BỘ
KIẾN TRÚC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1353-BKT
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 09 năm 1962
|
QUYẾT ĐỊNH
QUY ĐỊNH TẠM THỜI VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI
VẬT LIỆU XÂY DỰNG
BỘ TRƯỞNG BỘ KIẾN TRÚC
Căn cứ Nghị định số 166-CP
ngày 18 tháng 10 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy của Bộ Kiến trúc;
Căn cứ Nghị quyết tháng 2 năm 1960 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất
công tác quản lý sản xuất phân phối vật liệu xây dựng: gạch, ngói, vôi, cát,
đá, sỏi vào Bộ Kiến trúc;
Căn cứ vào Quyết định số 19-TTg ngày 16 tháng 2 năm 1962 của Phủ Thủ tướng về
việc phân cấp quản lý vật liệu xây dựng.
Để thống nhất chỉ đạo và quản lý chặt chẽ các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng;
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
– Nay ban hành quy định tạm thời kèm theo quyết định
này về tổ chức quản lý sản xuất và phân phối vật liệu xây dựng.
Điều 2.
– Các ông Vụ trưởng, Cục trưởng Chánh Văn phòng Bộ,
Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh, khu, thành phố và các ông Giám đốc Sở và Trưởng
ty Kiến trúc chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ KIẾN TRÚC
THỨ TRƯỞNG
Trần Sâm
|
QUY ĐỊNH TẠM THỜI
VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI VẬT LIỆU XÂY DỰNG
I. SƠ LƯỢC VỀ
TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI VẬT LIỆU HIỆN NAY
Hiện nay ở địa phương có ba hình
thức tổ chức quản lý sản xuất, thu mua và phân phối vật liệu xây dựng trong
ngành kiến trúc là: Công ty, Trạm và xí nghiệp trực thuộc Ty Sở Kiến trúc. Các
Công ty và Trạm có nhiệm vụ hướng dẫn các cơ sở sản xuất, thu mua và phân phối
vật liệu nhất là đối với Hợp tác xã thủ công và Hợp tác xã nông nghiệp coi như
kinh doanh nghề khác. Những chỗ bất hợp lý là vật liệu của các cơ sở sản xuất
ra Công ty và Trạm thu mua rồi đem bán lại cho công trường thu thêm một khoản
lãi thương nghiệp và nộp thuế cho Nhà nước. Bộ máy của Công ty và Trạm có nơi
còn quá nặng, nhiều Ty, Sở chỉ đạo vật liệu lỏng lẻo, nên một số Công ty muốn
được trực tiếp với Ủy ban hành chính địa phương và Bộ. Đến nay nhiều cơ sở
sản xuất đã có điều kiện thực hiện hạch toán kinh tế và trực thuộc thẳng với
các Ty, Sở Kiến trúc; Công ty và Trạm là xí nghiệp hạch toán độc lập lại phụ
trách thu mua của những xí nghiệp hạch toán độc lập nên có tình trạng chồng
chéo lên nhau, do đó cần có một hình thức tổ chức thích hợp với đặc điểm và
tình hình các cơ sở sản xuất hiện nay.
Đối với các cơ sở sản xuất tập
thể của nông dân và Hợp tác xã thủ công sản xuất vật liệu hiện nay có nơi do Ty
Công nghiệp quản lý, có nơi do Ty Kiến trúc, có nơi do Ty Thương nghiệp quản
lý. Do thiếu sự thống nhất quản lý và ta chưa quan tâm đúng mức, nên không tận
dụng được khả năng sản xuất của quần chúng để giải quyết yêu cầu về gạch, ngói
cho công ty xây dựng cơ bản của Nhà nước và nhân dân; vật liệu sản xuất ra phẩm
chất không bảo đảm và có tình trạng tranh dành thu mua vật liệu, nên thường gây
tình trạng giá cả không thống nhất và cao.
II. KIỆN TOÀN
TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI VẬT LIỆU XÂY DỰNG
Công tác tổ chức quản lý sản xuất
và phân phối vật liệu xây dựng phải dựa vào nguyên tắc:
- Lãnh đạo tập trung, bảo đảm thống
nhất quản lý sản xuất và phân phối vật liệu xây dựng theo kế hoạch của Nhà nước.
- Căn cứ vào Nghị quyết của Hội
đồng Chính phủ, việc quản lý sản xuất và phân phối các loại vật liệu xây dựng
như gạch, ngói, vôi, cát, đá, sỏi giao cho Bộ Kiến trúc phụ trách và có sự phân
cấp cho Ủy ban hành chính địa phương.
Dựa vào nguyên tắc và nhiệm vụ của
ngành kiến trúc nói trên, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối vật liệu quy định
như sau:
1. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Kiến
trúc và sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi,
cát, đá sỏi trong địa phương cần thống nhất giao cho Sở, Ty Kiến trúc phụ trách
quản lý sản xuất và phân phối.
2. Những cơ sở sản xuất gạch,
ngói ở gần nhau thì thống nhất tổ chức lại gọi là Xưởng sản xuất gạch, ngói.
3. Đối với những cơ sở khai thác
cát, sỏi, đá, sẽ dựa vào điều kiện cụ thể từng khu vực tổ chức thành một công
trường khai thác.
