiết mục xiếc được
xưởng phim Việt nam công nhận và cho quay thành phim thì các tiết mục xiếc
đó, được trả tiền nhuận bút cơ bản như những điểm đã quy định ở trên. Ngoài ra
còn được trả tiền nhuận bút về số lượng phát hành như đã nói ở điểm 4 trong quy
định trả nhuận bút kịch bản của ngành điện ảnh.
8. Đối với các tiết mục xiếc được
các đội xiếc ở địa phương biểu diễn có doanh thu và được các Sở, Ty Văn hóa
công nhận thì tùy theo chất lượng của các tiết mục xiếc là chủ yếu và thời gian
biểu diễn mà trả tiền thù lao bằng từ 30% đến 80% tiền nhuận bút cơ bản theo
như những điểm đã quy định ở trên.
Nếu tiết mục xiếc nào đã biểu diễn cho công
chúng xem ở các địa phương có giá trị và có thể phổ biến chung được thì các Sở,
Ty văn hóa sẽ gửi các điệu múa đó cho Vụ Nghệ thuật. Khi Vụ Nghệ thuật công nhận
và trả tiền nhuận bút cơ bản theo mức của trung ương như những điểm đã quy định
ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao mà các Sở, Ty Văn hóa đã trả cho tác giả trước
đây.
Còn tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn của
các tiết mục xiếc được các đội xiếc địa phương biểu diễn có doanh thu và
được Sở hoặc Ty Văn hóa địa phương công nhận thì hiện nay chưa đặt ra vì chưa
có điều kiện theo dõi để tính nhuận bút về số lượt biểu diễn đó.
9. Đối với các tiết mục xiếc có giá
trị hiện nay vẫn đang sử dụng và có doanh thu mà trước đây chưa trả tiền nhuận
bút thì các cơ quan có kinh doanh sử dụng những tiết mục xiếc đó căn cứ vào quy
định này mà trả nhuận bút cơ bản hoặc thù lao cho tác giả có tiết mục xiếc đó
được hợp lý.
1. Đối với sáng tác kịch bản phim
truyện được xưởng phim Việt nam công nhận thì tùy theo chất lượng là chủ yếu và
số cuốn của mỗi kịch bản mà trả tiền nhuận bút cơ bản từ 500đ đến 2.000đ và
chia làm 3 loại như dưới đây:
- Loại phim truyện dài từ 9 đến 12 cuốn được
trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
1.200đ, 1.450đ, 1.600đ, 1.750đ, 2.000đ.
- Loại phim truyện trung bình từ 6 đến 8 cuốn
được trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
800đ, 970đ, 1.100đ, 1.230đ, 1.400đ.
- Loại phim truyện ngắn từ 3 đến 5 cuốn được
trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
500đ, 630đ, 750đ, 870đ, 1.000đ.
2. Đối với sáng tác kịch bản phim
tài liệu được xưởng phim Việt nam công nhận tùy theo chất lượng là chủ yếu và số
cuốn của mỗi kịch bản mà trả tiền nhuận bút cơ bản từ 60đ đến 1.000đ và được
chia làm 3 loại như dưới đây:
- Loại phim tài liệu dài từ 6 đến 8 cuốn được
trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
500đ, 630đ, 750đ, 870đ, 1.000đ.
- Loại phim tài liệu trung bình từ 3 đến 5
cuốn được trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
250đ, 350đ, 425đ, 500đ, 600đ.
- Loại phim tài liệu ngắn từ 1 đến 2 cuốn
được trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức:
60đ, 110đ, 180đ, 250đ, 300đ.
3. Đối với mỗi vấn đề viết tin cho
phim thời sự được xưởng phim Việt nam công nhận và sử dụng quay thành
phim thì tùy theo chất lượng của vấn đề đó là chủ yếu mà trả tiền thù lao cho
người viết tin cho phim thời sự ấy chia làm 5 mức:
2đ, 3đ, 4đ, 6đ, 8đ.
4. Đối với sáng tác các thể loại đề
tài hoạt họa, múa rối, khoa học,v.v… cũng được trả tiền nhuận bút cơ bản như điều
1 và 2 đã quy định ở trên.
5. Đối với kịch bản phim truyện cũng
như kịch bản phim tài liệu thuộc loại cải biên, phóng tác, chuyển thể thì tùy
theo chất lượng là chủ yếu và công phu nhiều hay ít mà trả tiền nhuận bút bằng
từ 40% đến 60% số tiền nhuận bút cơ bản của kịch bản đó.
6. Đối với những bộ phim truyện cũng
như những bộ phim tài liệu được phát hành làm nhiều bản thì ngoài việc được
trả tiền nhuận bút cơ bản về phần kịch bản cũng như về phần sáng tác nhạc rồi,
còn được trả thêm tiền nhuận bút về số lượng phát hành dưới đây:
- Phát hành từ 1 đến 20 bản, mỗi 10 bản được
trả thêm 6% số tinề nhuận bút cơ bản.
- Phát hành từ 21 đến 50 bản, mỗi 10 bản được
trả thêm 4% số tiền nhuận bút cơ bản.
- Phát hành từ 51 bản trở lên, mỗi 10 bản
được trả thêm 2% số tiền nhuận bút cơ bản.
7. Đối với các loại kịch bản văn học
điện ảnh được xưởng phim Việt nam công nhận thì Xưởng sẽ căn cứ vào chất lượng là
chủ yếu và số cuốn của kịch bản đó mà sơ bộ định giá trả 50% số tiền nhuận bút
cơ bản trước và đặt trách nhiệm cho tác giả sửa chữa kịch bản đó cho tới khi bộ
phim theo kịch bản đó được thể hiện trên màn ảnh bản đầu tiên và sau khi đã được
cấp trên xét duyệt thì xưởng sẽ chính thức định giá và trả nốt, nhưng nếu vì một
lý do chính đáng nào đó mà bộ phim theo kịch bản đó không chiếu được thì tác giả
vẫn được hưởng tối thiểu là 50% số tiền nhuận bút cơ bản và xưởng sẽ thương lượng
với tác giả đó, nếu sau này kịch bản đó được sử dụng quay thành phim thì sẽ được
tính trả thêm cho đủ mức tiền nhuận bút cơ bản đã quy định.
Trường hợp kịch bản nào đã được xưởng phim
Việt nam công nhận và bộ phim theo kịch bản đó được thể hiện trên màn ảnh bản đầu
tiên và sau khi đã được cấp trên xét duyệt nếu sau này xưởng lại yêu cầu tác giả
chỉnh lý cho kịch bản được tốt hơn thì xưởng sẽ căn cứ vào công phu nhiều hay
ít và chất lượng của kịch bản đó được nâng cao hơn trước nhiều hay ít mà trả
thêm cho tác giả một số tiền thù lao bằng từ 5% đến 20% số tiền nhuận bút cơ bản.
8. Đối với những kịch bản mà tác giả
thỏa thuận viết theo đề cương đã được xưởng phim Việt nam thông qua thì giữa xưởng
và tác giả ký kết hợp đồng.
Sau khi đã ký hợp đồng đó rồi thì xưởng có
thể tạm ứng trước cho tác giả từ 20% đến 50% số tiền nhuận bút cơ bản cho tới
khi bộ phim theo kịch bản đó được thể hiện trên màn ảnh bản đầu tiên và sau khi
đã được cấp trên xét duyệt thì xưởng sẽ định giá chính thức và trả nốt số tiền
nhuận bút cơ bản còn lại.
9. Đối với những người viết thuyết
minh cho các loại phim do xưởng phim Việt nam sản xuất thì tùy theo chất lượng
là chủ yếu và số cuốn của mỗi kịch bản mà trả tiền thù lao bằng từ 5 đến 15% số
tiền nhuận bút cơ bản.
10. Đối với mỗi vấn đề viết cho phim đèn
chiếu sau khi được xưởng phim đèn chiếu công nhận và được sử dụng chụp thành
phim đèn chiếu thì tùy theo chất lượng của vấn đề đó là chủ yếu mà trả tiền nhuận
bút cơ bản chia làm 6 mức:
3đ, 4đ, 6đ, 8đ, 10đ, 12đ.
