BỘ
TƯ PHÁP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1869-VHC
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 10 năm 1955
|
THÔNG TƯ
VỀ HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ ỦY BAN HÀNH CHÍNH XÃ VỀ MẶT TƯ
PHÁP SAU CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Kính
gửi: Các Ủy ban hành chính liên khu và tỉnh, các ông Công tố ủy viên Tòa án
nhân dân liên khu và Tòa án nhân dân tỉnh và thành phố.
Hiện nay ở những xã đã cải cách
ruộng đất, giai cấp địa chủ tuy đã đánh đổ nhưng nhiều tên địa chủ còn đang có
nhiều phản ứng, đế quốc Mỹ dựa vào giai cấp địa chủ làm nòng cốt để phá hoại
ta.
Trong nội bộ nông dân còn có một
số việc xích mích, tranh chấp nhau về quyền lợi. Những vụ trộm cắp, thông gian,
hủ hóa, v.v…còn ít nhiều xảy ra.
Trước tình hình đó, phần lớn cán
bộ tư pháp xã chưa được huấn luyện về mặt tư pháp, cán bộ tư pháp huyện cũng
đang lúng túng trong việc hướng dẫn Ủy ban hành chính xã về mặt tư pháp. Quan
niệm về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức; về lề lối làm việc của Ủy ban hành chính
về mặt tư pháp cũng chưa được thống nhất ở tất cả mọi nơi.
Bộ Tư pháp đã triệu tập một hội
nghị trao đổi kinh nghiệm về xây dựng và củng cố Ủy ban hành chính xã về mặt tư
pháp sau cải cách ruộng đất trong hai ngày 15 và 16-9-1955. Căn cứ vào ý kiến của
hội nghị, Bộ đã xây dựng được một hướng củng cố Ủy ban hành chính xã về mặt tư
pháp sau cải cách ruộng đất (kèm theo Thông tư này) để các Ủy ban hành chính và
Tòa án nhân dân khu và tỉnh cho tạm thời thực hiện và rút kinh nghiệm.
Trong khi thực nghiệm, xin báo
cáo cho Bộ biết những kinh nghiệm đã thu lượm được và ý kiến xây dựng.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|
HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ ỦY BAN HÀNH CHÍNH XÃ VỀ MẶT TƯ PHÁP SAU
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
1. – Mục
đích, yêu cầu của việc củng cố Ủy ban hành chính xã về mặt tư pháp sau cải cách
ruộng đất
Mục đích của việc củng cố Ủy ban
hành chính xã về mặt tư pháp sau cải cách ruộng đất là: góp phần vào việc củng
cố chính quyền ở xã, góp phần vào việc tăng cường đoàn kết ở nông thôn và việc
trấn áp được kịp thời và có hiệu quả những hành động phá hoại trị an, phá hoại
sản xuất của giai cấp địa chủ và của bọn phản động.
Trong việc củng cố Ủy ban hành
chính xã về mặt tư pháp sau cải cách ruộng đất, chủ yếu là phải bồi dưỡng lập trường,
tư tưởng cho cán bộ phụ trách công việc tư pháp xã, đồng thời cũng phải chú ý
hướng dẫn anh em về tổ chức và lề lối làm việc của Ủy ban hành chính xã về mặt
tư pháp xã.
2. – Nhiệm vụ
và quyền hạn tổ chức và lề lối làm việc của Ủy ban hành chính xã về mặt tư pháp
1) Nhiệm vụ và quyền hạn về mặt
tư pháp của Ủy ban hành chính xã:
Nội dung nhiệm vụ về mặt tư pháp
của Ủy ban hành chính xã là:
a) Hòa giải những việc xích
mích, tranh chấp về quyền lợi trong nhân dân (trường hợp địa chủ tranh chấp với
nhau thì Ủy ban hành chính xã cũng phải giáo dục và giải quyết cho chúng).
