BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
46-TT
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 10 năm 1962
|
THÔNG TƯ
VỀ CẢI TIẾN, VÀ SỬA ĐỔI CHẾ ĐỘ CÔNG TÁC CỦA GIÁO VIÊN, HIỆU TRƯỞNG
CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG, SƯ PHẠM, BỔ TÚC VĂN HOÁ CÁC CẤP
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ CÔNG TÁC TỪ TRƯỚC ĐẾN NAY CỦA GIÁO VIÊN CÁC CẤP:
1. Những quy định về chế
độ công tác của giáo viên, Hiệu trưởng các trường phổ thông, Sư phạm, Bộ túc văn
hoá các cấp tại các Nghị định số 28-NĐ ngày 08-05-1956 và số 1332-NĐ ngày
21-11-1956 của Bộ ban hành đã có tác dụng nhất định trong việc xây dựng nề nếp
chế độ công tác của giáo viên. Qua bảy năm thực hiện, những quy định trên, đứng
về mặt phân phối lao động trong giảng dạy về căn bản số giờ lên lớp vẫn còn phù
hợp với tình hình, đặc điểm, tổ chức các cơ sở và vẫn thích hợp với khả năng,
hoàn cảnh của đại đa số giáo viên các cấp hiện nay.
2. Trước yêu cầu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trước nhiệm vụ giáo dục ngày càng phát triển, ngành giáo
dục cần ra sức nâng cao chất lượng toàn diện, phát triển mạnh có kế hoạch về số
lượng, mỗi đơn vị trường, mỗi người giáo viên cần ra sức thi đua nâng cao năng
suất lao động, tạo những điều kiện cơ bản bảo đảm chức năng và vị trí nhà trường
xã hội chủ nghĩa, vai trò của người giáo viên nhân dân. Điều đó cần thể hiện
qua chế độ công tác của giáo viên trên nguyên tắc cải tiến mọi mặt sinh hoạt hội
họp học tập nhất là cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy.
3. Do sự trưởng thành của
ngành giáo dục, do yêu cầu xây dựng một đội ngũ giáo viên vững mạnh đảm đương
các môn chính khoa phục vụ chương trình giáo dục, giáo dưỡng ngày càng hoàn chỉnh,
phục vụ nhu cầu Bổ túc văn hoá cho cán bộ các ngành và hợp tác xã, cần bổ sung
quy định thêm chế độ công tác của giáo viên các cấp trên nguyên tắc bảo đảm chức
năng, nhiệm vụ của họ và tương quan giữa giáo viên này với giáo viên khác.
II. NHIỆM VỤ
VÀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA NHÀ TRƯỜNG VÀ GIÁO VIÊN:
1. Vị trí của nhà trường xã hội chủ nghĩa:
a) Là nơi đào tạo thế hệ thanh
thiếu nhi, thành những người công dân tốt sau này phục vụ đắc lực cho Tổ quốc.
b) Là trung tâm nghiên cứu, phổ
biến và áp dụng khoa học kỹ thuật của địa phương, bồi dưỡng kiến thức văn hoá và
khoa học kỹ thuật cho cán bộ các ngành và hợp tác xã.
c) Là lực lượng giúp đỡ địa
phương để đẩy mạnh sản xuất và đấu tranh chính trị.
2. Nhiệm vụ chủ yếu của người giáo
viên:
a) Lên lớp giảng dạy và giáo dục
cùng những khâu công tác phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy và giáo dục.
- Soạn bài, chấm bài;
- Phụ đạo, tổ chức ngoại khoá
cho học sinh và tuỳ theo sự phân công, chịu trách nhiệm về các mặt hoạt động và
phong trào trong nhà trường;
- Quản lý học sinh về mọi mặt,
theo dõi sự tiến bộ của học sinh;
- Liên hệ với các đoàn thể và phụ
huynh học sinh để phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và các đoàn thể;
- Tham gia quản lý lãnh đạo xây
dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa;
- Chấm thi, coi thi, sơ kết học
kỳ, tổng kết năm học.
b) Dạy hàm thụ, Bổ túc văn hoá,
Khoa học kỹ thuật cho cán bộ địa phương.
c) Học tập chính trị, văn hoá,
nghiệp vụ, thường xuyên đúc rút kinh nghiệm, cải tiến nội dung phương pháp giảng
dạy.
d) Công tác lao động và liên hệ
với thực tế xã hội.