11. Đối với tất cả các phim truyện và một số
kịch bản phim tài liệu có giá trị được xưởng phim Việt nam công nhận trước
01-03-1961 mà hiện nay những bộ phim theo kịch bản đó vẫn được sử dụng và có
doanh thu thì xưởng sẽ định giá những kịch bản đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản
cho tác giả theo những điểm đã quy định ở trên, đồng thời trừ số tiền mà xưởng
đã tạm ứng cho tác giả có kịch bản đó trước đây.
12. Bộ Văn hóa ủy nhiệm cho xưởng phim Việt
nam căn cứ vào quy định trả nhuận bút kịch bản, múa, xiếc, âm nhạc,v.v… sử dụng
dụng bằng hình thức điện ảnh mà trả nhuận bút cho được đúng mức và thích hợp,
sau khi đã được Bộ văn hóa thông qua.
1. Đối với những ca khúc thuộc loại
sáng tác được Đài phát thanh tiếng nói Việt nam công nhận thì tùy theo chất lượng
mà trả tiền nhuận bút cơ bản cho 1ca khúc chia làm 5 mức:
5đ, 8đ, 15đ, 20đ, 25đ.
- Đối với bản nhạc hợp xướng lớn gồm nhiều
chương (thường gọi là mouvement) mỗi chương coi như một ca khúc được trả tiền
nhuận bút cơ bản cho 1 chương chia làm 5 mức:
5đ, 8đ, 15đ, 20đ, 25đ.
- Đối với một bản nhạc không lời, nếu là nhạc
cắt thì tùy theo chất lượng mà trả tiền nhuận bút cơ bản cho một phút nhạc chia
làm 5 mức:
4đ, 6đ, 8đ, 10đ.
- Đối với những ca khúc cũng như những bản
nhạc nói trên nếu có phối khí, viết đệm hoặc có 3 bè hợp xướng trở lên được trả
thêm tiền nhuận bút bằng từ 10% đến 30% số tiền nhuận bút cơ bản của sáng tác
ca khúc, hoặc của bản nhạc hợp xướng nói trên.
2. Đối với những bản nhạc sáng tác
(kể cả phối khí) được xưởng phimViệt nam công nhận và quay thành phim thì tùy
theo chất lượng là chủ yếu được trả tiền nhuận bút cơ bản cho một phút nhạc từ
4đ đến 32đ và phân loại như dưới đây:
- Sáng tác nhạc cho phim truyện và các loại
phim tài liệu dài (trên 1.500 thước) 5 phút đầu được trả làm 3 mức: 22đ, 27đ,
32đ một phút. Từ phút thứ 6 trở đi được trả làm 3 mức: 16đ, 21đ, 26đ một phút.
- Sáng tác nhạc cho phim tài liệu trung
bình 5 phút đầu được trả làm 3 mức: 16đ, 21đ, 26đ một phút. Từ phút thứ 6 trở
đi đảm bảo trả làm 3 mức: 12đ, 17đ, 22đ một phút.
- Sáng tác nhạc cho phim thời sự và các loại
phim tài liệu ngắn (dưới 300 thước) được trả làm 3 mức: 8d0, 12đ, 16đ một phút.
- Đối với những bản nhạc thuộc loại sáng
tác đã có sẵn được chọn vào phim thì tùy theo chất lượng mà trả tiền nhuận bút
cơ bản cho mỗi phút nhạc chia làm 3 mức: 3đ, 6đ, 9đ.
- Đối với những đoạn nhắc lại (reprise)
nguyên như trước thì không được tính tiền nhuận bút, nhưng nếu nhắc lại có thay
đổi phối khí hoặc hòa thanh thì vẫn được tính tiền nhuận bút về phối khí hoặc
hòa thanh.
Ngoài việc hưởng tiền nhuận bút cơ bản nói
trên, những bản nhạc sáng tác cho phim còn được hưởng tiền nhuận bút về số lượng
phát hành như đã nói ở điểm 4 trong quy định trả nhuận bút kịch bản của
ngành điện ảnh.
3. Đối với những bản nhạc thuộc loại
sáng tác (kể cả lời) được in thành sách hoặc thành bản rồi được Nhà xuất bản âm
nhạc công nhận thì tùy theo chất lượng là chủ yếu và số trang mà trả tiền nhuận
bút cho một trang nhạc chia làm 5 mức:
10đ, 12đ50, 14đ, 15đ50, 18đ.
Từ trang thứ 3 trở đi, tiền nhuận bút cơ bản
sẽ giảm đi 1/3 so với 2 trang đầu.
(Bị chú) một trang nhạc:
Hoặc là 16 nhịp 2/4 3/8 6/8 3/4 hoặc là 8
nhịp 4/4 6/4 9/8 12/8.
- Đối với bản nhạc thuộc loại sáng tác được
thu vào đĩa và được Nhà sản xuất âm nhạc công nhận thì tùy theo chất lượng mà trả
tiền nhuận bút cơ bản cho 1 trang nhạc chia làm 4 mức: 60đ, 75đ, 95đ, 110đ.
- Đối với bản nhạc in thành sách, thành bản
rồi, thu vào đĩa nói trên nếu có phối khí, viết đệm hoặc có 3 bè hợp xướng trở
lên trả thêm tiền nhuận bút cơ bản từ 10% đến 30% số tiền nhuận bút cơ bản của
phần sáng tác nhạc.
4. Đối với những bản nhạc được in
thành sách, thành bản rồi thu vào đĩa, ngaòi việc được hưởng 30% tiền nhuận bút
cơ bản rồi còn được hưởng thêm tiền nhuận bút về số lượng in hoặc số lượng sản xuất
tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản và giảm dần xuống như quy định
dưới đây:
Từ 1.000 đến 3.000, mỗi 1.000 được trả thêm
5% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 3.001 đến 6.000, mỗi 1.000 được trả thêm
4% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 6.001 đến 9.000, mỗi 1.000 được trả thêm
3% tiền nhuận bút cơ bản.
Từ 9.001 trở lên, mỗi 1.000 được trả thêm
2% tiền nhuận bút cơ bản.
5. Đối với những ca khúc thuộc loại
sáng tác được các đoàn văn công trung ương biểu diễn có doanh thu và được Vụ
Nghệ thuật công nhận, thì tùy theo chất lượng mà trả tiền nhuận bút cơ bản cho
một cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển thể, dịch khúc chia làm 5 mức: 20đ,
27đ, 33đ, 39đ, 46đ (một bài trường ca được trả gấp đôi tiền nhuận bút cơ bản của
một ca khúc).
Nếu những ca khúc đó có phối khí, viết đệm
hoặc có từ 3 bè hợp xướng trở lên được trả thêm tiền nhuận bút bằng từ 10% đến
30% số tiền nhuận bút của sáng tác ca khúc đó.
6. Đối với những bản nhạc sáng tác
cho kịch hát như tuồng, chèo, cải lương v.v… và cho xiếc có nội dung, có tình
tiết gắn liền với các tiết mục của kịch hát và tiết mục xiếc được đoàn văn công
trung ương biểu diễn có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công nhận thì tùy theo
chất lượng mà trả tiền nhuận bút cơ bản cho một phút nhạc chia làm 4 mức: 12đ,
17đ, 21đ, 26đ.
Nếu chỉ là bản nhạc phụ họa thêm cho các tiết
mục của kịch hát và tiết mục xiếc thì tùy theo chất lượng mà trả nhuận bút cơ bản
cho một phút nhạc chia làm 3 mức: 8đ, 12đ, 16đ.
- Đối với những bản nhạc thuộc loại sáng
tác đã có sẵn có được chọn cho kịch hát, và xiếc thì tùy theo chất lượng mà trả
tiền nhuận bút cơ bản cho mỗi phút nhạc chia làm 3 mức: 3đ, 6đ, 9đ.
- Đối với những đoạn nhạc nhắc lại
(reprise) nguyên như trước thì không được tính tiền nhuận bút, nhưng nhắc lại
có thay đổi phối khí hoặc hòa thanh thì vẫn được tính tiền nhuận bút về phần phối
khí hoặc hòa thanh.