Ủy ban hành chính xã có quyền
công nhận những việc thuận tình ly hôn mà hai bên không có tranh chấp nhau về
con cái hoặc tài sản.
b) Kiểm thảo giáo dục những người
phạm lỗi nhỏ làm mất trật tự ở nông thôn như: say rượu, làm huyên náo thôn xóm,
đánh chửi nhau thường, trộm cắp vặt, hủ hôn thường, v.v…Nếu có gây thịêt hại
cho người khác, Ủy ban hành chính xã có thể bắt người phạm lỗi phải bồi thường.
c) Nghiêm khắc cảnh cáo những
tên địa chủ có những phản ứng nhỏ như: láo xược với nông dân, không chịu lao động,
trộm cắp vặt, dây dưa thuế, không chịu đi dân công, v.v…
d) Thi hành mệnh lệnh của cấp
trên như: tống đạt giấy gọi, tống đạt án, điều tra cung cấp thêm tài liệu về một
vụ án theo yêu cầu Tòa án nhân dân huyện hoặc của Tòa án nhân dân tỉnh, v.v…
Ủy ban hành chính xã không có
quyền phạt giam hoặc giữ người phạm lỗi một vài ngày để bắt họ quét trụ sở, đắp
đường, đào ao, đào giếng,v.v…
Bỏ phạt vi cảnh ở xã, vì đối với
nông dân, kiểm thảo giáo dục là chính, còn đối với địa chủ, chúng ta phải dựa
vào lực lượng của nhân dân mà nghiêm khắc cảnh cáo, trấn áp những phản ứng của
chúng.
Nên bỏ khoản phạt tiền trong
hương ước của xóm đối với những việc gia súc phá hoại hoa màu, vì nhiều nơi thường
phạt nặng quá, tùy trường hợp sẽ kiển thảo, phê bình người chủ gia súc và bắt bồi
thường cho người có hoa màu bị thiệt hại, đồng thời giáo dục ý thức bảo vệ sản
xuất cho các em thiếu nhi chăn trâu bò.
2) Vấn đề phân công phụ trách
trong công việc tư pháp xã trong Ủy ban hành chính:
Tùy điều kiện cụ thể của từng địa
phương mà phân công Chủ tịch, phó Chủ tịch hay Ủy viên công an phụ trách công
việc tư pháp xã. Một điều cần thiết phải nhấn mạnh là: nếu có sự lãnh đạo chặt
chẽ, những việc hòa giải, kiểm thảo trong thực tế sẽ được giải quyết một
phần lớn trong Nông hội và các đoàn thể quần chúng, như thanh niên, phụ nữ,v.v….vì
vậy không nên phân công một ủy viên Ủy ban hành chính xã chỉ chuyên trách riêng
về vấn đề tư pháp, mà không phụ trách thêm những công tác khác. Chỉ có một điều
cần chú ý là: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, hoặc Ủy viên công an phụ trách cả công việc
tư pháp xã không nên kiêm nhiệm nhiều việc quá thì những công việc phũ tráchmới
thực hiện được có hiệu quả.
Theo kinh nghiệm của một số lớn
xã thì nên giao cho Ủy viên công an xã kiêm tư pháp xã vì những thuận lợi sau
đây:
- Công an và tư pháp có chung một
nhiệm vụ là trấn áp địch. Nếu một ủy viên kiêm nhiệm cả hai việc thì đường lối,
chủ trương, kế hoạch trấn áp sẽ được thống nhất.
- Ủy viên Công an thường là chi ủy
viên hoặc thường vụ chi ủy viên. Nếu Ủy viên công an kiêm cả công việc tư pháp
thì sự lãnh đạo của chi ủy đối với công việc tư pháp dễ dàng được chặt chẽ hơn.