đ) Nghiên cứu, phổ biến áp dụng
khoa học kỹ thuật giúp đỡ địa phương.
Ngoài ra giáo viên còn phải tham
gia các mặt công tác với địa phương trong một chừng mực nhất định. Mỗi giáo
viên còn có trách nhiệm tuyên truyền giải thích chủ trương chính sách của Đảng
và Chính phủ.
B. PHƯƠNG HƯỚNG CẢI TIẾN
CHẾ ĐỘ CÔNG TÁC
1. Bước đầu cải tiến sửa
đổi những quy định cụ thể xét ra chưa hợp lý đối với chế độ công tác đã có hoặc
quy định thêm những điểm mới cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện tại, tạo những điều kiện cần thiết để tiến tới xây dựng một chế độ công
tác hoàn chỉnh hơn, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cải cách giáo dục trong toàn
ngành sau này.
2. Tích cực phấn đấu thực
hiện nghiêm chỉnh và có sáng tạo chế độ sinh hoạt, hội họp, học tập, do Bộ ban
hành tại Quyết định số 847-QĐ ngày 06-12-1961 theo tinh thần Quyết định số
76-CP ngày 24-05-1961 của Phủ Thủ tướng nhằm bảo đảm cho nhà trường làm tốt nhiệm
vụ của mình, dành thì giờ tối đa cho việc giáo dục và giảng dạy (ở trường
phổ thông và các lớp Bổ túc văn hoá hoặc hàm thụ), nghiên cứu khoa học kỹ thuật
đồng thời đảm bảo cho người giáo viên có thì giờ nghỉ ngơi, sinh hoạt với gia
đình, giữ gìn sức khoẻ tốt để phục vụ lâu dài.
3. Tạo mọi điều kiện để
các cấp uỷ, chính quyền địa phương nhất là các cấp cơ sở cảm thông đầy đủ chức
năng chủ yếu của nhà trường, của người giáo viên các cấp. Trên cơ sở đó các cơ
quan đoàn thể có thẩm quyền lãnh đạo giáo dục cho cân đối, Công đoàn phân phối
công tác cho hợp lý đồng thời tạo điều kiện cho nhà trường, giáo viên làm tốt
chức năng nhiệm vụ của họ trong công cuộc đào tạo thế hệ trẻ, Bổ túc văn
hoá cho cán bộ địa phương nhằm phục vụ yêu cầu sản xuất, yêu cầu cách mạng trước
mắt và lâu dài.
C. CÁC QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ
CHẾ ĐỘ CÔNG TÁC
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
nhà trường xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của người giáo viên nhân dân và căn cứ
vào phương hướng cải tiến chế độ công tác đã nêu trên, Bộ quy định chế độ sinh
hoạt, hội họp học tập và chế độ lên lớp giảng dạy ở trường, dạy hàm thụ, Bổ túc
văn hoá như sau:
I. CHẾ ĐỘ
SINH HOẠT HỘI HỌP HỌC TẬP:
Nói chung thì
giờ làm các công tác và giảng dạy của người giáo viên cũng như cán bộ công nhân
viên chức Nhà nước, thực hiện trong 48 giờ một tuần. Cụ thể quy định:
1. Những công tác làm trong
giờ chính quyền:
- Họp Hội đồng nhà trường, họp
chuyên môn, hội nghị cán bộ, công nhân viên chức theo luật công đoàn;
- Công tác nội ngoại khoa trong
trường, dạy Bổ túc văn hoá, soạn chấm bài lên lớp giảng dạy hướng dẫn lao động;
- Học tập chính trị một buổi
trong tuần, học tập chuyên môn nghiệp vụ mỗi tháng hai buổi.