7. a) Đối với những sáng tác nhạc kịch
và sáng tác nhạc cho kịch, múa diễn trọn một tối (trên dưới 2 tiếng) được các
đoàn văn công trung ương biểu diễn có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công nhận,
thì tùy theo chất lượng nhạc là chủ yếu và thời gian biểu diễn mà trả tiền nhuận
bút cơ bản về phần nhạc chia làm 5 mức: 1.200đ, 1.450đ, 1.600đ, 1.750đ, 2.000đ.
b) Đối với những sáng tác nhạc kịch
và sáng tác nhạc cho kịch múa, không diễn trọn một tối (trên dưới 1 tiếng) được
các đoàn văn công trung ương biểu diễn có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công
nhận, thì tùy theo chất lượng nhạc là chủ yếu và thời gian biểu diễn mà trả tiền
nhuận bút cơ bản về phần nhạc bằng từ 20% đến 80% số tiền nhuận bút cơ bản của
sáng tác nhạc kịch và sáng tác nhạc cho kịch múa diễn trọn một tối.
c) Trên đây mới trả tiền nhuận bút cơ bản về
phần sáng tác nhạc, còn phần sáng tác cốt truyện và lời ca của nhạc kịch mỗi loại
được trả thêm tiền nhuận bút bằng từ 50% số tiền nhuận bút cơ bản của phần sáng
tác nhạc. Riêng phần sáng tác kịch bản cho kịch múa được trả thêm tiền nhuận
bút bằng 40% số tiền nhuận bút cơ bản của phần sáng tác nhạc.
d) Ngoài việc được hưởng tiền nhuận bút cơ
bản về phần sáng tác nhạc và sáng tác cốt truyện, lời cho nhạc kịch cũng như
sáng tác kịch bản cho kịch múa rồi còn được hưởng thêm tiền nhuận bút về số lượt
biểu diễn như đã nói ở điểm 4 trong quy định trả nhuận bút kịch bản của ngành
sân khấu.
8. Đối với các bản nhạc thuộc loại
sáng tác được các đoàn văn công trung ương cũng như được đoàn giao hưởng trung
ương (orchestre sym-phonique) biểu diễn có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công
nhận thì căn cứ vào chất lượng là chủ yếu và thời gian biểu diễn của mỗi bản nhạc
mà trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức như dưới đây:
a) Bản nhạc giao hưởng (symphonie) biểu dinễ
từ 30 phút trở lên được trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 800đ, 1.000đ,
1.150đ, 1.300đ, 1.500đ.
b) Bản nhạc mở đầu (oucerture) tổ khúc
(suite) thơ giao hưởng (symphonie pòeme) bản nhạc công xec-tô (concerto) có phần
đệm cho dàn nhạc giao hưởng (orchestre symphonieque) biểu diễn từ 16 đến
30 phút trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 400đ, 550đ, 650đ, 750đ, 900đ.
c) Bản nhạc mở đầu (oucerture) tổ khúc
(suite) thơ giao hưởng (symphonie pòeme) bản nhạc công xec-tô (concerto) có phần
đệm cho dàn nhạc giao hưởng (orchestre symphonieque) biểu diễn từ 6 đến
15 phút trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 200đ, 350đ, 450đ, 550đ, 700đ.
d) Bản nhạc nhỏ không lời kể cả phối khí biểu
diễn từ 3 đến 8 phút được trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 70đ, 120đ, 160đ,
200đ, 250đ.
e) Bản nhạc độc tấu (solo) song tấu (duo)
tam tấu (trio) viết theo thể xô-nát (sonate) và bản nhạc viết đệm cho độc tấu
(solo) hoặc hợp xướng được trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 80đ, 140đ,
190đ, 240đ, 300đ.
g) Bản nhạc độc tấu (solo) song tấu (duo)
tam tấu (trio) viết theo thể xô-nát (sonate) và những ca khúc (sẵn có) kết hợp
lại viết thành tổ khúc (suite) được trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 60đ,
100đ, 130đ, 160đ, 200đ.
h) Bản nhạc độc tấu (solo) song tấu (duo)
tam tấu (trio) có đánh đệm viết theo lối tự do của bản nhạc nhỏ không lời và những
ca khúc có cả phối khí được trả nhuận bút cơ bản chia làm 5 mức: 30đ, 55đ, 75đ,
95đ, 120đ.
9. Đối với sáng tác nhạc kịch cũng như sáng
tác nhạc cho kịch múa và những bản nhạc sáng tác cho kịch múa và những bản nhạc
sáng tác cho các đoàn kịch hát, cho xiếc, cho dàn nhạc giao hưởng, được các
đoàn văn công và đoàn nhạc giao hưởng trung ương biểu diễn có doanh thu và được
Vụ Nghệ thuật công nhận cũng như những bản nhạc sáng tác cho các loại phim được
xưởng phim Việt nam công nhận, nếu tác giả sáng tác nhạc kiêm cả phối khí thì
tác giả đó được hưởng đủ 100% tiền nhuận bút cơ bản như điểm 2, điểm 6, điểm 7
và điểm 8 đã nói ở trên, nhưng nếu người khác phối khí thì người ấy được hưởng
30% còn tác giả sáng tác nhạc được hưởng 70% tiền nhuận bút cơ bản.
10. a) Đối với những ca khúc thuộc
loại sáng tác được biểu diễn trên các sân khấu hoặc phát thanh trên đài và những
bản nhạc sáng tác (kể cả lời) được in thành sách, thành bản rồi hoặc thu vào
đĩa thì phần sáng tác nhạc được hưởng 2/3 nhuận bút cơ bản còn phần sáng tác lời
thì được hưởng 1/3 nhuận bút cơ bản.
b) Dựa vào dân ca, nhạc cổ, làm lời mới được
hưởng 1/3 nhuận bút cơ bản, nhưng nếu lời mới đó làm theo thể ca dao lục bát
thì hưởng 1/4 nhuận bút cơ bản.
c) Thơ được phổ nhạc thì người có thơ được
hưởng 1/3 nhuận bút cơ bản.
d) Lời dịch đúng như tác phẩm nguyên bản được
hưởng 1/3 nhuận bút cơ bản, nhưng nếu lời dịch phỏng theo tác phẩm nguyên bản
thì hưởng 1/4 nhuận bút cơ bản.
e) Nhạc cổ và dân ca ghi lại theo nốt nhạc
mới thì người ghi nốt đó được hưởng 1/4 nhuận bút cơ bản.
g) Một bài hát có nhiều đoạn lời thì kể từ
đoạn thứ 3 trở đi mỗi đoạn lời được hưởng thêm 50% số tiền nhuận bút cơ bản về
phần lời.
11. Đối với những ca khúc, những bản
nhạc sáng tác cho kịch hát, cho múa, cho xiếc, cho dàn nhạc giao hưởng được các
đoàn văn công trung ương cũng như được các đoàn giao hưởng trung ương biểu diễn
có doanh thu và được Vụ Nghệ thuật công nhận thì ngoài việc hưởng tiền nhuận
bút cơ bản như điểm 5, điểm 6, điểm 8 đã nói ở trên, còn được hưởng thêm tiền
nhuận bút cơ bản về số lượt biểu diễn .
Vụ Nghệ thuật sẽ căn cứ vào số lượt biểu diễn
nhiều hay ít mà hàng năm trả thêm tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn cho tác
giả chia làm 3 mức tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản giảm dần
xuống.
Cụ thể từng năm một được trả tiền nhuận bút
về số lượt biểu diễn như dưới đây:
|
Năm thứ nhất
|
Năm thứ hai
|
Năm thứ ba trở đi
|
Nhuận bút cơ bản
|
Số lượt nhạc được biểu diễn nhiều
được trả thêm
Số lượt nhạc được biểu diễn trung
bình được trả thêm
Số lượng nhạc biểu diễn ít được trả
thêm
|
50%
40%
30%
|
40%
30%
20%
|
30%
20%
10%
|
Của nhuận bút cơ bản
-
-
|
Trường hợp năm thứ nhất cũng như những năm
sau mà những ca khúc, những bản nhạc nói trên được sử dụng biểu diễn quá
ít thì nơi sử dụng nhạc không phải trả nhuận bút về số lượt biểu diễn như đã
quy định ở trên.
