BỘ
Y TẾ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
20-BYT/TT
|
Hà
Nội , ngày 30 tháng 08 năm 1960
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 462 NGÀY 30-8-1960 VỀ QUY
CHẾ THUỐC ĐỘC
Kính gửi:
|
- Ủy ban hành chính các khu,
thành phố, tỉnh
- Các ông Giám đốc Khu, Sở Y tế
- Các ông Trưởng ty Y tế,
- Các ông Giám đốc các Viện nghiên cứu, bệnh viện Trung ương, Trường Đại học
Y dược, Trường Cán bộ Y tế, xí nghiệp Dược phẩm và Quốc doanh Y-Dược phẩm.
|
Bộ đã có một số văn bản quy định
về chế độ bảo quản, sử dụng, cấp phát, kê đơn và pha chế thuốc độc. Việc áp dụng
ở các đơn vị so với trước đã có tiến bộ nhưng nhiều nơi chưa thật rõ tầm quan
trọng của công tác này, nên chưa thi hành đầy đủ, và có nơi đã để xảy ra nhầm lẫn
thuốc có hại cho bệnh nhân.
Để khắc phục tình trạng nói
trên, Bộ ban hành quy chế thuốc độc nhằm mục đích:
a) Xác định rõ hơn nữa tầm quan
trọng của việc quản lý thuốc độc và trách nhiệm của cán bộ y tế, dược trong
công việc đó. Người cán bộ y tế, y cũng như dược luôn luôn tiếp xúc với thuốc
men nên cần thường xuyên trau dồi một tác phong thận trọng, chính xác, tỷ
mỷ, khắc phục mọi khó khăn để triệt để triệt để chấp hành quy chế, chống lối
làm ẩu, đại khái, ngại khó là nguyên nhân gây ra tai nạn đối với bệnh nhân.
b) Bước đầu xây dựng một số quy
định về thuốc độc Đông dược để tiến tới một quy chế đầy đủ hơn.
Sau đây Bộ lưu ý các đơn vị về một
số điểm trọng yếu thuộc nội dung quy chế để việc chấp hành được đầy đủ.
I. PHÂN LOẠI THUỐC ĐỘC
Trước đây, việc phân loại thuốc
độc mỗi nơi áp dụng một khác, nơi thì sắp xếp theo dược thư Pháp gồm 3 bảng: A
(độc), B (độc gây nghiện), C (nguy hiểm), nơi lại xếp theo 2 bảng độc, mạnh như
quy chế của Liên xô. Thuốc Đông trước đây cũng đã được phân loại thành thuốc độc
nhưng chưa được đầy đủ, nên cần phải bổ sung.
Căn cứ vào trình độ chuyên môn của
cán bộ, vào việc Nhà nước đã quản lý toàn bộ hệ thống sản xuất và phân phối, đồng
thời để tiện cho việc trao đổi thuốc men giữa nước ta với nước bạn trong phe xã
hội chủ nghĩa. Bộ thấy cần chia thuốc độc Đông và Tây ra làm 2 bảng:
Bảng A: Gồm những thuốc độc
hơn hết trong đó có một số thuốc độc gây nghiện (thuốc tây).
Bảng B: Gồm những thuốc
tuy không độc bằng loại A, nhưng có thể gây tai nạn ngộ độc, nên xếp vào bảng
thuốc “nguy hiểm”.
Những vụ tai nạn xảy ra thường
là những thuốc thuộc về hai bảng này, nên nơi nào có những thuốc đó thì đều phải
sắp xếp theo các điều khoản của quy chế.
II. NHÃN THUỐC
Nhãn thuốc là một vấn đề mấu chốt
để chống nhầm lẫn về thuốc men. Do đó nhãn thuốc cần có màu sắc riêng biệt
thích hợp và thể hiện được: tính chất độc của thuốc, nồng độ, lượng thuốc,
cách dùng, những điểm cần ghi nhớ khi dùng, v.v…
Căn cứ vào những đặc điểm đó,
nên đối với thuốc bảng A là thuốc độc hơn hết thì dùng nhãn trắng có khung màu
đen và dấu hiệu “đầu lâu hai xương chéo”. Dấu hiệu này tượng trưng cho sự nguy
hiểm chết người. Màu đen có tính chất đặc biệt nên làm cho người pha chế cũng
như người dùng thuốc dễ chú ý hơn và hiện nay ta cũng bắt đầu quen dùng làm màu
tang. Bảng B: thuốc nguy hiểm, nhãn trắng có khung màu đỏ máu, kèm theo chữ
“nguy hiểm”, còn đối với thuốc thường thì dùng nhãn màu trắng.
Cách trình bày cũng có sự phân
biệt để nhắc nhở thêm như đối với thuốc nguyên chất hoặc dung dịch đậm đặc,
nhãn có khung đen hay đỏ; thuốc đã pha chế để dùng trực tiếp cho bệnh nhân,
nhãn có thêm một gạch đen hoặc đỏ; thuốc dùng ngoài có thêm viền vàng (màu
đen), thuốc nhỏ mắt có dấu hiệu “con mắt và ống nhỏ giọt”,v.v…
Do tính chất quan trọng nói trên
nên trong bất cứ một trường hợp nào, thuốc Đông hay Tây, nhãn thuốc cần phải được
trình bày thống nhất như quy chế để luôn luôn nhắc nhở cán bộ y, và dược phải
lưu ý khi trực tiếp với thuốc men và cũng dần dần gây thành tập quán đối với bệnh
nhân để khỏi dùng nhầm thuốc.
