HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
---------------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc
-------------------
|
Số : 24-CP
|
Hà Nội, ngày 13
tháng 03 năm 1963
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TUYỂN DỤNG VÀ CHO THÔI VIỆC ĐỐI VỚI CÔNG
NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để tăng cường việc quản lý đội
ngũ công nhân, viên chức Nhà nước;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và ông Bộ trưởng Bộ Lao động;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong Hội nghị Thường vụ của Hội đồng
Chính phủ ngày 08 tháng 11 năm 1962,
NGHỊ ĐỊNH :
Điều 1.
– Nay ban hành, kèm theo nghị định này, điều lệ tuyển dụng và cho thôi việc đối
với công nhân, viên chức Nhà nước.
Điều 2.
– Các ông Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
ĐIỀU LỆ
TUYỂN DỤNG VÀ CHO THÔI VIỆC ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ
NƯỚC
Trong thời gian qua, ở các
ngành, các cấp, việc tuyển dụng và cho thôi việc đã bắt đầu vào nề nếp, góp phần
củng cố đội ngũ công nhân, viên chức Nhà nước. Tuy nhiên ở một số xí nghiệp,
nông trường, lâm trường, công trường, trường học và cơ quan Nhà nước… (gọi tắt
là xí nghiệp, cơ quan Nhà nước) vẫn còn tình trạng tuyển dụng và cho thôi việc
một cách tùy tiện, không đúng chính sách và chế độ của Nhà nước. Chế độ tuyển dụng
và chế độ cho thôi việc hiện nay đối với công nhân, viên chức Nhà nước ở khu vực
sản xuất và khu vực hành chính, sự nghiêp cũng còn có những điểm khác nhau, do
chưa có quy định thống nhất.
Những thiếu sót nói trên đây đã ảnh
hưởng không tốt đến việc củng cố đội ngũ công nhân, viên chức Nhà nước, làm cho
việc quản lý đội ngũ đó thiếu chặt chẽ, gây lãng phí về nhân lực, đồng thời
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho biên chế của các xí nghiệp, cơ quan
Nhà nước tăng lên quá mức, ảnh hưởng đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế
quốc dân. Mặt khác, những thiếu sót đó trong nhiều trường hợp có gây thiệt hại
đến quyền lợi của người lao động.
Tình hình đó đòi hỏi phải có quy
định thống nhất về chế độ tuyển dụng và chế độ cho thôi việc đối với công nhân,
viên chức Nhà nước nhằm:
- Bảo đảm việc tuyển dụng và cho
thôi việc đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Tăng cường việc quản lý đội
ngũ công nhân, viên chức Nhà nước, làm cho đội ngũ đó ngày càng thuần khiết, vững
mạnh;
- Bảo đảm lợi ích của xí nghiệp,
cơ quan Nhà nước đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đánh của công nhân, viên chức.
Chương 1:
TUYỂN DỤNG
Điều 1.
- Việc tuyển dụng người vào các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước
phải căn cứ vào:
- Nhu cầu sản xuất và công tác;
- Chỉ tiêu lao động và chỉ tiêu
biên chế đã được Chính phủ quy định cho xí nghiệp, cơ quan.
Xí nghiệp, cơ quan chỉ tuyển dụng
người khi được cơ quan chủ quản ở trung ương hoặc Ủy ban hành chính địa phương
cho phép sau khi đã cố gắng điều chỉnh ở trong ngành hoặc ở địa phương mà không
được.
Khi tuyển dụng
người làm việc lâu dài thì theo đúng những điều quy định trong văn bản này. Khi
tuyển dụng người làm việc tạm thời, thì theo chế độ hợp đồng có thời hạn.
Điều 2.
– Trong việc tuyển dụng, trước hết, phải tuyển những học sinh đã tốt nghiệp các
trường, các lớp đào tạo cán bộ, công nhân chuyên nghiệp, nhân viên kỹ thuật của
Nhà nước (gọi tắt là trường, lớp đào tạo cán bộ, công nhân).
Đối với nhu cầu cấp thiết mà
không tuyển được người đã tốt nghiệp các trường, lớp này, thì phải tuyển người
do cơ quan lao động có thẩm quyền đưa đến.
Trong khi tuyển người vào
các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, cần chú trọng tuyển dụng thương binh còn khả
năng lao động vào các ngành, nghề thích hợp.
Điều 3.
– Trong việc xét người để tuyển dụng vào các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước, phải
căn cứ vào những điều kiện sau đây:
a) Có quyền công dân, lý lịch rõ
ràng, tự nguyện phục vụ,
b) Có trình độ thích hợp với
công việc,
c) Có đủ sức khỏe và đã đủ 18 tuổi.