2. Những công tác làm ngoài
giờ chính quyền:
- Sinh hoạt Đảng và các đoàn thể;
- Học tập văn hoá, chính trị
(không kể một buổi học chính trị đã có quy định trong giờ chính quyền).
- Lao động xã hội chủ nghĩa và các
mặt hoạt động vui trẻ khoẻ trong trường (tổ chức vào ngày chủ nhật).
Để hợp lý hoá chế độ sinh hoạt,
học tập cần được phân phối như sau:
- Họp Hội đồng nhà trường mỗi
tháng một lần từ 2 đến 3 giờ;
- Họp tổ chuyên môn ở cấp II,
III và họp khối ở cấp I mỗi tháng từ 2 đến 3 giờ;
- Họp với chủ nhiệm hoặc cán bộ
phụ trách các mặt công tác trong trường mỗi tháng một lần một buổi;
- Học tập chính trị mỗi tuần một
buổi, một tối;
- Học tập chuyên môn, nghiệp vụ
hai tuần một buổi;
- Sinh hoạt Đảng và các đoàn thể
mỗi tuần một tối.
Trừ những buổi sinh hoạt kể trên
ra những buổi khác trong giờ chính quyền dành cho giáo viên lên lớp giảng dạy,
soạn bài chấm bài, giáo dục lao động kỹ thuật, công tác ngoại khoa phục vụ cho
giảng dạy, nghiên cứu phổ biến khoa học, công tác chủ nhiệm, công tác phụ huynh
học sinh, công đoàn, đội… trung bình phải dành cho các khâu này 10 buổi trong một
tuần. Các buổi tối khác (trừ hai tối kể trên) dành cho giáo viên tự học tập và
nhất thiết phải dành hẳn cho giáo viên để nghỉ ngơi giải trí, sinh hoạt với gia
đình trong hai tối và cả ngày chủ nhật để đảm bảo sức khoẻ phục vụ công
tác lâu dài. Hội họp buổi tối không được kéo dài quá 21 giờ 30.
Như vậy là ngoài giờ lên lớp giảng
dạy chính thức còn có những công tác khác phục vụ trực tiếp cho giảng dạy chiếm
một số lớn thì giờ nên cần phải bố trí thì giờ sinh hoạt hội họp cho thật hợp
lý. Phân công cho thật khoa học giữa các giáo viên trong trưởng. Đối với những
giáo viên dạy lâu năm, việc soạn, chấm bài không đòi hỏi nhiều thì giờ và những
giáo viên ít khả năng nghiên cứu phổ biến khoa học kỹ thuật thì được phân công
tỷ lệ nhiều hơn so với giáo viên mới bước vào nghề hoặc nhiều việc kiêm nhiệm.
II. CHẾ ĐỘ
LÊN LỚP CỦA GIÁO VIÊN.
Trong bước đầu cải tiến, chúng
ta chưa phân biệt số giờ lên lớp của từng môn học. Tất cả giáo viên đều có nhiệm
vụ dạy Bộ túc văn hoá từ 2 giờ đến 6 giờ mỗi tuần (có phụ cấp). Nếu chưa dạy đủ
số giờ tiêu chuẩn sau đây thì phải dạy thêm Bổ túc văn hoá cho đủ số giờ tiêu
chuẩn (không có phụ cấp).
1. Giáo viên Trường phổ thông
không có nội trú:
Chung cho tất cả các giáo viên dạy
văn hoá, chính trị, ngoại ngữ, Thể dục thể thao, Nhạc họa, Kỹ thuật Công nông
nghiệp (kể cả kiêm nhiệm nhiều môn khác nhau), số giờ lên lớp giảng dạy sẽ ấn định
như sau:
- Cấp I: Dạy đủ số giờ tối
đa ấn định trong thời khoá biểu hàng tuần của một lớp mình phụ trách.
- Cấp II: Dạy học mỗi tuần
là 18 giờ.
- Cấp III: Dạy học mỗi tuần
là 16 giờ.
