|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Thông tư 14-TT Nghị định dùng chữ Tày - Nùng, chữ Thái chữ Mèo phạm vi giáo dục
Số hiệu:
|
14-TT
|
|
Loại văn bản:
|
Thông tư
|
Nơi ban hành:
|
Bộ Giáo dục
|
|
Người ký:
|
Nguyễn Văn Huyên
|
Ngày ban hành:
|
12/04/1962
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
BỘ
GIÁO DỤC
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-TT
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 04 năm 1962
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH VIỆC DÙNG CHỮ TÀY NÙNG,
CHỮ THÁI VÀ CHỮ MÈO CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ TRONG PHẠM VI GIÁO DỤC.
Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị định
số 206-CP ngày 27-11-1961 phê chuẩn các phương án chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ
Mèo và quy định việc dùng các loại chữ viết đó ở các địa phương. Điều hai của
Nghị định nói rõ: "Ở các khu tự trị và ở các địa phương có đồng bào Tày,
Nùng, Thái và Mèo, chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo đều coi là chữ chính thức,
và được dùng trong việc xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa cho cán bộ và nhân dân,
từng bước trong việc giảng dạy ở các trường phổ thông, các trường chuyên nghiệp,
trong công văn, giấy tờ của các cơ quan Nhà nước và trong các hoạt động khác,
tùy theo sự cần thiết của địa phương". Việc Hội đồng Chính phủ ban hành
các phương án chữ viết dân tộc có một ý nghĩa to lớn. Nó không những nói lên sự
quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với đời sống văn hóa, tiếng nói của
các dân tộc, mà còn là một nhân tố có hiệu lực thúc đẩy miền núi tiến kịp miền
xuôi và cùng miền xuôi nhịp nhàng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đối với ngành ta,
chữ viết dân tộc được dùng chính thức trong trường học đánh dấu một giai đoạn mới
trong sự nghiệp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục ở miền núi. Rõ ràng
quyết định của Hội đồng Chính phủ về ban hành các phương án chữ viết dân tộc
ghi thêm một thắng lợi lớn trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta.
Sau đây, Bộ đề ra phương hướng
và một số biện pháp lớn đưa chữ viết dân tộc và trường học…
I. PHƯƠNG HƯỚNG
1. Phương hướng chung:
Lâu nay, các dân tộc đều học chữ quốc ngữ và thông qua đó mà học tập văn hóa. Kết
quả đến nay: hàng nghìn xã ở miền núi đã xóa xong nạn mù chữ, số học sinh phổ
thông ở vùng dân tộc đã tăng gấp 20 lần số học sinh dưới thời thuộc Pháp, hàng
nghìn học sinh dân tộc đã theo học các trường chuyên nghiệp trung cấp, hàng
trăm sinh viên dân tộc đang theo học các trường đại học trong và ngoài nước.
Như vậy là chữ quốc ngữ đã được hàng chục vạn người lớn trẻ em miền núi dùng và
đã có tác dụng rất quan trọng đối với việc nâng cao trình độ văn hóa của các
dân tộc. Ngày nay, chữ quốc ngữ ngày càng trở thành chữ viết dùng chung cho các
dân tộc trong cả nước. Phạm vi dùng chữ quốc ngữ ngày càng được mở rộng. Có thể
nói đó là "chữ viết đoàn kết các dân tộc của tổ quốc ta". Mặt khác,
chữ quốc ngữ, đại biểu cho một thứ tiếng đã có một lịch sử phát triển lâu dài,
đã có thể dùng trong việc biểu hiện và truyền thụ những trí thức khoa học phức
tạp ở trung học và đại học. Do đó, chữ viết dân tộc và chữ viết của địa phương
lại vừa mới ra đời, nên dù được coi là chữ chính thức vẫn không thể thay thế
cho chữ quốc ngữ được. Muốn nâng cao nhanh chóng và không ngừng trình độ văn
hóa của mình, các dân tộc cần phải học cả chữ viết dân tộc lẫn chữ quốc ngữ và
không được xem nhẹ mặt nào. Quan hệ giữa hai thứ chữ viết không phải là quan hệ
khuất phục, loại trừ nhau mà chính là quan hệ bồi bổ cho nhau.