(Những ngành, nghề được tuyển dụng người dưới 18 tuổi sẽ do Bộ Lao động và Bộ Nội
vụ quy định cụ thể).
Khi tuyển dụng học sinh tốt nghiệp
các trường các lớp đào tạo cán bộ, công nhân chuyên nghiệp, nhân viên kỹ thuật
của Nhà nước cũng phải theo đúng những điều trên đây.
Điều 4.
– Ngoài những điều kiện chung nói ở điều 3 trên đây, các ngành ở trung ương có
thể thỏa thuận với Bộ Lao động để quy định những điều kiện riêng đối với những
người được tuyển dụng vào làm những công việc có tính chất đặc biệt của ngành
mình.
Điều 5.
- Ở trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, không được sắp xếp những người có
quan hệ thân thích với nhau như vợ chồng, anh chị em, cùng làm những việc mà
nhiệm vụ của người này là kiểm soát việc của người kia (ví dụ: chồng làm kế
toán, vợ làm thủ quỹ; anh giữ kho, em kế toán)
Điều 6.
- Người xin tuyển dụng phải nộp cho xí nghiệp, cơ quan những giấy tờ sau đây
theo mẫu thống nhất của Nhà nước :
a) Đơn xin tuyển dụng
b) Bản khai lý lịch
c) Giấy chứng nhận sức khỏe
d) Giấy chứng nhận trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật v .v…
Điều 7.
- Trước khi xét để tuyển dụng và đưa người xin tuyển dụng vào tập sự hoặc làm
thử như quy định ở điều 8 dưới đây, xí nghiệp, cơ quan tuyển người phải thẩm
tra lý lịch và thẩm tra chính trị của người đó.
Điều 8.
- Trước khi được tuyển dụng chính thức, học sinh tốt nghiệp
các trường, các lớp đào tạo cán bộ, công nhân phải qua một thời gian tập sự. Đối
với những người không qua các trường, các lớp này và những người đã thôi việc
nay xin tuyển lại, thì có thể phải qua một thời gian làm thử.
Thời gian tập sự nói chung không
được quá hai năm. Bộ Lao động và Bộ Nội vụ sẽ quy định cụ thể thời gian tập sự
áp dụng cho học sinh tốt nghiệp của từng loại trường, lớp đào tạo cán bộ, công
nhân.
Thời gian làm thử, nói chung,
không được quá 30 ngày. Xí nghiệp, cơ quan tuyển người sẽ quyết định làm thử hoặc
miễn thời gian làm thử tùy theo tính chất phức tạp hay giản đơn của công việc
mà người đó sẽ nhận.
Những người tập dự hoặc làm thử
đều được hưởng lương và các chế độ đãi ngộ hiện hành kể từ ngày bắt đầu nhận việc.
Điều 9.
- Trước khi giao việc cho người tập sự hoặc làm thử, xí nghiệp, cơ quan tuyển
người phải cho người đó biết những điều cần thiết như: thời gian tập sự hoặc
làm thử (nếu có), quy trình sản xuất, chế độ công tác, nội quy bảo hộ lao động,
v .v…
Đối với người tập sự hoặc làm thử
ở bộ phận trực tiếp sản xuất, thì trước khi giao việc, xí nghiệp, cơ quan tuyển
người phải hướng dẫn cho người đó nắm được những hiểu biết tối thiểi về quy tắc
an toàn lao động, về vệ sinh công nghiệp và những điều cần thiết khác.
Điều 10.
– Trong thời gian làm thử, nếu xét thấy đương sự có đủ năng lực làm tốt công việc
được giao, thì xí nghiệp, cơ quan tuyển người có thể xét để tuyển dụng chính thức
trước khi hết hạn làm thử; nếu xét thấy người đó không có đủ điều kiện tuyển dụng
thì xí nghiệp; cơ quan không tuyển và trả lại hồ sơ xin tuyển dụng cho đương sự;
nếu đương sự không muốn làm việc nữa, thì được rút đơn và hồ sơ xin tuyển dụng.
Điều 11.-
Khi hết hạn tập sự hoặc làm thử, nếu xét thấy đương sự có đủ điều kiện để làm
việc thì xí nghiệp, cơ quan sở quan phải làm mọi thủ tục cần thiết để tuyển dụng
chính thức. Ngày tuyển dụng chính thức được tính liền sau thời gian tập sự hoặc
làm thử; kể từ ngày ấy, đương sự được hưởng lương và các chế độ đãi ngộ theo chế
độ chung đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
Điều 12.