Tất cả các loại giáo viên phải đảm
bảo dạy đủ số giờ tiêu chuẩn tối đa trên, nếu dạy quá số giờ đó mới được hưởng phụ
cấp dạy thêm giờ.
Tất cả giáo viên đều có nhiệm vụ
dạy Bổ túc văn hoá và tham gia các mặt công tác trong trường. Đối với một
số giáo viên mới được đào tạo gần đây, Nhà trường cần chú ý phân công hợp lý để
phù hợp với khả năng của họ. Thí dụ:
- Giáo viên chính trị:
Giúp nhà trường lãnh đạo tư tưởng,
đức dục, thi đua, sinh hoạt chính trị, báo cáo thời sự trong toàn trường.
- Giáo viên Ngoại ngữ:
Giúp cho việc tổ chức học tập
ngoại ngữ, biên dịch các tài liệu tham khảo về giáo dục cho giáo viên và cán bộ
công nhân viên trong trường. Nếu dạy ngoại ngữ cho giáo viên và cán bộ công
nhân viên trong trường thì được cộng vào số giờ dạy Bổ túc văn hoá.
- Giáo viên Thể dục thể thao:
Phụ trách phong trào vui trẻ,
khoẻ, thể dục vệ sinh trong trường. Tổ chức cắm trại, tổ chức và huấn luyện các
đội bóng, tổ chức vận động điền kinh v.v…
- Giáo viên Nhạc hoạ:
Phụ trách phong trào văn nghệ,
triển lãm, trang trí, phối hợp với các giáo viên dạy Văn hướng dẫn học sinh
trình bày báo tường báo liếp, nội san và phối hợp với giáo viên thể dục thể
thao, về công tác vui trẻ, khoẻ trong trường.
- Giáo viên kỹ thuật Công
Nông nghiệp:
Phụ trách lao động chung toàn
trường, liên hệ với các cơ sở sản xuất cơ sở hợp tác xã ở địa phương, chịu trách
nhiệm về việc bố trí, tổ chức trang bị cho những vườn trường, xưởng trường,
công tác với giáo viên Địa lý, Sinh vật để tổ chức vườn địa lý, vườn thực động
vật v.v… ở trong trường.
2. Giáo
viên trường Sư phạm, Bổ túc văn hoá tập trung:
Chung cho tất cả các loại giáo
viên dạy văn hoá, chính trị, giáo dục học, Thể dục thể thao, Nhạc họa, Kỹ thuật
Công Nông nghiệp (kể cả giáo viên kiêm nhiệm nhiều môn khác nhau) số giờ lên lớp
ấn định như sau:
- Cấp I Bổ túc văn hoá dạy
học mỗi tuần là 17 giờ;
- Cấp III Bổ túc văn hoá hay Sư
phạm cấp I dạy học mỗi tuần là 16 giờ;
- Cấp III Bổ túc văn hoá hay Sư
phạm cấp II dạy học mỗi tuần là 14 giờ;
Tất cả các loại giáo viên phải đảm
bảo đầy đủ số giờ tối đa kể trên, nếu dạy quá số giờ đó mới được hưởng phụ cấp
dạy thêm giờ.
Cũng như ở các trường Phổ thông
giáo viên chính trị, Thể dục thể thao, Nhạc họa, Kỹ thuật Công Nông nghiệp ở
trường Sư phạm và Bổ túc văn hoá tập trung cần được phân công các nhiệm vụ cụ
thể như đã nói ở điều 1. Riêng giáo viên giáo dục học có nhiệm vụ bồi dưỡng
giáo dục học cho giáo viên và nên dạy một số giờ ở các môn văn hoá khác (Toán,
Văn v.v…) ở trường Sư phạm hay trường Phổ thông lân cận để rút kinh nghiệm
nghiên cứu thực tế phổ thông.