3) Vấn đề điều tra ở xã:
Nói chung công việc điều tra những
vụ phạm pháp thường và phạm pháp quan trọng, những hành động của bọn phản cách
mạng, bọn lưu manh, côn đồ ở xã là do công an xã phụ trách. Chủ tịch, Phó Chủ tịch
phụ trách cả công việc tư pháp xã chỉ điều tra những vụ nhân dân tranh chấp về
quyền lợi để hòa giải, hoặc những vụ nhân dân phạm lỗi nhẹ để kiểm thảo là những
vụ tương đối dễ dàng điều tra.
4) Lề lối làm việc của Ủy ban
hành chính xã về mặt tư pháp:
a) Ủy ban hành chính xã cần phối
hợp công tác chặt chẽ với Nông hội; những việc hòa giải, kiểm thảo, Ủy ban hành
chính cần đưa cho tổ Nông hội hoặc đoàn thể thanh niên, phụ nữ ở xóm giải quyết
trước, nếu đòan thể giải quyết không xong thì Ủy ban hành chính xã mới giải quyết.
Đối với những phản ứng nhỏ của bọn
địa chủ, tùy trường hợp Ủy ban hành chính xã có thể góp ý kiến để cho trưởng
xóm, công an và Nông hội xóm gọi chúng đến để cảnh cáo, nếu cần thì họp tổ Nông
hội hoặc họp nhân dân trong xóm để cảnh cáo chúng. Nếu không xong, Ủy ban hành
chính xã phối hợp với Ban chấp hành Nông hội xã đễ tổ chức nghiêm khắc cảnh cáo
chúng (có thể lại họp tổ Nông hội xóm, hoặc họp nhân dân trong xóm do Ủy ban
hành chính xã và Nông hội xã chủ tọa để nghiêm khắc cảnh cáo chúng).
b) Khi hòa giải hoặc khi kiểm thảo
trong nội bộ nhân dân, không cần có một hội đồng hòa giải gồm ba ủy viên trong Ủy
ban hoặc một ủy viên và hai hội viên hội đồng nhân dân, hay đại biểu đoàn thể
nhân dân như đã quy định trong Thông tư số 09-NC/TC ngày 13 tháng 3 năm 1952 của
Bộ Nội vụ; đây quan niệm là một cuộc họp không phải là để xét xử mà là để
thân ái, đoàn kết giúp đỡ nhau một việc trong nội bộ nhân dân. Vì vậy tùy từng
trường hợp có thể Chủ tịch, Phó Chủ tịch, hoặc Ủy viên công an phụ trách công
việc tư pháp xã làm chủ tọa cuộc họp, hoặc thêm một hai người nữa làm Chủ tịch
đoàn. Những người này có thể là bí thư Nông hội xã, ủy viên chấp hành Nông hội,
hoặc đại biểu của các đoàn thể nhân dân khác.
c) Trước khi giải quyết một việc
về tư pháp (trừ trường hợp việc quá nhỏ phải có chủ trương chung của Ủy ban
hành chính xã. Chủ tịch, Phó Chủ tịch, hoặc Ủy viên công an phụ trách công việc
tư pháp sẽ nhân danh Ủy ban hành chính xã thực hiện chủ trương đó trong những
cuộc họp gần đó để hòa giải, kiểm thảo trong nội bô nhân dân, hoặc họp để cảnh
cáo những tên địa chủ có phản ứng nhỏ.
d) Cần phải tránh giấy tờ quan
liêu:
- Khi hòa giải hoặc kiểm thảo ở
tổ Nông hội, không cần phải ghi chép giấy tờ gì. Tổ trưởng Nông hội báo cáo miệng
lên Ban chấp hành Nông hội và Ủy ban hành chính xã.
- Khi việc đã đến Ủy ban hành
chính xã, nếu hòa giải hoặc kiểm thảo xong thì cũng không cần phải lập biên bản.
Chỉ khi nào việc không giải quyết xong, cần đưa lên Tòa án nhân dân huyện, thì Ủy
ban hành chính xã lập biên bản để gửi lên Tòa án nhân dân huyện. Biên bản này sẽ
thay báo cáo.