III. CHẾ ĐỘ BẢO QUẢN, CẤP PHÁT, SỔ SÁCH VÀ KÊ ĐƠN
Do tính chất độc nên việc bảo quản,
cấp phát, pha chế các thuốc bảng A, B phải được đề cao hơn một mức, vì nếu
không, chỉ một sự vô ý nhỏ trong khi cấp phát hoặc pha chế là có thể gây
ra hàng loạt người bị ngộ độc. Do đó những đơn vị có dược sĩ thì dược sĩ phải
trực tiếp phụ trách tủ thuốc độc về bảo quản, xuất nhập, pha chế, chỉ những khi
vắng mặt mới được ủy nhiệm cho người khác tạm thay.
Những nơi không có dược sĩ thì
phải chỉ định một dược tá khá để chuyên trách và chịu trách nhiệm xuất nhập tủ
thuốc độc. Thủ trưởng chuyên môn của đơn vị là người hiểu biết nhiều chuyên môn
hơn, nên phải chịu trách nhiệm trực tiếp với dược tá đó về việc quản lý thuốc độc,
nhất là việc xét duyệt cấp phát.
Việc giữ sổ sách, chứng từ rõ
ràng, chính xác, kịp thời và đầy đủ là đảm bảo cho việc quản lý thuốc độc được
tốt, do đó cần phải chống lối làm việc đại khái, tùy tiện, linh động vô nguyên
tắc.
Việc kê đơn thuốc thận trọng, rõ
ràng là biểu hiện tinh thần trách nhiệm đối với bệnh nhân. Người kê đơn
phải theo đúng thủ tục đã quy định, đơn kê phải rõ ràng để người pha chế và bệnh
nhân dễ hiểu và không nhầm, vì chỉ ghi sai một nét bút, một dấu phẩy, là đã có
thể nguy hại đến bệnh nhân tránh lối cẩu thả và một số người hiện nay còn mắc
phải như viết tắt, viết khó đọc, viết công thức hóa học, những danh từ bằng chữ
nước ngoài.
Trong những trường hợp danh từ
tiếng Việt đã dùng một cách phổ thông, v.v…
IV. KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH
Bộ đề nghị nhận được Thông tư
này, Ủy ban, Khu, Sở, Ty và các đơn vị đặt kế hoạch để đến hết tháng 11-1960 đã
thực hiện xong cho tất cả các cơ sở có thuốc Tây, thuốc Nam, thuốc Bắc thuộc hệ
thống y tế, thương nghiệp và tư nhân.
Trong lúc thực hiện, các cấp và
các đơn vị cần chú ý những vấn đề sau đây:
1. Đầu năm nay, Bộ đã có những
chỉ thị về việc chấn chỉnh quản lý thuốc độc, có nhiều đơn vị vừa làm xong
nhưng đợt trước đây chỉ là sơ bộ chấn chỉnh, còn quy chế lần này toàn diện, cụ
thể và thống nhất hơn, nên cần chống tư tưởng ngại khó trong cán bộ nhân viên và
tất cả các đơn vị đều phải tổ chức học tập quy chế này cho cán bộ lãnh đạo và
cán bộ, nhân viên chuyên môn y cũng như dược để áp dụng quy chế mới được dễ
dàng, không phải chỉ riêng đợt này mà từ nay về sau việc quản lý thuốc độc cũng
còn phải được tiếp tục bổ sung và nâng cao cho ngày càng hoàn hảo.
2. Quy chế này có quy định thêm
nhiều điểm mới, do đó có thể có những điểm khác với các quy định trước đây của
Bộ hay của đơn vị hoặc trái với thói quen của cán bộ, nhân viên từ trước đến
nay nên sau khi học tập xong phải kiên trì đấu tranh để thực hiện cho thành nề
nếp.
3. Chú ý giải quyết các phương
tiện cho cơ sở như kinh phí để mua sắm, tủ, khóa, in nhãn, sổ sách, v.v… để có
đủ điều kiện thi hành quy chế.
4. Quy chế này nhằm áp dụng nhiều
cho các cơ sở điều trị, sản xuất và phân phối thuốc men, Bộ đang nghiên cứu quy
chế thích hợp cho các viện nghiên cứu, kiểm nghiệm và trường, trong lúc chờ đợi
quy chế đó các viện và trường cần phải áp dụng các điều khoản thích hợp của quy
chế này vào đơn vị mình.
Bộ đề nghị các Khu, Sở, Ty, các
đơn vị sẽ tiến hành và tổng kết vấn đề này vào báo cáo toàn năm 1960 và, trong
lúc thi hành, nếu thấy có những điểm nào cần bổ sung hoặc sửa đổi, thì một mặt
báo cáo lên Bộ để nghiên cứu, một mặt vẫn phải thi hành như quy chế đã ấn định.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Bác sĩ: Phạm Ngọc Thạch
|