Nhưng quy định mối quan hệ tỷ lệ
đúng đắn giữa chữ viết dân tộc và chữ quốc ngữ trong trường học cao cấp ở từng
nơi, từng lúc là một vấn đề lớn và khó khăn, phức tạp. Đấy là chưa kể đến những
khó khăn nảy ra trong việc chuẩn bị và thực hiện giảng dạy theo chương trình mới
như thiếu giáo viên có khả năng, thiếu tài liệu giáo khoa, nghiên cứu, tham khảo
bằng chữ viết dân tộc v.v… Chính vì vậy mà nghị định nói rằng chữ viết dân tộc
được dùng từng bước trong việc giảng dạy ở các trường phổ thông, các trường
chuyên nghiệp. Theo nhu cầu và khả năng thực tế hiện nay của ta, chữ viết dân tộc
cần dùng trong việc giảng dạy ở các cấp học mở đầu như mẫu giáo, vỡ lòng, thanh
toán nạn mù chữ, cấp I phổ thông và Bổ túc văn hóa, chữ quốc ngữ cần dùng trong
việc giảng dạy ở các cấp học trên. Phạm vi dùng chữ viết dân tộc trong trường học
cũng như trong các hoạt động khác bây giờ còn bị hạn chế, nhưng tình hình đó dần
dần sẽ thay đổi. Theo với sự trưởng thành của dân tộc nói chung, của cán bộ tri
thức dân tộc nói riêng, tiếng nói và văn hóa dân tộc cũng phát triển, chữ viết
dân tộc sẽ có thể dùng trong việc giảng dạy các môn khoa học nhất là khoa học
xã hội ở các cấp học trên, trong các mặt hoạt động văn hóa, chính trị, xã hội
và trong cả công cuộc nghiên cứu khoa học. Điều này đã được chứng thực bằng những
kinh nghiệm phát triển chữ viết của các dân tộc thiểu số Liên-Xô và Trung Quốc.
2. Phương hướng cụ thể:
Xuất phát từ phương hướng chung nói trên và căn cứ vào đặc điểm cư trú và tiếng
nói của các dân tộc nước ta, có thể đề ra một số phương hướng cụ thể như sau:
- Ở các cấp học mở đầu, cần giảng
dạy hoàn toàn bằng chữ viết dân tộc, cấp II, III phổ thông, Bổ túc văn hóa và
chuyên nghiệp sơ, trung cấp cần giảng dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ. Để chuẩn
bị cho học sinh cấp I học lên lớp 5, lớp 2 lên bắt đầu tập làm quen dần với những
từ tiếng phổ thông cần dùng trong sinh hoạt hàng ngày, qua tiếp xúc với giáo
viên trong sinh hoạt hàng ngày, qua tiếp xúc với giáo viên trong và ngoài giờ học,
lớp 3, 4 có giờ chính thức giảng dạy tiếng phổ thông và chữ quốc ngữ như một
môn học (Việt ngữ). Còn cấp II, III, nếu có điều kiện cũng có thể có giờ chính
thức giảng dạy tiếp môn ngữ văn dân tộc.
- Ở các trường sư phạm cấp I, cần
coi trọng như nhau việc giảng dạy 2 môn ngữ văn dân tộc và Việt ngữ, vì sau khi
tốt nghiệp, giáo sinh phải am hiểu cả tiếng mẹ đẻ lẫn tiếng phổ thông để vận dụng
vào công tác hàng ngày.
- Ở nơi mà đồng bào sống tương đối
tập trung, không kể là vùng cao hay vùng thấp và không biết hoặc ít biết tiếng
phổ thông, cần giảng dạy bằng chữ viết dân tộc.
- Ở nơi nào có nhiều dân tộc sống
xen kẽ (có thể gồm cả dân tộc có chữ viết riêng và dân tộc chưa có chữ viết
riêng), nên hoặc lựa chọn chữ viết của một dân tộc anh em để giảng dạy, lấy thứ
chữ viết đó làm phương tiện nâng cao trình độ văn hóa chung hoặc giảng dạy bằng
chữ quốc ngữ, tùy theo sự tự nguyện của các dân tộc.