Ở mỗi Ủy ban hành chính xã sẽ có
một quyển sổ để ghi sơ lược những việc tư pháp mà Ủy ban hành chính xã đã giải
quyết (sẽ có mẫu riêng).
5) Chế độ báo cáo và xin chỉ thị
giữa Ủy ban hành chính xã và Tòa án nhân dân huyện:
Trước khi công nhận thuận tình ly
hôn, Ủy ban hành chính xã phải xin ý kiến của Tòa án nhân dân huyện, sau khi
công nhận, Ủy ban hành chính xã cũng lại phải báo cáo cho Tòa án nhân dân huyện
biết. Ngoài ra trong công tác hàng ngày nếu gặp khó khăn gì, Ủy ban hành chính
xã phải báo cáo và xin chỉ thị ngay Tòa án nhân dân huyện.
Những việc hòa giải và kiểm thảo
thuộc phạm vi Ủy ban hành chính xã, Ủy ban hành chính xã phải báo cáo thẳng với
Tòa án nhân dân huyện.
Trong báo cáo hàng tháng của Ủy
ban hành chính xã với Ủy ban hành chính huyện, cần có báo cáo về công việc tư
pháp xã, Tòa án nhân dân huyện cần liên lạc với văn phòng Ủy ban hành chính huyện
xem những báo cáo đó.
3. – Kế hoạch
huấn luyện về mặt tư pháp cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch hoặc Ủy viên công an phụ
trách tư pháp xã
1) Cách tổ chức: Có hai hình thức:
a) Phối hợp với Ty Công an tỉnh
để giảng về tư pháp ở những lớp của Ty Công an mở cho Ủy viên công an xã (nhiều
nơi kiêm tư pháp xã).
b) Ở những nơi Ủy viên công an
không kiêm tư pháp xã, nếu có điều kiện, Tòa án nhân dân tỉnh hoặc Tòa án nhân
dân huyện sẽ lưu động để mở những lớp huấn luyện tập trung cho Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch phụ trách tư pháp xã. Nếu không có điều kiện, Tòa án nhân dân huyện
sẽ đi lưu động mở những lớp huấn luyện nhỏ cho hai hay ba xã lân cận. Trong những
lớp này, có thể mời thêm một số ủy viên chấp hành, tổ trưởng Nông hội, thanh
niên, phụ nữ xã và xóm tham dự.
2) Nội dung huấn luyện:
a) Trường hợp tư pháp mở lớp huấn
luyện riêng:
- Đường lối, chủ trương, tổ chức
và phương pháp hòa giải ở xã.
- Chủ trương kế hoạch kiểm thảo
những việc nhân dân phạm lỗi nhẹ ở xã.
- Đường lối, chủ trương, trấn áp
những phản ứng và những hành động phá hoại của giai cấp địa chủ, của bọn tay
sai của đế quốc và của bọn lưu manh, côn đồ.
- Phương pháp điều tra, thể lệ bắt
người và khám nhà.
- Liên hệ giữa tư pháp xã và Tòa
án nhân dân huyện.
b) Trường hợp tư pháp giảng ở những
lớp huấn luyện Ủy viên công an xã (kiêm tư pháp xã) do Ty công an tỉnh mở;
Vì Công an đã có những bài giảng
về chủ trương, đường lối chung để trấn áp những hành động phá hoại của giai cấp
địa chủ, của bọn phản động tay sai của đế quốc và của bọn lưu manh, côn đồ. Tòa
án nhân dân tỉnh thảo luận trước với ban lãnh đạo lớp huấn luyện để bài giảng của
Công an và của Tòa án không trùng nhau, đồng thời cũng không bỏ sót những điểm
cần thiết mà Tòa án cần phải hướng dẫn cho Ủy viên công an kiêm tư pháp xã.