12. Đối với những ca khúc, những bản
nhạc được các đội văn công cũng như các đoàn kịch dân doanh địa phương biểu diễn
có doanh thu và được Sở hoặc Ty Văn hóa công nhận, thì tùy theo chất lượng của
ca khúc và của bản nhạc đó là chủ yếu mà trả thù lao bằng từ 30% đến 80% số tiền
nhuận bút cơ bản theo những điểm đã quy định ở trên.
Nếu ca khúc và bản nhạc nào đã công diễn ở
địa phương có giá trị và có thể phổ biến chung được thì các Sở, Ty Văn hóa sẽ gửi
những ca khúc, những bản nhạc đó cho Vụ Nghệ thuật. Khi Vụ Nghệ thuật công nhận
và trả tiền nhuận bút cơ bản theo mức của trung ương theo những điểm đã quy định
ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao mà các Sở hoặc Ty Văn hóa đã trả cho tác giả
trước đây.
Còn tiền nhuận bút về số lượt biểu diễn của
những ca khúc, những bản nhạc được các đội văn công cũng như các đoàn kịch dân
doanh địa phương biểu diễn có doanh thu và được Sở hoặc Ty Văn hóa địa phương
công nhận thì hiện nay chưa đặt ra vì chưa có điều kiện theo dõi để tính tiền
nhuận bút về số lượt biểu diễn.
13. Đối với những ca khúc, những bản
nhạc thuộc loại cải biên, chỉnh lý, phóng tác thì tùy theo chất lượng cao hay
thấp, công phu nhiều hay ít mà tiền nhuận bút bằng từ 40% đến 60% số tiền nhuận
bút cơ bản của những ca khúc, những bản nhạc thuộc loại sáng tác.
14. Đối với những ca khúc, những bản
nhạc viết cho thiếu nhi và đặt lời bằng các tiếng dân tộc miền núi được in ra
thành sách hoặc bản rời, thu vào đĩa, biểu diễn trên sân khấu, phát thanh ở Đài
tiếng nói Việt nam, thu vào phim v.v… ngoài việc hưởng đủ tiền nhuận bút cơ bản
rồi còn được trả thêm 10% của số tiền nhuận bút cơ bản đó nữa, vì cần được khuyến
khích hơn.
15. a) Đối với những bản nhạc do các
trường nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa yêu cầu tác giả sáng tác để dùng làm bài tập
cho học sinh. Sau khi đã được Bộ Văn hóa công nhận thì tùy theo chất lượng mà
trả thù lao cho một trang nhạc chia làm 3 mức: 1đ, 2đ, 3đ.
Những bản nhạc nối trên nếu có phối khí, phối
âm được trả thêm tiền thù lao bằng từ 10% đến 30% số tiền thù lao của phần sáng
tác nhạc.
b) Đối với những giáo trình do các trường
nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa yêu cầu viết thành văn bản để dùng làm tài liệu giảng
dạy. Sau khi đã được Bộ Văn hóa công nhận thì tùy theo chất lượng mà trả tiền
thù lao cho một trang (tức là 1.000 chữ văn xuôi) chia làm 4 mức: 2đ, 3đ, 4đ,
5đ.
(Số tiền thù lao ở mục a và b nói trên tạm
trích ở quỹ trả nhuận bút của ngành sân khấu ở trung ương).
16. Đối với những tác phẩm nhạc có
giá trị hiện nay vẫn đang sử dụng và có doanh thu mà trước đây chưa được trả
nhuận bút thì các cơ quan có kinh doanh sử dụng những tác phẩm đó căn cứ vào
quy định này mà trả nhuận bút cơ bản hoặc thù lao cho tác giả có tác phẩm đó được
hợp lý.
1. Đối với các tác phẩm hội họa,
điêu khắc, mỹ nghệ được các cơ quan Nhà nước cũng như các đoàn thể trong mặt trận
Tổ quốc của trung ương công nhận và sử dụng thì tùy theo chất lượng của tác phẩm
đó là chủ yếu mà trả tiền nhuận bút cơ bản như dưới đây:
2. Đối với sáng tác các loại tượng:
tượng chân dung bằng thật, nhóm tượng 2 người, tượng đắp nổi 5 người trở lên
(tượng thạch cao, tượng đá, tượng gỗ, tượng đồng) thì tùy theo chất lượng của một
tác phẩm mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
300đ, 360đ, 440đ, 500đ, 580đ, 650đ.
3. Đối với sáng tác một bức tranh
sơn mài thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản
chia làm 6 mức:
300đ, 360đ, 440đ, 500đ, 580đ, 650đ.
4. Đối với sáng tác một bức tranh
sơn dầu hoặc tranh lụa thì tùy theo chất lượng của một bức tranh đó mà trả tiền
nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
260đ, 320đ, 390đ, 450đ, 520đ, 580đ.
5. Đối với sáng tác một bức tranh bột
màu thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia
làm 6 mức:
160đ, 200đ, 260đ, 300đ, 360đ, 400đ.
6. Đối với sáng tác một bức tranh khắc
gỗ thì tùy theo chất lượng của bức tranh dó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia
làm 6 mức:
200đ, 240đ, 300đ, 340đ, 400đ, 450đ.
7. Đối với sáng tác một bức tranh cổ
động về chính trị thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút
cơ bản chia làm 6 mức:
50đ, 85đ, 130đ, 165đ, 210đ, 250đ.
8. Đối với sáng tác một bức ký họa
thì tùy theo chất lượng của bức ký họa đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm
6 mức:
20đ, 35đ, 53đ, 68đ, 85đ, 100đ.
9. Đối với sáng tác một mẫu tem thì
tùy theo chất lượng của mẫu tem đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
30đ, 60đ, 100đ, 130đ, 170đ, 200đ.
10. a) Đối với sáng tác một bức vẽ
hoặc trình bày chữ có tính chất mỹ thuật ở bìa sách thì tùy theo chất lượng của
bức vẽ đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản từ 5đ đến 60đ.
b) Đối với sáng tác một bức tranh minh họa
thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm
6 mức:
4đ, 6đ, 10đ, 13đ, 17đ, 20đ.
Tranh minh họa có giá trị về tư tưởng và
nghệ thuật có thể trả cao hơn nhưng không quá 50đ một bức.
c) Đối với sáng tác một bức tranh biếm họa
thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm
6 mức:
10đ, 17đ, 26đ, 33đ, 42đ, 50đ.
11. a) Đối với sáng tác tranh truyện
(đen hoặc màu) thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút
cơ bản chia làm 6 mức:
14đ, 18đ, 23đ, 27đ, 32đ, 36đ.
b) Đối với sáng tác một bức tranh tứ bình
thì tùy theo chất lượng mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
240đ, 300đ, 370đ, 430đ, 500đ, 560đ.
c) Đối với sáng tác một bức tranh nhị bình
thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm
6 mức:
160đ, 200đ, 260đ, 300đ, 340đ, 400đ.
12. Đối với sáng tác mẫu vẽ bằng
huân chương, huy hiệu, trường thì tùy theo chất lượng của một mẫu vẽ đó mà trả
tiền nhuận bút cơ bản từ 10 đến 150đ.
13. Đối với sáng tác mẫu vẽ hàng ăn,
hàng dùng và mẫu vẽ hàng công nghệ thì tùy theo chất lượng của một mẫu vẽ đó mà
trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
100đ, 118đ, 140đ, 158đ, 180đ, 200đ.