– Công nhân, viên chức Nhà nước có nghĩa vụ:
- Tuân theo kỷ luật lao động, chế
độ công tác và nội quy của xí nghiệp, cơ quan;
- Hoàn thành tốt mọi công tác được
xí nghiệp, cơ quan giao cho theo đúng nhiệm vụ, chức trách của mình;
- Không ngừng học tập, nâng cao
trình độ về mọi mặt.
Chương 2:
THÔI VIỆC
Điều 13.
– Công nhân, viên chức Nhà nước có thể xin thôi việc
trong các trường hợp sau đây:
a) Khi cần thôi việc để vào học các
trường lớp đào tạo cán bộ, công nhân.
b) Khi gặp hoàn cảnh khó khăn
riêng.
Đối với các trường hợp xin thôi
việc trên đây, xí nghiệp, cơ quan phải xem xét, cân nhắc kỹ để giải quyết cho
thỏa đáng. Thời hạn xét để trả lời đương sự không được chậm quá 30 ngày.
Điều 14.
– Công nhân, viên chức Nhà nước bị buộc thôi việc trong
những trường hợp sau đây:
a) Khi công nhân, viên chức bị
phạt giam về tội có liên quan đến công tác của mình trong xí nghiệp, cơ quan.
b) Khi công nhân, viên chức bị
phạt giam trên sáu tháng về tội không có liên quan đến công tác của mình, hoặc
tuy bị phạt giam dưới sáu tháng về tội không có liên quan đến công tác của
mình, nhưng kèm theo phạt giam còn bị phạt tước quyền công dân hay là cấm không
được làm nghề cũ trong một thời gian.
Điều 15.
– Xí nghiệp, cơ quan có quyền cho công nhân, viên chức
thôi việc trong các trường hợp sau đây:
a) Khi công nhân, viên chức phạm
kỷ luật lao động một cách nghiêm trọng hoặc phạm những sai lầm nghiêm trọng
khác, tuy đã được giáo dục nhiều lần nhưng không chịu sửa chữa;
b) Khi công nhân, viên chức
không nhận sự điều động của xí nghiệp, cơ quan;
c) Khi công nhân, viên chức làm
giấy tờ giả mạo hoặc khai man lý lịch để được tuyển dụng. Nếu việc giả mạo hoặc
khai man có tính chất nghiêm trọng, thì đương sự còn có thể bị truy tố trước
pháp luật.
Các trường hợp cho thôi việc nói
trên đây phải được đưa ra Hội đồng kỷ luật của xí nghiệp, cơ quan xét. Khi quyết
định cho công nhân, viên chức thôi việc vì kỷ luật, xí nghiệp, cơ quan sở quan
phải báo cho Ủy ban hành chính biết.
Điều 16.
– Khi xí nghiệp, cơ quan nào vì hoàn cảnh đặc biệt mà phải
giải thể hoặc phải giảm bớt biên chế, thì đối với số công nhân, viên chức thừa
ra, xí nghiệp, cơ quan ấy phải cố gắng sắp xếp công việc cho những người đó
đúng với khả năng của đương sự và có lợi ích thật sự. Nếu xí nghiệp, cơ quan
không sắp xếp được, thì phải báo cáo kịp thời cho Ủy ban hành chính địa phương,
hoặc cơ quan chủ quản ở trung ương để giải quyết theo phương hướng:
1. đưa những người đủ khả năng
làm việc hợp với yêu cầu đến những nơi cần người.
2. chuyển đi sản xuất (khai
hoang).
Trước khi quyết định cho công
nhân, viên chức thôi việc vì cơ quan giải thể hoặc giảm biên chế, xí nghiệp, cơ
quan sở quan phải hỏi ý kiến Ban chấp hành công đoàn của xí nghiệp, cơ quan và
phải được sự thỏa thuận của Ủy ban hành chính địa phương; đối với công nhân
viên chức là Ủy viên Ban chấp hành công đoàn, thì phải được sự thỏa thuận của
Ban chấp hành công đoàn.
Khi cho thôi việc, xí nghiệp, cơ
quan phải báo cho người đương sự biết trước 30 ngày. Công nhân, viên chức thôi
việc trong trường hợp này, nếu có đủ điều kiện, được ưu tiên xét tuyển vào học
các trường, lớp đào tạo cán bộ, công nhân hoặc được ưu tiên tuyển lại khi Nhà
nước cần tuyển thêm người.
Điều 17.