Bị chú:
1. Giáo viên ở tất cả các
loại trường nói trên đây ở các môn trong thời gian tập sự nếu nhà trường có thể
bố trí được mà không cần tăng thêm giáo viên thì nên rút bớt mỗi tuần lễ từ 1 đến
2 giờ lên lớp tuỳ theo tình hình số lượng thiếu đủ giáo viên trong trường. Số
giờ được rút bớt nhằm đảm bảo cho họ có thì giờ tự bồi dưỡng thêm về chuyên
môn, nghiệp vụ. Nếu vì thiếu giáo viên mà phải phân công dạy bằng số giờ của
giáo viên cũ thì cũng chỉ được hưởng phụ cấp thêm giờ nếu phải dạy quá số giờ
tiêu chuẩn của giáo viên cũ.
2. Riêng đối với trường Bổ
túc văn hoá tập trung thực hiện theo chế độ lên lớp mỗi tiết là 60 phút thì những
giáo viên này dạy 60 phút một tiết được rút bớt một giờ lên lớp mỗi tuần. Những
giáo viên dạy ở các môn không bố trí chương trình dạy 60 phút một tiết thì vẫn
áp dụng như đã ấn định chung cho các trường Bổ túc văn hoá.
3. Giáo viên trường nội
trú, học sinh miền Nam và trường Phổ thông có nội trú ở miền núi: Bộ sẽ có
thông tư quy định riêng.
III. CHẾ ĐỘ
LÊN LỚP CỦA HIỆU TRƯỞNG HIỆU PHÓ:
Hiệu trưởng và Hiệu phó ở tất cả
các loại trường có trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt trong trường nên cần phải bớt một
số giờ lên lớp để có thì giờ làm nhiệm vụ. Tuy nhiên mặc dù có nhiều lớp,
nguyên tắc chung là Hiệu trưởng, Hiệu phó không được thoát ly giảng dạy để đảm
bảo yêu cầu đi sát chuyên môn lãnh đạo được tốt. Việc bớt thì giờ lên lớp cho
Hiệu trưởng, Hiệu phó để làm một phần công việc sự vụ hành chính nhưng chủ yếu
là để đi dự lớp rút kinh nghiệm nhận xét ưu khuyết điểm của từng giáo viên.
Nguyên tắc chung là mỗi giáo viên trong trường mỗi tháng phải được Hiệu trưởng,
Hiệu phó phân công đến dự lớp ít nhất là 1 giờ.
1. Hiệu trưởng trường phổ
thông không có nội trú.
a) Trường phổ thông cấp I
Nếu
trường có
|
Hiệu trưởng
|
- Từ 1 đến 4 lớp
|
- Dạy đủ số giờ ấn định trong thời
khoá biểu hàng tuần của lớp mà hiệu trưởng phụ trách
|
- Từ 5 – 8 lớp
|
- Được rút bớt mỗi tuần là 1
buổi
|
- Từ 9 – 12 lớp
|
- Được rút bớt mỗi tuần là 2
buổi
|
- Từ 13 lớp trở lên
|
- Dạy học mỗi tuần là 2 buổi
|
b) Trường phổ thông cấp
II, III.
- Trường có 2 lớp, Hiệu trưởng dạy
đủ số giờ tối đa hàng tuần đã quy định cho giáo viên trong trường;
- Trường có 3 lớp Hiệu trưởng được
rút 3 giờ lên lớp mỗi tuần và cứ thêm 1 lớp được rút thêm 1 giờ nữa;
- Trường có từ 12 lớp trở lên,
Hiệu trưởng dạy 3 giờ một tuần.
c) Trường phổ thông ghép cấp
I với cấp II hay cấp III, II với cấp III
- Hiệu trưởng (và Hiệu phó) hưởng
theo chế độ của cấp học trên nếu cấp học trên có đủ tới lớp cuối cấp (lớp 7,
10). Nếu chưa có đủ tới lớp cuối cấp thì phải có từ 3 lớp trở lên ở cấp học
trên mới được hưởng theo chế độ của cấp học trên.
2. Hiệu trưởng
trường Sư phạm cấp I, II.