14. a) Đối với sáng tác một hộp hình
đắp 1 mặt, vẽ 3 mặt thì tùy theo chất lượng của hộp hình đó mà trả tiền nhuận
bút cơ bản chia làm 6 mức:
250đ, 300đ, 370đ, 420đ, 490đ, 550đ.
b) Đối với sáng tác một bức sa bàn thì tùy
theo chất lượng của bức sa bàn đó mà trả tiền nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức:
100đ, 118đ, 140đ, 158đ, 180đ, 200đ
15. Đối với sáng tác một bức tranh
được xưởng phim đèn chiếu ở trung ương công nhận và được sử dụng quay thành
phim đèn chiếu thì tùy theo chất lượng của bức tranh đó mà trả tiền nhuận bút
cơ bản làm 6 mức: 3đ, 4đ, 6đ, 8đ, 10đ, 12đ.
16. Đối với những bức tranh được in
thành ảnh và được các nhà xuất bản, các cơ quan của Nhà nước có kinh doanh công
nhận thì tùy theo chất lượng của nó mà trả tiền nhuận bút cơ bản từ 20đ đến
80đ.
17. Đối với sáng tác một mẫu mỹ thuật
đã được thể hiện bằng hiện vật thì tùy theo chất lượng của mẫu đó mà trả tiền
nhuận bút cơ bản từ 5đ đến 250đ. Nếu tác giả chỉ sáng tác mẫu vẽ đó mà không thể
hiện bằng hiện vật thì tác giả đó được hưởng nhuận bút bằng từ 50% đến 70% số
tiền nhuận bút cơ bản của tác phẩm mỹ nghệ đã được thể hiện bằng hiện vật. Còn
người khác dựa vào sáng tác mẫu vẽ đó mà thể hiện bằng hiện vật thì người ấy được
hưởng nhuận bút bằng từ 30% đến 50% số tiền nhuận bút nói trên.
Nhuận bút trả cho tác phẩm nghệ thuật mới
áp dụng trong phạm việc tiểu thủ công có tính chất mỹ nghệ.
18. Đối với hàng công nghiệp có tính
chất mỹ thuật nếu nơi sử dụng hàng công nghiệp ấy yêu cầu tác giả vẽ hoặc đắp
mô hình thì vẫn trả tiền nhuận bút cơ bản như điểm 17 đã quy định ở điểm trên.
19. Các tác phẩm hội họa, điêu khắc,
mỹ nghệ thuộc loại cải biên, phóng tác, chỉnh lý, thay đổi trang trí thì tùy
theo chất lượng cao hay thấp là chủ yếu và công phu nhiều hay ít mà trả tiền
nhuận bút cơ bản bằng từ 40% đến 60% số tiền nhuận bút cơ bản của sáng tác.
20. Tác giả sáng tác, cải biên, chỉnh
lý thay đổi trang trí mẫu mỹ thuật có trách nhiệm thể hiện mẫu vẽ đó bằng hiện
vật, nếu nhờ người khác thể hiện bằng hiện vật thì tác giả đó vẫn có trách nhiệm
giúp đõ người ấy cho đến khi tác phẩm đó hoàn thành.
21. Đối với tất cả các tác phẩm hội
họa, mỹ nghệ nói trên đều lấy một thước vuông làm đơn vị để trả tiền nhuận bút
(riêng các tác phẩm điêu khắc thì lấy 1 thước chiều cao làm đơn vị). Nếu những
tác phẩm ấyvẽ hoặc đắp chưa đủ một thước vuông hoặc một thước chiều cao thì vẫn
được trả đủ tiền nhuận bút cơ bản như nhn điều đã quy định ở trên. Nhưng nếu
các tác phẩm ấy vẽ hoặc đắp từ 1 thước vuông hoặc một thước chiều cao trở lên
thì được trả thêm tiền nhuận bút tính theo tỷ lệ % (phần trăm) số tiền nhuận
bút cơ bản như quy định dưới đây:
Tác phẩm hội họa, mỹ nghệ:
Từ một thước vuông trở lên cứ 10 phân vuông
được trả thêm 5% tiền nhuận bút cơ bản.
Tác phẩm điêu khắc:
Từ một thước chiều cao trở lên thì cứ mỗi
10 phân chiều cao được trả thêm 7,5% tiền nhuận bút cơ bản.
22. Ngoài việc trả tiền nhuận bút cơ
bản cho các tác phẩm hội họa, điêu khắc, mỹ nghệ như những điều đã quy định ở
trên. Nơi sử dụng những tác phẩm đó còn phải trả thêm tiền chi phí về nguyên vật
liệu cho tác giả có tác phẩm đó được đúng mức theo giá quy định của mậu dịch ở
từng địa phương.
23. Đối với các tác phẩm hội họa,
điêu khắc, mỹ nghệ ngoài việc hưởng tiền nhuận bút cơ bản và được trả tiền chi
phí về nguyên vật liệu cho tác phẩm đó rồi, còn được hưởng nhuận bút về số lượt
in, số lượng sản xuất, số lượng đắp và đổ lại theo một tỷ lệ % (phần trăm) của
nhuận bút cơ bản và giảm dần xuống như quy định dưới đây:
a) Nhuận bút về số lượng tranh khắc gỗ in lại
từ lần thứ nhất đến lần thứ tư, mỗi lần in hoặc đổ lại được hưởng 60% số tiền
nhuận bút cơ bản. Từ lần thứ năm trở đi, mỗi lần in hoặc đổ lại được hưởng 40%
số tiền nhuận bút cơ bản.
b) Nhuận bút tranh vẽ lại từ lần thứ nhất đến
lần thứ tư mỗi lần vẽ lại được hưởng 80% số tiền nhuận bút cơ bản. Từ lần thứ
năm trở đi, mỗi lần vẽ lại được hưởng 60% số tiền nhuận bút cơ bản.
c) Nhuận bút về số lượng của tác phẩm hội họa,
điêu khắc, mỹ nghệ được các cơ quan kinh doanh ở trung ương công nhận và làm
hàng loạt thì ngoài việc được trả tiền nhuận bút cơ bản rồi, còn được trả thêm
tiền nhuận bút về số lượt in, số lượng sản xuất, số lượng đắp và đổ lại theo một
tỷ lệ % (phần trăm) của nhuận bút cơ bản và giảm dần xuống. Cụ thể từng năm một
được trả tiền nhuận bút về số lượng như dưới đây:
|
Năm thứ nhất
|
Năm thứ hai
|
Năm thứ ba trở đi
|
Nhuận bút cơ bản
|
Loại nhiều được trả thêm
Loại trung bình được trả thêm
Loại ít được trả thêm
|
50%
40%
30%
|
40%
30%
20%
|
30%
20%
10%
|
Của nhuận bút cơ bản
nt
nt
|
Trường hợp năm thứ nhất cũng như những năm
sau mà những tác phẩm hội họa, điêu khắc, mỹ nghệ nói trên, được sử dụng in, sản
xuất hoặc đắp và đổ lại quá ít thì nơi sử dụng không phải trả nhuận bút về số
lượng in, số lượng sản xuất hoặc số lượng đắp và đổ lại như đã quy định ở trên.
Có thể có các loại tác phẩm hội họa, điêu
khắc, mỹ thuật nói trên chỉ được hưởng nhuận bút cơ bản mà thôi sẽ do nơi sử dụng
những tác phẩm đó quy định chi tiết để áp dụng cho thích hợp, sau khi đã được Bộ
chủ quản thỏa thuận và được Bộ Văn hóa thông qua.
24. Đối với các tác phẩm hội họa,
điêu khắc, mỹ thuật được các cơ quan Nhà nước hoặc được các đoàn thể trong Mặt
trận Tổ quốc địa phương công nhận và sử dụng thì tùy theo chất lượng của những
tác phẩm ấy là chủ yếu mà trả tiền thù lao bằng từ 30% đến 80% số tiền nhuận
bút cơ bản theo như những điểm đã quy định ở trên. Nếu tác phẩm hội họa, điêu
khắc, mỹ thuật nào có giá trị và có thể phố biến chung được thì cơ quan, đoàn
thể ở địa phương sẽ gửi những tác phẩm đó cho Hội Mỹ thuật Việt-nam công nhận
và được Bộ Văn hóa thông qua và trả tiền nhuận bút cơ bản theo mức của trung
ương như những điểm đã quy định ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao mà cơ quan,
đoàn thể ở địa phương đã trả cho tác giả đó trước đây.