– Xí nghiệp, cơ quan không được cho công nhân, viên chức
thôi việc theo quy định ở các điều 15 và 16 trên đây trong thời gian họ nghỉ
phép, thai nghén gần đến ngày đẻ, nghỉ đẻ, ốm đau.
Điều 18.
– Công nhân, viên chức thôi việc được trả lại sổ lao động, được cấp giấy chứng
nhận thôi việc, được trả lương và các khoản phụ cấp khác (nếu có) cho đến ngày
thôi việc theo chế độ hiện hành. Nếu xí nghiệp, cơ quan nào không thi hành đúng
quy định của Nhà nước làm cho công nhân, viên chức phải chờ đợi, thì cơ quan,
xí nghiệp ấy phải trả lương cho người đương sự về thời gian chờ đợi. Công nhân,
viên chức thôi việc phải trả lại những giấy tờ, tài liệu do xí nghiệp, cơ quan
đã cấp cho mình để làm việc.
Chương 3:
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC XÍ
NGHIỆP, CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC CHẤP HÀNH CHẾ ĐỘ TUYỂN DỤNG VÀ CHẾ ĐỘ CHO THÔI VIỆC ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN,
VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC, THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VIỆC KHIẾU NẠI, TỐ GIÁC VỀ TUYỂN DỤNG VÀ CHO THÔI VIỆC
Điều 19.
- Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng
Chính phủ, Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết
định việc tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân, viên chức Nhà nước thuộc
phạm vi mình quản lý theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ hiện nay; hướng dẫn và
kiểm tra việc chấp hành chế độ tuyển dụng và chế độ cho thôi việc đối với công
nhân, viên chức Nhà nước trong các xí nghiệp, cơ quan thuộc ngành mình, địa
phương mình.
Các Vụ, Phòng Tổ chức cán bộ của
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan lao động
địa phương (Sở, Ty, Phòng Lao động) và Phòng Tổ chức cán bộ của Ủy ban hành
chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là những cơ quan chuyên môn có
trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, hoặc Ủy ban hành chính địa phương thực hiện tốt chế độ tuyển dụng
và chế độ cho thôi việc đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
Điều 20.
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành chế độ
tuyển dụng và chế độ cho thôi việc đối với công nhân, viên chức Nhà nước trong
các cơ quan thuộc khu vực hành chính, sự nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Lao động có trách
nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành chế độ tuyển dụng và chế độ cho thôi
việc đối với công nhân, viên chức Nhà nước trong các cơ sở thuộc khu vực sản xuất,
các cơ sở kinh doanh thương nghiệp, vận tải, bưu điện và các xí nghiệp phục vụ.
Điều 21.
- Thủ trưởng các xí nghiệp, cơ quan quyết định việc tuyển dụng và cho thôi việc
đối với công nhân, viên chức trong xí nghiệp,cơ quan mình theo chế độ phân cấp
quản lý cán bộ hiện nay.
Bộ phận Tổ chức cán bộ của xí
nghiệp, cơ quan có trách nhiệm giúp Thủ trưởng thực hiện tốt chế độ tuyển dụng
và chế độ cho thôi việc đối với công nhân, viên chức trong xí nghiệp, cơ quan.
Điều 22.
– Các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xét và giải quyết kịp thời (hoặc
đề nghị cấp trên giải quyết nếu mình không có thẩm quyền) những việc khiếu nại,
tố giác về tuyển dụng và cho thôi việc theo đúng nguyên tắc và thủ tục đã được
Nhà nước quy định.
Điều 23.
– Trong khi giải quyết các việc khiếu nại, tố giác nói trên, cũng như trong khi
quyết định cho công nhân, viên chức thôi việc theo quy định ở điều 15, 16 trên
đây, Thủ trưởng xí nghiệp, cơ quan phải thỏa thuận với Ban Chấp hành Công đoàn
xí nghiệp, cơ quan. Nếu hai bên không thỏa thuận được với nhau, thì quyết định
của Thủ trưởng xí nghiệp, cơ quan được tạm thời thi hành, nhưng hai bên phải
báo cáo kịp thời lên cơ quan cấp trên của mình để giải quyết.
Chương 4:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 24.
- Điều lệ này áp dụng đối với những người làm việc lâu dài trong các xí nghiệp,
cơ quan Nhà nước và các xí nghiệp công tư hợp doanh.
Điều 25.
– Các quy định trước đây trái với điều lệ này đều bãi bỏ.
Điều 26.
– Ông Bộ trưởng Bộ Lao động và Bộ trưởng Bộ Nội vụ giải thích và hướng dẫn thi
hành điều lệ này.