- Nếu trường có 2 lớp, Hiệu trưởng
được rút bớt một tuần là 6 giờ lên lớp so với giáo viên và cứ thêm 1 lớp được
rút bớt thêm 1 giờ nữa;
- Nếu trường có từ 8 lớp trở lên
Hiệu trưởng dạy mỗi tuần là 2 giờ.
3. Hiệu trưởng trường Bổ túc
văn hoá tập trung các cấp.
- Nếu trường có 2 lớp, Hiệu trưởng
được rút bớt mỗi tuần là 4 giờ lên lớp mỗi tuần so với giáo viên và cứ thêm 1 lớp
được rút bớt thêm 1 giờ nữa.
- Nếu trường có từ 10 lớp trở
lên Hiệu trưởng trường dạy mỗi tuần là 2 giờ.
4. Hiệu trưởng trường nội trú
học sinh miền Nam và trường phổ thông có nội trú ở miền núi.
Sẽ có thông tư quy định riêng.
5. Hiệu phó
ở tất cả các loại trường trên.
Hiệu phó ở tất cả các trường phổ
thông, sư phạm, Bổ túc văn hoá tập trung các cấp được rút bớt một số giờ lên lớp
hàng tuần bằng nửa số giờ mà Hiệu trưởng được rút bớt. Nếu số giờ tính ra lẻ
thì nâng lên thành 1 giờ.
- Đối với các trường lớp, công tác
lãnh đạo có nhiều khó khăn, các Khu, Sở, Ty Giáo dục có thể quyết định rút bớt
thêm giờ cho Hiệu phó từ 1 đến 2 giờ nữa;
- Trường hợp Hiệu trưởng đi vắng
từ nửa tháng trở lên hay trường chỉ có 1 Hiệu phó hoặc 1 đồng chí phụ trách trường
thì được hưởng theo chế độ công tác như Hiệu trưởng.
IV. CHẾ ĐỘ
KIÊM NHIỆM CÁC MẶT CÔNG TÁC.
1. Giáo
viên chủ nhiệm lớp:
Giáo viên chủ nhiệm lớp có nhiệm
vụ theo dõi tình hình học sinh về mọi mặt, đi sát các đoàn thể và phụ huynh học
sinh, lãnh đạo học sinh thực hiện mọi chủ trương của nhà trường đề ra và nên được
rút bớt 2 giáo viên giờ lên lớp mỗi tuần để làm nhiệm vụ. Chế độ này áp dụng
chung cho các loại trường trên (trừ trường nội trú học sinh miền Nam và các trường
phổ thông có nội trú ở miền núi sẽ quy định riêng).
2. Giáo
viên tổ trưởng; chuyên môn:
Tổ trưởng các tổ chuyên môn có từ
ba giáo viên trở lên được rút bớt một giờ lên lớp mỗi tuần. Nhóm chuyên môn
không được bớt.
3. Giáo viên làm công tác
giáo vụ trường:
- Đối với một số trường lớn,
giáo viên kiêm phụ trách giáo vụ chung dạy số giờ tương đương với Hiệu phó.
4. Giáo viên phụ trách phòng
thí nghiệm:
- Giáo viên chuyên trách phòng
thí nghiệm ở một số trường lớn thì được miễn dạy và làm việc theo chế độ giờ
hành chính (mỗi ngày 8 giờ).
- Những giáo viên vừa giảng dạy
vừa kiêm phụ trách phòng thí nghiệm chung được rút bớt từ 3 đến 5 giờ tuỳ theo
khối lượng công tác của phòng thí nghiệm và tuỳ theo phòng có phụ tá hay không
có phụ tá. Nếu phòng thí nghiệm chia theo từng bộ môn riêng (lý, hoá, sinh vật)
thì mỗi giáo viên phụ trách phòng thí nghiệm của từng bộ môn ấy được rút bớt mỗi
tuần lễ 2 giờ.
Bị chú: Những giáo viên dạy
ở các môn Lý, Hoá, Sinh vật không được rút bớt giờ lên lớp trừ trường hợp được
phân công kiêm phụ trách phòng thí nghiệm. Việc làm của họ ở phòng thí nghiệm
là trách nhiệm làm cho việc lên lớp được tốt và coi như việc làm để hoàn chỉnh
bài giảng của mình.