Còn tiền nhuận bút về số lượng in, số lượng
sản xuất, số lượng đắp và đổ lại các tác phẩm hội họa, điêu khắc, mỹ nghệ được
cơ quan Nhà nước và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc ở địa phương công nhận
và sử dụng hiện nay chưa đặt ra, vì chưa có điều kiện theo dõi để tính nhuận
bút về số lượng in, sản xuất hoặc đổ đắp lại đó.
25. a) Các cơ quan Nhà nước, các
đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc ở trung ương trước khi công nhận và sử dụng tác
phẩm hội họa, điêu khắc, mỹ nghệ của tác giả trong cũng như ngoài biên chế đều
phải thông qua Bộ Văn hóa.
b) Các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể trong
Mặt trận Tổ quốc ở trung ương trước khi công nhận và sử dụng tác phẩm hội họa,
điêu khắc, mỹ nghệ của tác giả trong cũng như ngoài biên chế đều phải thông qua
Sở hoặc Ty Văn hóa ở địa phương đó.
1. Đối với những tấm ảnh bất cứ cỡ nào được
in trong những bộ ảnh phát hành làm nhiều tập và được trưng bày tại các cuộc
triễn lãm của trung ương cũng như được đem ra nước ngoài triển lãm, được trả tiền
thù lao cơ bản cho mỗi tấm ảnh là 1đ.
2. Đối với những tấm ảnh bất cứ cỡ nào được
in trong các trang báo hàng ngày, báo hàng tuần, sách giáo khoa, phim đèn chiếu,
áp phích hoặc ở những trang ruột các tạp chí họa báo, lịch túi, lịch bàn thì
tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền thù lao cơ bản cho mỗi tấm chia làm
2 mức: 2đ, 3đ.
3. Đối với những tấm ảnh bất cứ cỡ nào được
in ở trang bìa (bìa trước) các tạp chí, họa báo hoặc được in lịch treo thì tùy
theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền thù lao cơ bản cho mỗi tấm chia làm 2 mức:
6đ, 8đ.
4. Đối với những tấm ảnh bất cứ cỡ nào được
các nhà xuất bản, các cơ quan của Nhà nước có kinh doanh công nhận và in thành
tranh, bưu ảnh thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền thù lao cơ bản
cho mỗi tấm từ 25đ đến 40đ.
5. Đối với những tấm ảnh bất cứ cỡ nào được
in làm nhiều bản thì ngoài việc hưởng tiền thù lao cơ bản rồi, còn được hưởng
thêm tiền về số lượng ảnh in ra. Nơi sử dụng ảnh căn cứ vào số lượng ảnh in ra
nhiều hay ít mà hàng năm trả thêm tiền thù lao về số lượng ảnh in ra cho bên có
bản quyền tính theo tỷ lệ % (phần trăm) của thù lao cơ bản mà giảm dần xuống.
Cụ thể từng năm một được trả thêm tiền thù
lao về số lượng ảnh chia làm 3 mức như dưới đây:
|
Năm thứ nhất
|
Năm thứ hai
|
Năm thứ ba trở đi
|
Thù lao cơ bản
|
- Số ảnh in ra nhiều được trả thêm
- Số ảnh in ra trung bình được trả
thêm
- Số ảnh in ra ít được trả thêm.
|
50%
40%
30%
|
40%
30%
20%
|
30%
20%
10%
|
Của thù lao cơ bản
-
-
|
Trường hợp năm thứ nhất cũng như những năm
sau mà những tấm ảnh nói trên được in ra quá ít thì nơi sử dụng không phải trả
tiền thù lao về số lượng ảnh in ra như đã quy định ở trên.
6. Ngoài việc trả tiền thù lao cơ bản cho
nơi có bản quyền như những điểm đã quy định ở trên, nơi sử dụng ảnh còn phải
tính thêm tiền chi phí về giấy, thuốc, công in v.v… Căn cứ theo giá quy định của
phân xã Nhiếp ảnh (Việt Nam Thông tấn xã) mà trả cho nơi có bản quyền.
7. Ảnh của nơi có bản quyền phát ra phải có
sự thỏa thuận của nơi có bản quyền thì mới được chụp lại. Nơi chụp lại ảnh đó,
nếu sử dụng bằng hình thức khác ví dụ: ảnh đã được đăng báo nay in ra sách và
ngược lại ảnh đã in ra sách nay đăng báo v.v… thì nơi chụp lại vẫn phải trả tiền
thù lao cơ bản như những điểm đã quy định ở trên cho nơi có bản quyền.
8. Đối với những tấm ảnh của phóng viên nhiếp
ảnh là cán bộ trong biên chế dùng phương tiện và giờ riêng chụp ra thì bản quyền
thuộc về cá nhân, nhưng nếu dùng phương tiện của công chụp ra thì bản quyền thuộc
về cơ quan của phóng viên nhiếp ảnh đó.
9. Đối với những tấm ảnh được các báo của
các ngành thuộc trung ương không kinh doanh và được các cơ quan Nhà nước ở địa
phương có kinh doanh công nhận thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả tiền
thù lao bằng từ 30% đến 80% tiển thù lao cơ bản theo như những điểm đã quy định
ở trên.
Nếu những tấm ảnh nào ở địa phương có giá
trị và có thể phổ biến chung được thì các cơ quan của Nhà nước cũng như các
đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc ở địa phương sau khi đã thông qua Sở hoặc Ty Văn
hóa ở địa phương đó thì sẽ gửi những tấm ảnh ấy cho Phân xã nhiếp ảnh (Việt Nam
Thông tấn xã). Khi Phân xã nhiếp ảnh công nhận và trả tiền thù lao cơ bản theo
mức của trung ương như những điểm đã quy định ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao
mà các cơ quan, đoàn thể địa phương đó trả cho tác giả trước đây.
Còn tiền thù lao về số lượng ảnh in ra ở địa
phương thì hiện nay chưa đặt ra vì chưa có điều kiện theo dõi để tính thù lao về
số lượng ảnh in ra đó.
IX. NHUẬN BÚT CỦA NGÀNH
BÁO CHÍ
1. Đối với những bài bình luận, nghiên cứu,
chính trị, kinh tế, văn học, khoa học, kỹ thuật và sáng tác văn nghệ (thơ, phú,
truyện, phóng sự, điều tra, kịch, nhạc) thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mà
trả tiền nhuận bút cơ bản cho một bài báo từ 4đ đến 20đ và phân theo từng loại
báo như dưới đây:
Tạp chí được trả tiền nhuận bút cơ bản
chia làm 6 mức: 10đ, 12đ, 14đ, 16đ, 18đ, 20đ.
Báo hàng tuần được trả tiền nhuận
bút cơ bản chia làm 5 mức: 8đ,10đ, 12đ, 14đ, 16đ.
Báo hàng ngày được trả tiền nhuận bút
cơ bản chia làm 5 mức: 4đ, 6đ, 8đ, 10đ, 12đ.
2. Đối với những bài tiểu phẩm (bài văn thơ
ngắn, tranh biếm họa, minh họa) đoản bình hướng dẫn công tác, tường thuật tư liệu
đăng báo, tin tức tổng hợp có hệ thống thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mà trả
tiền nhuận bút cơ bản cho một bài báo từ 2đ đến 8đ và phân theo từng loại báo
như dưới đây:
Báo hàng tuần và tạp chí được trả tiền
nhuận bút cơ bản chia làm 6 mức: 3đ, 4đ, 5đ, 6đ, 7đ, 8đ.
Báo hàng ngày được trả tiền nhuận
bút cơ bản chia làm 5 mức: 2đ, 3đ, 4đ, 5đ, 6đ.
3. a) Đối với những bài báo dịch từ chữ ngoại
văn ra chữ Việt văn thì tùy theo chất lượng bản dịch là chủ yếu và căn cứ vào
bài dịch đó khó nhiều hay ít mà trả tiền nhuận bút cho một bài dịch bằng 50% số
tiền nhuận bút cơ bản của một bài báo sáng tác như điểm 1 và điểm 2 đã quy định
ở trên.
b) Đối với những bài báo dịch thuộc loại
kinh điển, văn học mà chất lượng của bản dịch cao có thể trả mức tiền nhuận bút
cơ bản bằng sáng tác.