3) Tài liệu:
Tòa án nhân dân khu phải thảo ra
bài giảng để thống nhất trong toàn khu. Trong khi chờ đợi, nếu cần giảng ngay,
Tòa án nhân dân tỉnh sẽ tự thảo lấy bài giảng, sau đó gửi lên Tòa án nhân dân
khu để báo cáo.
4) Phương pháp huấn luyện:
Cần chú ý:
- Phải xác định cho học viên một
thái độ học tập đúng đắn để tránh cho anh em khỏi coi thường vấn đề, không chú
ý học tập.
- Cần chú ý khêu gợi để anh em
liên hệ tình hình công việc ở xã, tự tìm ra những cái sai cái đúng trong những
công việc mà anh em đã làm về tư pháp xã (chú ý nhiều về mặt lập trường tư tưởng).
5) Sau lớp học:
- Phải căn dặn học viên về báo
cáo với chi ủy và Ủy ban hành chính xã về kết quả của lớp học, sau đó đề nghị với
chi ủy và Ủy ban hành chính xã cho học viên phổ biến cho các trưởng xóm, các tổ
trưởng Nông hội, các phân đoàn trưởng thanh niên, các phân chi trưởng phụ nữ về
những điểm chính trong công tác hòa giải những tranh chấp, kiểm thảo những lỗi
nhỏ trong nhân dân và cảnh cáo những phản ứng nhỏ của giai cấp địa chủ.
- Cán bộ tư pháp huyện phải thường
xuyên xuống xã để giúp đỡ cán bộ xóm giải quyết công việc.
Khi trong huyện có một công tác
lớn (như thu thuế nông nghiệp, cứu đói,v.v…) cán bộ tư pháp huyện phải tự mình
tham gia thực hiện công tác đó ở một xã trọng điểm của phong trào để thấy tình
hình cụ thể về công tác tư pháp kết hợp giúp đỡ xã giải quyết công việc tư
pháp, rút kinh nghiệm và phổ biến những kinh nghiệm đó cho các xã khác trong
huyện.
Khi xuống xã phải đi sâu xuống từng
xóm để tìm hiểu tình hình, giúp đỡ cán bộ xóm, xã giải quyết công việc. Tùy
tính chất của công việc có thể cùng với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, hoặc Ủy viên
công an phụ trách tư pháp xã tổ chức tại xóm những cuộc hòa giải, kiểm thảo hoặc
cảnh cáo địa chủ có phản ứng nhỏ. Mời Ban chấp hành Nông hội, một số tổ trưởng
Nông hội, đại biểu thanh niên, phụ nữ dự những cuộc họp này để qua thực tế công
tác mà thiết thực bồi dưỡng cán bộ. Trong bất cứ trường hợp nào, cần phải khêu
gợi để các cán bộ xã và xóm tự tìm tìm lấy cách giải quyết công việc, có kế hoạch
giáo dục đương sự, vận động nhân dân tham gia các cuộc hòa giải, kiểm thảo hoặc
cảnh cáo địa chủ. Cán bộ tư pháp huyện chỉ tham gia ý kiến khi anh em có những
ý kiến lệch lạc. Sau mỗi phiên họp, cần họp với các cán bộ xã và xóm để rút
kinh nghiệm.
SỔ ĐỂ GHI NHỮNG VIỆC TƯ PHÁP CỦA UỶ BAN HÀNH CHÍNH XÃ
Số
thứ
tự
|
Ngày
tháng nhận đơn
|
Họ,
tên, tuổi, thành phần và chỗ ở của người đi kiện
|
Họ,
tên, tuổi, thành phần và chỗ ở của người bị kiện
|
Kiện
về việc gì?
|
U.B.H.C.
xã đã giải quyết ra sao?
|
CƯỚC
CHÚ
|
(1)
|
(2)
|
(3)
|
(4)
|
(5)
|
(6)
|
(7)
|
|
|
|
|
|
|
|