5. Giáo
viên phụ trách lao động chung:
Trừ giáo viên dạy môn kỹ thuật
nông nghiệp chịu trách nhiệm chính về lao động chung toàn trường, các giáo viên
khác nếu được phân công phụ trách từng bộ môn lao động như: tổ rèn, tổ mộc, tổ
nữ công v.v… thì cứ 2 giờ hướng dẫn học sinh thực hành lao động kỹ thuật trong
xưởng trường, vườn trường tính bằng một giờ lên lớp (không kể số giờ lao động
hàng tuần cùng với học sinh tham gia lao động sản xuất ra của cải vật chất hoặc
lao động với hợp tác xã địa phương, xây dựng trường sở v.v… không nằm trong
chương trình nội khoa).
6. Giáo
viên phụ trách các đoàn thể:
Giáo viên giữ chức Bí thư chi bộ
hay Đảng bộ nhà trường và thư ký công đoàn cơ sở được rút bớt mỗi tháng 4 giờ để
làm nhiệm vụ công tác. Nếu là Hiệu trưởng, Hiệu phó kiêm nhiệm thì không được bớt.
Các giáo viên kiêm nhiệm tổng phụ
trách Đoàn, Đội trong trường được rút bớt mỗi tuần là 2 giờ lên lớp. Nếu trường
quá đông, việc lãnh đạo có nhiều khó khăn, các Khu, Sở, Ty, Phòng giáo dục có
thể quyết định rút bớt thêm từ 1 đến 2 giờ nữa.
D. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
CẦN ĐƯỢC THỰC HIỆN NGHIÊM CHỈNH VÀ CÓ SÁNG TẠO TẠI CÁC CẤP GIÁO DỤC NHẰM BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN CHỦ ĐỘNG CÔNG TÁC TRÊN ĐÂY:
Qua thực tế thực hiện chế độ
công tác đối với nhà trường giáo dục phổ thông cũng như các trường Sư phạm Bổ
túc văn hoá các cấp trong những năm qua, muốn bảo đảm tốt việc thực hiện chế độ
công tác theo phương hướng và những quy định cụ thể trên đây, các cấp giáo dục,
nhất là các đơn vị trường cần nghiên cứu vận dụng vào thực tế tình hình, hoàn cảnh
từng nơi, những biện pháp chủ yếu sau đây:
1. Tổ chức nghiên cứu cho
toàn thể giáo viên các cấp, các loại tại các cơ sở giáo dục nội dung thông tư
này và coi đó là pháp chế trong nhà trường phải được tôn trọng thực hiện, rút
kinh nghiệm góp phần xây dựng chế độ công tác ngày càng hoàn chỉnh hơn.
2. Các Vụ phụ trách chỉ đạo
nghiệp vụ giáo dục Phổ thông, Sư phạm, Bổ túc văn hoá, các cơ quan tổ chức cán
bộ, thanh tra, các cơ quan giáo dục Khu, Sở, Ty, Phòng, Trường đều có trách nhiệm
hướng dẫn đôn đốc theo dõi trong phạm vi quyền hạn của mình, việc thực hiện những
quy định cụ thể về chế độ sinh hoạt hội họp, học tập trong Quyết định số 847-QĐ
ngày 06-12-1961 của Bộ và chế độ công tác trên đây. Trên cơ sở ấy, biểu dương
khen thưởng những đơn vị, cá nhân có ý thức, có sáng tạo góp phần tích cực việc
thực hiện chế độ sinh hoạt hội họp, học tập và chế độ công tác đồng thời giúp đỡ
uốn nắn phê bình hoặc có những hình thức kỷ luật thích đáng đối với những đơn vị,
cá nhân cố ý không tôn trọng, vi phạm và thực hiện sai trái hoặc cố ý không thực
hiện chế độ công tác, sinh hoạt hội họp, học tập đã quy định.