- Ở nơi nào đồng bào biết tương
đối thành thạo tiếng phổ thông, nhất là đã xóa xong nạn mù chữ và đang bổ túc
văn hóa bằng chữ quốc ngữ, không cần bổ túc văn hóa bằng chữ viết dân tộc mà
nên bổ túc văn hóa bằng chữ quốc ngữ. Nội dung chương trình giảng dạy ở nơi này
cần thêm môn ngữ văn dân tộc.
Nhưng đối với giáo dục phổ
thông, việc dùng chữ viết trong trường học có khác, ở các nơi đồng bào biết
tương đối thành thạo tiếng phổ thông - cả những nơi biết rất thành thạo nữa -
nhưng vẫn dùng tiếng nói dân tộc làm công cụ giao tế hàng ngày ở địa phương, cần
giảng dạy bằng chữ viết dân tộc vì trẻ em học bằng tiếng mẹ đẻ dễ dàng tiếp thu
kiến thức hơn.
- Ở nơi nào tiếng nói khác nhiều
với tiếng nói phổ biến dùng trong sách giáo khoa, do đó người học gặp nhiều khó
khăn trong học tập, nên cân nhắc xem giữa chữ viết dân tộc và chữ quốc ngữ dùng
thứ nào có lợi hơn mà lựa chọn chữ viết dân tộc hay chữ quốc ngữ để giảng dạy.
3. Phương châm:
- Luôn luôn coi trọng chữ viết
dân tộc và chữ quốc ngữ, không coi nhẹ mặt nào.
- Mạnh dạn, không cầu toàn dùng
chữ viết dân tộc trong việc giảng dạy, nhưng phải đi từng bước chắc chắn từ thấp
lên cao.
- Phải quán triệt đường lối quần
chúng trong công tác.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LỚN
Trước mắt chúng ta cần phải đẩy
mạnh việc phổ biến chữ Tày-Nùng, chữ Thái và chữ Mèo trong cán bộ và nhân dân
và chuẩn bị giảng dạy bằng chữ viết dân tộc ở lớp vỡ lòng và các lớp đầu cấp I
phổ thông trong niên học 1962 - 1963. Vì vậy ngay từ bây giờ, các địa phương cần
thực hiện một số biện pháp lớn dưới đây:
1. Tuyên truyền sâu sắc
chủ trương phát triển tiếng nói và chữ viết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
trong cán bộ các cấp và nhân dân, và phát động một phong trào rộng rãi học chữ
viết dân tộc trong các cơ quan, trường học và nhân dân toàn khu tỉnh.
2. Mở trường sư phạm đào
tạo và bồi dưỡng một đội ngũ đông đảo giáo viên dạy chữ viết dân tộc.
3. Kiện toàn bộ phận
nghiên cứu chữ viết dân tộc ở những nơi đã có và thành lập thêm ở những nơi cần
thiết để xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa bằng chữ viết dân tộc
cho các lớp cấp I bổ túc văn hóa và phổ thông.
Tình hình và đặc điểm mỗi dân tộc
mỗi địa phương mỗi khác. Kinh nghiệm dùng song song chữ viết dân tộc và chữ quốc
ngữ ở các cấp học chúng ta còn thiếu nhiều. Các khu, tỉnh cần báo cáo cho Bộ biết
những khó khăn trong việc vận dụng thông tư này, giải quyết các vấn đề cụ thể của
địa phương để Bộ kịp thời hướng dẫn và giúp đỡ.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
GIÁO DỤC
Nguyễn Văn Huyên
|
Thông tư 14-TT năm 1962 thi hành Nghị định quy định việc dùng chữ Tày - Nùng, chữ Thái và chữ Mèo của Hội đồng Chính phủ trong phạm vi giáo dục do Bộ Giáo dục ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Thông tư 14-TT ngày 12/04/1962 thi hành Nghị định quy định việc dùng chữ Tày - Nùng, chữ Thái và chữ Mèo của Hội đồng Chính phủ trong phạm vi giáo dục do Bộ Giáo dục ban hành
6.239
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|