4. Đối với những bài báo phải đăng làm nhiều
kỳ thì mỗi kỳ đăng báo vẫn được trả đủ tiền nhuận bút cơ bản như điểm 1 và điểm
2 đã quy định ở trên.
5. Đối với những bài báo đăng trên các tạp
chí sẽ lấy đơn vị 3.000 chữ là một bài báo, nếu bài báo đó viết chưa đủ 3.000
chữ vẫn được trả đủ tiền nhuận bút cơ bản như điểm 1 đã quy định ở trên, nếu
bài báo đó viết trên 3.000 chữ thì kể từ 1.000 chữ thứ tư trở đi, mỗi nghìn chữ
được trả thêm tiền nhuận bút bằng 20% tiền nhuận bút cơ bản.
6. Đối với những truyện dài được đăng báo
hàng ngày thì tùy theo chất lượng là chủ yếu mỗi kỳ đăng báo được trả tiền nhuận
bút cơ bản chia làm 4 mức: 2đ, 3đ, 4đ, 5đ.
7. Đối với những tin ngắn, những mẩu “thư bạn
đọc”, “ý kiến bạn đọc” gửi đăng báo không thường xuyên mà chỉ đăng một vài lần
thì nhà báo không phải trả tiền nhuận bút mà sẽ gửi báo phiếu cho cho cộng
tác viên của mình cho hợp lý.
8. Đối với những thông tín viên thường
xuyên của các bài báo hàng tuần, hàng ngày, v.v… sẽ không trả lại tiền nhuận
bút cơ bản từng tin một mà sẽ ghi lại những tin đã được sử dụng để 1 tháng hoặc
3 tháng cộng lại một lần, mà trả tiền nhuận bút cơ bản cho những thông tín viên
đó.
9. Đối với những văn kiện tài liệu của các
cơ quan Nhà nước hoặc của các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc công bố cung cấp
thì nhà báo không phải trả tiền nhuận bút.
10. Đối với các báo: tập san, nội san của
các ngành thuộc trung ương không kinh doanh có tính chất phục vụ công tác cho
ngành mình và các báo ở địa phương có kinh doanh thì tùy theo chất lượng của
bái báo là chủ yếu mà trả thù lao bằng từ 30% đến 80% số tiền nhuận bút cơ bản
như những điểm đã quy định ở trên.
Nếu bài báo đã đăng báo ở địa phương có giá
trị và có thể phổ biến chung được thì các báo địa phương gửi những bài báo đó
cho các báo ở trung ương. Khi báo của trung ương công nhận và trả tiền nhuận bút
theo những điểm đã quy định ở trên thì sẽ trừ số tiền thù lao mà báo ở địa
phương đã trả cho tác giả trước đây.
11. Đối với các bài báo viết hoặc dịch do
Đài phát thanh tiếng nói Việt nam yêu cầu thì Đài sẽ trả tiền nhuận bút cơ bản
cho người viết hoặc dịch đó như những điểm đã quy định ở trên.
12. Vì tình hình đặc biệt của Đài phát
thanh tiếng nói Việt nam là một tờ báo nói tổng hợp phải bảo đảm việc phổ biến
tác phẩm được rộng rãi, nhằm thỏa mãn yêu cầu văn hóa ngày càng tăng của nhân
dân, cho nên việc thực hiện những nguyên tắc về chế độ nhuận bút có thể
có những điểm châm chước riêng biệt. Hiện nay Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam
là một cơ quan không kinh doanh, nên mới thực hiện được nguyên tắc trả nhuận
bút cơ bản một lần mà không thực hiện nguyên tắc trả nhuận bút về số lượt phát
thanh hàng năm.
Việc trả nhuận bút cơ bản cho các loại văn,
thơ, kịch, nhạc, bài báo, v.v… do Đài sử dụng mới thực hiện được trong điều kiện
Đài có yêu cầu tác giả sáng tác hoặc cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển thể,
dịch v.v… thì Đài mới trả tiền nhuận bút cơ bản theo như những quy định trả nhuận
bút của ngành sân khấu, âm nhạc, báo chí bằng hình thức phát thanh đã quy định ở
trên.
Nhưng nếu những tác phẩm nào đã được sử dụng
bằng hình thức xuất bản, biểu diễn v.v…và được nơi sử dụng tác phẩm ấy trả tiền
nhuận bút cơ bản rồi thì Đài không phải trả tiền nhuận bút cơ bản nữa.
13. Trên đây là quy định trả tiền nhuận bút
của ngành báo chí, các báo sẽ căn cứ vào đó mà quy định chi tiết để áp dụng cho
từng báo được thích hợp, sau khi đã được Bộ Văn hóa thông qua.
Điều 2. - Tất cả
những quy định trả nhuận bút cho ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật
nói trên bắt đầu thi hành từ ngày 01 tháng 03 năm 1961.
Tất cả những văn bản của các cơ quan Nhà nước
và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc ở trung ương cũng như ở địa phương tạm
thời quy định về chế độ nhuận bút trước đây coi như không còn hiệu lực thi hành
nữa.
|
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ
VĂN HÓA
Hoàng Minh Giám
|
BẢN
PHỤ LỤC
(Đính kèm theo chế độ
nhuận bút trả cho những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật).
GIẢI THÍCH MỘT SỐ DANH TỪ THƯỜNG DÙNG CHUNG CHO CÁC
TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC, KỸ THUẬT
Nhuận bút:
Là một trong những hình thức trả công lao động
tương xứng với khối lượng và chất lượng lao động, từc là tiền đền bù công sức
lao động tiêu phí của tác giả sáng tạo ra tác phẩm.
Tác phẩm:
Tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học bao
gồm tất cả các sản phẩm do trí óc sáng tạo ra trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật
và khoa học, mặc dù sử dụng dưới bất cứ dưới hình thức nào trong lĩnh vực ấy.
Tác phẩm thường gồm có:
Các loại sách văn nghệ, chính trị, khoa học,
kỹ thuật, sách giáo khoa v.v…
Các kịch bản văn học thuộc hình thức sân khấu,
điện ảnh, truyền thanh v.v…
Các điệu múa, các tiết mục xiếc, các bản nhạc,
các tác phẩm hội họa điêu khắc, mỹ nghệ, nhiếp ảnh, báo chí, kiến trúc v.v…
- Các loại cải biên, phóng tác, chỉnh lý,
chuyển thể, dịch v.v… cũng được coi là tác phẩm.
- Tác phẩm nguyên bản tức là tác phẩm viết
đầu tiên bằng thơ, tiểu thuyết, hoặc kịch bản sân khấu điện ảnh v.v…
Tác giả:
Là người sáng tạo ra những tác phẩm nói
trên, sau khi tác phẩm ấy đã được sử dụng dưới một hình thức nhất định.
Người cải biên, phóng tác, chỉnh lý, chuyển
thể, dịch v.v… cũng được coi là tác giả, vì những người ấy tuy có dựa vào tác
phẩm nguyên bản, nhưng ít hoặc nhiều đều có công trình sáng tạo cho tác phẩm của
mình.
Sáng tác:
Là hoàn toàn do tác giả tạo ra tác phẩm của
mình, cốt truyện và nhân vật do tác giả nghĩ ra, hoặc có thể mượn nhân vật và cốt
truyện trong truyện cổ tích, dân gian, lịch sử, đã sử dụng hoặc rút ra trong
tác phẩm ở nước ngoài, nhưng lao động sáng tạo phải rõ ràng, nghĩa là nội dung,
bố cục, nhân vật, tình tiết, ngôn ngữ v.v… để diễn đạt chủ đề tư tưởng phải có
tính chất riêng biệt của tác giả.
Cải biên:
Là lấy cốt truyện cổ tích, lịch sử, đã sử
hoặc rút ra trong một tác phẩm ở trong nước hoặc ở nước ngoài mà tác giả căn cứ
vào đó nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật của cốt truyện ấy. Việc diễn đạt
tư tưởng có thể khác với quan niệm cũ. Về nội dung bố cục, nhân vật, tình tiết,
ngôn ngữ v.v… có thể thêm vào, hoặc bớt đi cho thích hợp với hoàn cảnh mới.