3. Theo
sự phân cấp quản lý, các cấp giáo dục từ trung ương, Khu, Sở, Ty, Phòng có nhiệm
vụ duyệt việc phân phối giờ cho các loại giáo viên, Hiệu trưởng, Hiệu phó. Việc
duyệt giờ phân phối trực tiếp giảng dạy rút bớt giờ phải được tiến hành một
cách đúng đắn như duyệt kế hoạch xây dựng chỉ tiêu kế hoạch phát triển giáo dục
duyệt các khoản chi phí khác. Phải dựa trên tài liệu việc duyệt giờ phân phối
trực tiếp giảng dạy của từng cán bộ giáo viên cụ thể mà các cấp cơ sở có thẩm
quyền mới thanh toán các chi phí phụ cấp dạy thêm giờ.
Trong hoàn cảnh
hiện nay nếu ở một trường không bố trí đủ giờ tiêu chuẩn thì các giáo viên có
nhiệm vụ dạy thêm ở một số trường lân cận hoặc giúp vào việc huấn luyện chuyên
môn ở địa phương, dạy hàm thụ, dạy Bổ túc văn hoá v.v… cho đủ số giờ tiêu chuẩn.
Ngược lại nếu vì thiếu giáo viên mà phải bố trí dạy quá số giờ tiêu chuẩn thì
phải xem đó là trường hợp bất đắc dĩ.
Thông qua việc quản lý phân phối
giờ lên lớp mà các cấp giáo dục nắm chắc thêm khả năng cán bộ, giáo viên, yêu cầu
chất lượng và số lượng giáo viên mà phân phối, bố trí giáo viên dần dần hợp lý
hơn.
4. Mỗi trường, mỗi giáo
viên phấn đấu tham gia phong trào thi đua “dạy thật tốt, học thật tốt” và tự
nguyện xây dựng tiêu chuẩn mức độ, biện pháp thi đua nhằm kế hoạch hoá toàn bộ
công việc nội ngoại khoá trong cả năm học về các mặt chủ yếu sau đây:
- Soạn, chấm bài, kế hoạch
phương pháp giảng dạy phải được tôn trọng đúng mức. Tận dụng hết giờ chính quyền
để soạn bài, chấm bài, cần chống khuynh hướng tự do tản mạn biểu hiện ở chỗ
ngày thì làm việc riêng tối lại thức khuya đến 12 giờ để soạn bài chấm bài;
- Hội họp, sinh hoạt học tập văn
hoá, chính trị, nghiệp vụ;
- Đặc biệt coi trọng biện pháp tự
học, bồi dưỡng tại chức (như học văn hoá theo hướng hàm thụ).
- Việc dạy Bổ túc văn hoá cho
cán bộ công nông;
- Việc lao động sản xuất trong
trường và ngoài xã hội;
- Việc nghiên cứu khoa học kỹ
thuật nhằm phục vụ thực tế lao động sản xuất ở địa phương và kết hợp học với
hành.
5. Coi trọng việc thực hiện
quy chế trong việc tổ chức thu nhận kèm cặp học sinh, học viên.
Những biện pháp chính trên đây
quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, có làm tốt những việc trên mới
có tác dụng làm cho việc thực hiện chế độ công tác của giáo viên, Hiệu trưởng,
Hiệu phó tại các trường ngày càng hoàn thiện.
E. ĐỐI TƯỢNG VÀ HIỆU LỰC
THI HÀNH THÔNG TƯ NÀY
Thông tư này áp dụng tại các trường
phổ thông, Sư phạm, ổô túc văn hoá, đối với tất cả các giáo viên, Hiệu trưởng,
Hiệu phó các cấp.
Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ đầu năm học 1962 – 1963 trở đi cho tới khi có sửa đổi mới.
Tất cả các quy định do Bộ ban
hành hoặc do một số địa phương đã tạm thời ấn định trái với nội dung, yêu cầu,
tinh thần, mức độ ghi trong thông tư này đều bãi bỏ.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|