BỘ
CÔNG NGHIỆP-BỘ TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG QUỐC GIA
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
100-LB
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 03 năm 1959
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CÁC CHI TIẾT THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 054-TTG NGÀY
19-02-1959 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ẤN ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC VỀ CẤP VỐN LƯU ĐỘNG ĐỐI
VỚI CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH CÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP, GIAO THÔNG VẬN
TẢI VÀ BƯU ĐIỆN
Quyết định số 054-TTg ngày
19-02-1959 của Thủ tướng Chính phủ đã ấn định các nguyên tắc về cấp vốn lưu động
đối với các xí nghiệp quốc doanh công nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp, giao
thông vận tải và bưu điện; về việc định mức tiêu chuẩn vốn lưu động cho các xí
nghiệp quốc doanh; và về việc Ngân hàng quốc gia cho vay trong định mức vốn lưu
động. Quyết định số 054-TTg nói trên, nhằm:
Hết sức tiết kiệm vốn cho Nhà nước,
đồng thời giúp đỡ các xí nghiệp giải quyết những khó khăn về vốn trong quá
trình thực hiện kế hoạch, góp phần củng cố có thêm một bước chế độ hạch toán
kinh tế, để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Thông tư Liên bộ Tài chính –
Công nghiệp – Ngân hàng này quy định cụ thể những nguyên tắc và biện pháp chủ yếu
để hướng dẫn các Ủy ban hành chính các xí nghiệp quốc doanh công nghiệp, các
Chi nhánh Ngân hàng địa phương thi hành.
I. MẤY NGUYÊN
TẮC CHUNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH CÔNG NGHIỆP, TRONG VIỆC CẤP
VỐN LƯU ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TRONG VIỆC CHO VAY TRONG ĐỊNH MỨC VỐN LƯU ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG QUỐC GIA
1. Đối với tất cả các xí nghiệp
quốc doanh công nghiệp sau khi đã xét duyệt xong vốn, Nhà nước chỉ cấp tối đa đến
70% định mức vốn lưu động.
Số chênh lệch còn lại, Nhà nước
sẽ chuyển giao cho Ngân hàng quốc gia để cho vay theo nguyên tắc: Ngân hàng
tham gia một phần trong định mức vốn lưu động và theo các biện pháp cho vay
trong định mức và vốn lưu động do Ngân hàng quốc gia đã quy định.
2. Ngoài ra, nếu xí nghiệp cần
có dự trữ trên định mức tiêu chuẩn vốn lưu động, thì Ngân hàng quốc gia sẽ cho
vay trên định mức, theo thể lệ và biện pháp đã ban hành.
3. Nguyên tắc định mức vốn lưu động
cho các xí nghiệp quốc doanh công nghiệp phải :
- Căn cứ theo sản lượng của quý
thấp nhất để định mức vốn toàn năm cho xí nghiệp sản xuất theo thời vụ.
- Căn cứ theo sản lượng sản xuất
toàn năm để định mức vốn lưu động bình quân cả năm cho xí nghiệp sản xuất không
thời vụ. Riêng đối với một số xí nghiệp sản xuất không thời vụ nhưng nguyên vật
liệu cung cấp theo thời vụ thì Nhà nước cấp vốn theo mức bình thường, còn phần
vốn cần thiết cho những ngày dự trữ theo thời vụ thì Ngân hàng cho vay.
Cần phân biệt những trường hợp
sau đây:
a) Dự trữ nguyên vật liệu thời vụ:
Nói chung định mức vốn lưu động
là theo nhu cầu bình quân cả năm. Riêng những loại nguyên vật liệu mua theo thời
vụ thì về phần những ngày dự trữ thời vụ, Ngân hàng sẽ cho vay.
b) Sản xuất theo thời vụ:
- Đối với xí nghiệp sản xuất
liên tục cả năm, nhưng có chênh lệch nhiều giữa các quý, thì căn cứ vào số vốn
cần thiết của qúy thấp nhất để định mức tiêu chuẩn vốn lưu động cần thiết cho
các giai đoạn trong quá trình sản xuất: dự trữ sản xuất, sản xuất chưa xong,
thành phẩm.
- Đối với các xí nghiệp sản xuất
đứt quãng có quý không sản xuất ra sản phẩm, cũng định mức tiêu chuẩn vốn lưu động
cần thiết cho các giai đoạn theo qúy thấp nhất, như đối với loại xí nghiệp
trên, nhưng riêng phần nguyên vật liệu thì Nhà nước không cấp vốn mà do Ngân
hàng cho vay toàn bộ để thỏa mãn nhu cầu thu mua của xí nghiệp trong vụ sản xuất;
Ngân hàng sẽ thu hồi lại theo mức tiêu phí các nguyên vật liệu đó.
c) Tiêu thụ theo thời vụ:
Năm 1959, nhiệm vụ của Mậu dịch
quốc doanh là phải đảm bảo việc tiêu thụ và dự trữ sản phẩm thời vụ cho các xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh; do đó việc dự trữ thành phẩm theo thời vụ đối với
xí nghiệp quốc doanh công nghiệp không phải đặt ra. Vì vậy, định mức tiêu chuẩn
vốn dự trữ thành phẩm đối với các xí nghiệp quốc doanh công nghiệp phải căn cứ
theo nhu cầu quý thấp nhất.