Phóng tác:
Là viết dựa theo một tác phẩm sẵn có ở
trong nước hay ngoài nước. Về nộ dung, bố cục, nhân vật, tình tiết, ngôn ngữ
v.v… có thể thêm vào hoặc bớt đi cho thích hợp với hoàn cảnh mới, nhưng chủ yếu
vẫn là viết dựa theo tác phẩm nguyên bản.
Chỉnh lý:
Là dựa theo một tác phẩm sẵn có mà sắp xếp
sữa đổi đi chút ít cho gọn gàng sáng sủa hơn, hoặc nghe nhiều người kể chuyện góp
lại, hoặc tìm tòi nhiều tài liệu mà viết lại, nhưng căn bản vẫn là dựa vào tác
phẩm sẵn có, hoặc cốt truyện sẵn có, mà sửa đổi chút ít cho thích hợp với hoàn
cảnh mới.
Chuyển thể:
Là dựa vào một tác phẩm sẵn có mà sắp xếp sửa
đổi đi chút ít rồi chuyển tác phẩm đó từ một hình thức này sang một hình thức
khác ví dụ: lấy tiểu thuyết viết sang kịch bản điện ảnh hoặc sân khấu, hoặc lấy
một vở tuồng viết sang một vở chéo, hoặc lấy một vở chèo viết sang một vở cải
lương v.v…
Dịch:
Là lấy tiếng nước ngoài viết ra tiếng nước
mình hoặc ngược lại, lấy tiếng nước mình viết ra tiếng nước ngoài, có thể dịch
thẳng tác phẩm nguyên bản hoặc dịch qua một thứ tiếng của nước khác đã dịch tác
phẩm nguyên bản.
GIẢI
THÍCH MỘT SỐ DANH TỪ CỦA NGÀNH ÂM NHẠC
Ca khúc là một bài hát ngắn thường
có từ 1 đến 3 trang nhạc, hoặc có từ 4 đến 16 câu lời.
Phối khí: là soạn bè cho các nhạc cụ
diễn tấu.
Phối âm: là soạn bè cho hát.
Hợp xướng: là bài hát có nhiều bè.
Chương nhạc (thường gọi là
Mouvement): Một bản nhạc hợp xướng cũng như những bản nhạc có tính chất giao hưởng
thường có 2, 3, 4 chương nhạc. Có thể trình bày toàn bộ bản nhạc hợp xướng hoặc
trách rời từng chương nhạc một, mà trình bày riêng vẫn được.
Tổ khúc là nhiều bản nhạc hoặc nhiều
bài hát nối tiếp với nhau.
Kịch hát, kịch múa, nhạc kịch là
ngoài phần nhạc ra, còn có thêm phần cốt truyện, lời ca hoặc múa.
Nhịp nhạc là khoảng giữa 2 gạch nhịp
trên bản nhạc.
Nhạc cắt là những bản nhạc của một
hay nhiều bản nhạc hoặc ca khúc cắt ra để minh họa cho một tác phẩm đó được
tăng thêm phần phong phú và có thể sử dụng được bằng nhiều hình thức khác nhau.
Giao hưởng (symphonie) có đặc điểm
là về bố cục của bản nhạc có tính chất tương đối cố định.
Thơ giao hưởng (Pòeme symphonique) có
đặc điểm là bản nhạc bố cục không cố định.
Nhạc mở đầu (Ouverture) thường là bản
nhạc mở đầu cho kịch hát, kịch múa v.v… phải bố cục bằng nhiều hình thức cho
thích hợp với nội dung, nhưng tách ra biểu diễn riêng vẫn được. – Nói chung bản
nhạc giao hưởng (sym-phonie) nhạc mở đầu (Ouverture) thơ giao hưởng (Pòe
symphonique) thường là những bản nhạc không lời, viết cho dàn nhạc có tính chất
giao hưởng, nó cấu tạo kiến trúc khác nhau và rất công phu.
GIẢI
THÍCH MỘT SỐ DANH TỪ CỦA NGÀNH HỘI HỌA
Tranh sơn mài là một loại tranh vẽ
lên gỗ mà nguyên liệu chính dùng để vẽ là sơn ta, son vàng, bạc v.v… Sỡ dĩ gọi
là sơn mài là vì lúc làm tranh phải mài đi, mài lạị nhiều lần bằng đá mịn với
nước, để làm nổi hình vẽ và làm cho mặt tranh được nhẵn.
Tranh sơn khắc là một loại tranh nền
bằng sơn mài, có khắc trổ hình vẽ sâu xuống, rồi bôi màu bằng sơn dầu hoặc
bằng thuốc bột ở trên hình vẽ ấy.
Tranh sơn dầu là một loại tranh vẽ
trên vải bằng một thứ bột màu trộn với dầu (sơn dầu).
Tranh lụa là một loại tranh vẽ trên
lụa bằng mực nho hoặc bằng các màu thuốc nước.
Tranh bột màu là một loại tranh vẽ
trên giấy hoặc trên vải v.v… mà các mực dùng để vẽ là bột màu pha trộn với keo
và nước.
Tranh phấn màu là một loại tranh
dùng phấn màu để vẽ lên giấy. Khi vẽ xong, phun thêm một thứ nước bằng cồn có
pha dầu thông, để giữ cho bột phấn màu khỏi bay đi.
Tranh khắc gỗ là một loại tranh khắc
hình vẽ lên gỗ, rồi in lên giấy thành tranh.
Tranh cổ động là một loại tranh vẽ bằng
bột màu, thuốc nước v.v… có mục đích tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng
và Chính phủ ta v.v… Tranh cổ động có tính chất nổi bật trước mắt, dễ hiểu và
thường có kèm theo một vài dòng chữ khẩu hiệu.
Ký họa là một loại tranh ghi chép bằng
bút chì, bút mực hoặc bằng thuốc nước thường vẽ một nhân vật, một cảnh sinh hoạt,
một phong cảnh v.v… để lưu niệm lại hoặc dùng làm tài liệu sáng tác.
Minh họa là một loại tranh vẽ lại một
vài cảnh đặc biệt diễn tả trong sách, trong báo v.v…
Biếm họa là một loại tranh vẽ có
tính chất châm biếm chế giễu những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân, hoặc
đã kích địch, hoặc là loại tranh vui cười.
Nê họa là một loại tranh dùng bột
màu vẽ trên tường còn ướt, hoặc dùng sơn dầu vẽ lên vải rồi dán vào tường.
Hoạt họa là một loại tranh vẽ cho
phim ảnh; mỗi cảnh, mỗi người, mỗi động tác là một tranh vẽ. Vẽ xong thu vào phim
rồi đem chiếu lên màn ảnh, lúc ấy cảnh và người sẽ hoạt động.
Tranh thạch bản là một loại tranh in
ở các bản in bằng đá cũng tương tự như tranh khắc gỗ, nhưng không khắc lên đá,
mà dùng một thứ mực đặc biệt vẽ lên đá rồi in ra giấy thành tranh.
Tranh truyện là một loại tranh vẽ để
diễn tả một câu chuyện nhất định. Dưới mỗi bức tranh đều có lời văn hay thơ để
làm chon nội dung bức tranh truyện đó được rõ hơn.
Tranh tứ bình là một loại tranh vẽ gồm
có 4 bức thành 1 bộ.
Tranh nhị bình là một loại tranh vẽ
gồm có 2 bức thành 1 bộ.
Tranh thủy mạc là một loại tranh vẽ
bằng mực nho đậm, nhạt trên giấy hay trên lụa.
Kakémono tranh liễn: tranh bồi có trục
trên, trục dưới (chiều cao thường dài gấp 4 gấp 5 chiều ngang).
Makémono tranh hoành: tranh trục cuộn
thường mở ngang để xem (chiều dài thường gấp 4 gấp 5 chiều cao và có khi dài
hơn nữa).