4. Đối với những Hợp tác xã nông
nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng thì tùy theo số cơ sở sản
xuất của mỗi địa phương nhiều hay ít, tùy theo yêu cầu vật liệu xây dựng cung cấp
cho xây dựng cơ bản của Nhà nước nhiều hay ít mà thành lập một hay nhiều Công
ty vật liệu xây dựng để: hướng dẫn các cơ sở sản xuất nông nghiệp, thủ công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nhằm bảo đảm kế hoạch sản xuất theo đúng quy
cách phẩm chất của Nhà nước, giá rẻ và tiến hành thu mua những vật liệu xây dựng
đó để cung cấp cho kế hoạch xây dựng cơ bản của Nhà nước.
5. Các xưởng sản xuất gạch,
ngói, công trường khai thác, Công ty vật liệu thuộc Sở, Ty Kiến trúc là những
xí nghiệp địa phương thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập theo nguyên tắc
xí nghiệp sản xuất hạch toán theo chế độ hạch toán công nghiệp, Công ty thu
mua hạch toán theo chế độ cung tiêu. Các xí nghiệp này được cấp các loại vốn
để hoạt động và có trách nhiệm thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch Nhà nước bảo
đảm thu nộp đủ các khoản thuế, lãi, khấu hao cơ bản vào Ngân sách Nhà nước.
Bộ máy của các xí nghiệp sản xuất
cần gọn nhẹ, tỷ lệ gián tiếp so với tổng số cán bộ công nghiệp cần chiếm từ 4 đến
5%. Bộ máy của Công ty vật liệu sẽ tùy theo khối lượng công tác, phạm vi hoạt động
mà bố trí cho thích hợp.
6. Việc bán lẻ vật liệu xây dựng
cho nhân dân do ngành Nội thương phụ trách. Trong từng thời gian (một tháng, ba
tháng, một năm) ngành Nội thương sẽ lập kế hoạch về nhu cầu vật liệu xây dựng
cho nhân dân, để trình Ủy ban hành chính tỉnh, khu, thành phố để ghi vào
kế hoạch vật liệu xây dựng của địa phương. Sau khi được xét duyệt, các Ty, Sở
Kiến trúc có nhiệm vụ tổ chức sản xuất và cung cấp theo kế hoạch để ngành Nội
thương bán lẻ cho nhân dân.
7. Vật liệu xây dựng do các xí
nghiệp quốc doanh, Công tư hợp doanh sản xuất; vật liệu xây dựng do các Hợp tác
xã nông nghiệp, thủ công nghiệp sản xuất mà Công ty vật liệu xây dựng thu mua đều
do các Ty, Sở Kiến trúc phân phối thẳng cho các công trình xây dựng ở nơi gần
nhất để tránh tình trạng vận chuyển chồng chéo lên nhau giảm bớt những chi phí
về vận chuyển không cần thiết.
8. Đối với các Hợp tác xã nông
nghiệp sản xuất vật liệu có tính chất tự sản tự tiêu sẽ do Ủy ban hành chính địa
phương quyết định.Các Ty, Sở Kiến trúc sẽ hướng dẫn về kỹ thuật sản xuất.
III. QUAN HỆ
LỀ LỐI LÀM VIỆC GIỮA BỘ VỚI ỦY BAN HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG
- Căn cứ vào kế hoạch xây dựng
cơ bản của Trung ương, Bộ Kiến trúc sẽ lập kế hoạch vật liệu của Trung ương và
đưa xuống cho Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, khu để ghi vào vật liệu của địa
phương.
- Ủy ban hành chính tỉnh, thành
phố, khu căn cứ vào kế hoạch xây dựng cơ bản của địa phương và nhân dân, đề ra
kế hoạch vật liệu của địa phương.
- Dựa vào yêu cầu vật liệu của
Trung ương và địa phương, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, khu sẽ tổng hợp lại
thành kế hoạch vật liệu của địa phương rồi gửi về Bộ Kiến trúc để thẩm tra lại
và báo cáo lên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để trình Hội đồng Chính phủ phê chuẩn.
- Hàng tháng, quý, Bộ sẽ gửi những
chỉ tiêu kế hoạch vật liệu của Trung ương cho các Ủy ban hành chính tỉnh, thành
phố, khu để ghi vào kế hoạch vật liệu của địa phương. Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố, khu sẽ lập kế hoạch vật liệu của địa phương và nhân dân rồi tổng hợp
lại thành kế hoạch sản xuất vật liệu của địa phương vào báo cáo về Bộ Kiến
trúc.
- Trường hợp những chỉ tiêu kế
hoạch vật liệu của Trung ương giao cho địa phương mà Ủy ban xét thấy không có
khả năng bảo đảm thực hiện thì cần báo cáo và xin ý kiến của Bộ.
- Sau khi kế hoạch đã được Chính
phủ phê chuẩn, Bộ Kiến trúc sẽ giao nhiệm vụ kế hoạch cho Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố, khu và cùng với các Ủy ban hành chính nghiên cứu giao kế hoạch cho
cơ sở sản xuất đồng thời có trách nhiệm cùng với Ủy ban hành chính chỉ đạo thực
hiện kế hoạch.
- Trong trường hợp không hoàn
thành những chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, Bộ Kiến trúc và Ủy ban hành chính tỉnh,
thành phố, khu cần báo cáo với Chính phủ xét duyệt, tuyệt đối không được tự động
điều chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
- Cần quy rõ trách nhiệm của Bộ
Kiến trúc và của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, khu trong việc không hoàn
thành kế hoạch vật liệu của Nhà nước.
Quy định kèm theo Quyết định số
1353-BKT ngày 8-9-1962 của Bộ Kiến trúc.