II. MẤY VẤN ĐỀ
CÓ QUAN HỆ ĐẾN VIỆC CẤP VỐN VÀ CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH
CÔNG NGHIỆP
1. Sau khi các xí nghiệp đã được
duyệt vốn xong, Bộ Công nghiệp sẽ tùy tình hình từng xí nghiệp mà ấn định mức vốn
cần cấp (trong phạm vi tối đa 70% như đã nói trên). Như vậy, sẽ có một số lớn
xí nghiệp đang hoạt động, vì vốn lưu động hiện có nhiều hơn số được cấp, nên phải
hoàn lại số chênh lệch thừa cho Ngân sách Nhà nước.
2. Bộ Công nghiệp sẽ ra quyết định
rút số vốn lưu động thừa ở từng xí nghiệp và thông báo cho xí nghiệp, đồng gửi
cho Bộ Tài chính, Ngân hàng trung ương và địa phương biết, để tiến hành rút vốn
của xí nghiệp. Việc này sẽ làm theo phương pháp sau:
- Nếu xí nghiệp có đủ tiền nộp
thì Ngân hàng địa phương sẽ thu số vốn đó và chuyển cho Ngân hàng trung ương để
ghi vào tài khoản “Vốn được cấp để cho vay xí nghiệp trong định mức tiêu chuẩn
vốn lưu động”, mở tại Ngân hàng trung ương. Sau đó, nếu xí nghiệp cần vay trong
định mức vốn lưu động thì Ngân hàng địa phương sẽ cho vay theo kế hoạch đã được
duyệt.
- Nếu xí nghiệp không có đủ tiền
nộp vì tiền của xí nghiệp đang còn nằm trong vật tư chưa được giải phóng, thì
xí nghiệp sẽ tới Ngân hàng làm giấy tờ xin vay số tiền cần nộp (tức là số vốn
mà Bộ Công nghiệp đã quyết nghị rút) rồi lại nộp ngay vào Ngân hàng để Ngân
hàng địa phương chuyển lên Ngân hàng trung ương. Hai việc : vay và nộp, phải tiến
hành một lúc, để hợp lý hóa thủ tục kế toán của Ngân hàng. Đây chỉ là một việc
làm qua giấy tờ, chuyển khoản, nhưng đương nhiên, từ lúc này trở đi, xí nghiệp
đã mắc nợ Ngân hàng địa phương: xí nghiệp sẽ trả theo giấy chứng nhận nợ đã ký
kết, và sẽ vay khi cần thiết.
3. Để có thể đặt quan hệ vay mượn
trực tiếp với Ngân hàng quốc gia, các xí nghiệp cần lập ngay kế hoạch thu chi
tài vụ và kế hoạch vay vốn năm 1959, trước mắt là quý II-1959 giao cho các Chi
nhánh Ngân hàng địa phương để tập hợp cho Ngân hàng trung ương duyệt kế hoạch
cho vay.
III. MẤY ĐIỂM
CẦN CHÚ Ý KHI THI HÀNH:
1. Xí nghiệp công nghiệp, Chi
nhánh Ngân hàng địa phương cần phối hợp mật thiết, tổ chức nghiên cứu kỹ thông
tư này, đặt kế hoạch thi hành một cách tích cực dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng
bộ và chính quyền địa phương. Việc đặt quan hệ tín dụng của Ngân hàng đối với
các xí nghiệp đã được xét duyệt kế hoạch thu chi tài vụ, phải căn bản hoàn
thành trong quý II-1959.
2. Đi theo đường lối quần chúng,
dựa vào công nhân và Đảng ủy xí nghiệp phổ biến, giải thích cho quần chúng công
nhân, cán bộ quán triệt tinh thần chính sách tiết kiệm vốn Nhà nước để thực hiện
tốt việc giám đốc của Ngân hàng quốc gia, thông qua công tác cho vay, bảo đảm tốt
việc giải quyết khó khăn về vốn của xí nghiệp, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành
vượt mức kế hoạch sản xuất của xí nghiệp.
3. Hết sức tránh lối làm việc
quan liêu, giấy tờ, qua loa, đại khái, không hiểu rõ tình hình hoạt động kinh
doanh và tài vụ của xí nghiệp. Quan hệ giữa các xí nghiệp và cơ quan kinh tế là
quan hệ đồng chí, tương trợ xã hội chủ nghĩa, phải phát huy tinh thần phục vụ
xí nghiệp, vì lợi ích của sản xuất trước hết, cố gắng đi sâu, đi sát, cố gắng
đơn giản hóa thủ tục, giấy tờ, thực hiện phương châm từ thấp đến cao, từ dễ đến
khó.
Thông tư này chỉ nêu những điểm
lớn có tính chất nguyên tắc. Mỗi Bộ, tùy theo sự cần thiết, sẽ cụ thể hóa thêm
chi tiết nội dung của bản Thông tư này cho ngành mình sau.
K.T.
BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
TỔNG
GIÁM ĐỐC
NGÂN HÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM
Lê Viết Lượng
|
K.T. BỘ TRƯỞNG
BỘ CÔNG NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG
Vũ Anh
|