TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
81/2002/TANDTC
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 6 năm 2002
|
CÔNG VĂN
CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 81/2002/TANDTC NGÀY 10 THÁNG 6 NĂM 2002 VỀ VIỆC GIẢI
ĐÁP CÁC VẤN ĐỀ NGHIỆP VỤ
Kính gửi:
|
- Các Toà án nhân dân và Toà
án quân sự các cấp
- Các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao
|
Trong thời gian chuẩn bị Hội nghị
và tại Hội nghị triển khai công tác ngành Toà án năm 2002 và tập huấn nghiệp vụ
(từ ngày 28 đến ngày 30-12-2001) cũng như trong thời gian vừa qua nhiều Toà án
nhân dân địa phương và Toà án quân sự các cấp đề nghị Toà án nhân dân tối cao
giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ. Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối
cao về các vấn đề đó; cụ thể là:
I. VỀ HÌNH SỰ.
1. Có ý kiến cho rằng Nghị quyết
số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 32) nhưng không quy định là để thi hành Bộ luật
hình sự cụ thể nào, thế nhưng trong Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày
28-1-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị
quyết của Quốc hội "về việc thi hành Bộ luật hình sự" (sau đây gọi tắt
là Nghị quyết số 229) và Thông tư liên tịch số
02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 "Hướng dẫn thi hành Điều
7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999
của Quốc hội" (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 02) lại nêu cụ thể
là Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy Nghị quyết số 229 và Thông tư liên tịch số
02 có mâu thuẫn với Nghị quyết số 32 hay không?
Trước hết cần phải khẳng định là
các văn bản quy phạm pháp luật này không có gì mâu thuẫn với nhau. Tất cả các
văn bản này đều có nội dung triển khai thi hành Bộ luật hình sự năm 1999.
Nghiên cứu Nghị quyết số 32 chúng ta có thể nhận thấy mặc dù tên của Nghị quyết
là "về việc thi hành Bộ luật hình sự", nhưng trong nội dung của Nghị
quyết đã thể hiện rõ là về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999; cụ thể tại Mục
1 của Nghị quyết đã quy định: "Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21-12-1999 có hiệu lực từ ngày
01-7-2000". Bộ luật hình sự này thay thế... Như vậy khái niệm "Bộ luật
hình sự này" trong Nghị quyết số 32 phải hiểu là Bộ luật hình sự năm 1999.
Giả thiết cho rằng trong nội
dung Nghị quyết số 32 chỉ đề cập đến "Bộ luật hình sự" mà không có một
quy định nào đề cập cụ thể đến "Bộ luật hình sự năm 1999" và để hiểu
thống nhất là Bộ luật hình sự nào, thì theo quy định của Hiến pháp năm 1992 Uỷ
ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giải thích cụ thể đó là Bộ luật hình sự
nào; do đó, trong Nghị quyết số 229 đã giải thích cụ thể đó là Bộ luật hình sự năm
1999 là không có gì mâu thuẫn. Trên cơ sở Nghị quyết số 229, các cơ quan có thẩm
quyền đã ban hành Thông tư liên tịch số 02 và hướng dẫn cụ thể đó là Bộ luật
hình sự năm 1999 là đúng quy định của pháp luật.
2. Khi áp dụng Điều 7 Bộ luật
hình sự năm 1999, việc so sánh Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm
1985 để xác định trường hợp nào thuộc quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều 7
Bộ luật hình sự năm 1999 được thực hiện như thế nào? So sánh các Điều luật
tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự hay so sánh các Khoản cụ thể trong
các Điều luật tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự này?
Trong các Khoản 1, 2 và 3 Điều 7
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Điều luật được áp dụng...",
"Điều luật quy định một tội phạm...", "Điều luật xoá bỏ một tội
phạm...". Khác với Điều 7, trong Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định
các loại tội phạm không dùng "Điều luật" mà dùng "khung hình phạt
đối với tội ấy..."; do đó, việc so sánh Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật
hình sự năm 1985 để xác định trường hợp nào thuộc quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản
3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 được thực hiện bằng việc so sánh các Điều luật
tương ứng quy định trong hai Bộ luật hình sự. Vấn đề này đã được hướng dẫn cụ
thể tại Thông tư liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ
Công an "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị
quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội" (sau đây gọi tắt và viết
tắt là TTLT số 02). Ngoài ra, việc so sánh phải bằng các Điều luật tương ứng
quy định trong hai Bộ luật hình sự, chứ không phải bằng các Khoản cụ thể trong
các Điều luật tương ứng, bởi vì trong nhiều Điều luật của Bộ luật hình sự năm
1999 quy định nhiều Khoản hơn trong Điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự năm
1985. Ví dụ: "Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng" Điều 102 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định 1 Khoản, còn Điều 96
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai Khoản hoặc "Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác" (không thuộc trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh, không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng) Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định 3 Khoản, còn Điều 104 Bộ
luật hình sự năm 1999 quy định 4 Khoản. Nếu so sánh theo Khoản thì trong các
trường hợp này không thể so sánh được.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho
thấy bằng việc so sánh các Điều luật tương ứng thì Điều luật của Bộ luật hình sự
năm 1999 nhẹ hơn, nhưng Điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định khác
có lợi hơn hoặc ngược lại; do đó, tại Điểm b7 Mục 2 và tại Điểm d7 Mục 3 TTLT số
02 đã hướng dẫn cụ thể việc áp dụng pháp luật trong các trường hợp này.
Hai ví dụ sau đây minh hoạ việc
so sánh trên:
a. Về tội giết người: So sánh Điều
101 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 nếu theo Điều
luật, rõ ràng Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 nhẹ hơn; do đó, đối với hành vi
giết người được thực hiện trước ngày 1-7-2000 mà không thuộc một trong các trường
hợp định khung tăng nặng, thì phải áp dụng Khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự năm
1985 để xét xử. Tuy nhiên, xem xét Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 thì
mức cao nhất của khung hình phạt là mười lăm năm tù; do đó, tuy áp dụng Khoản 2
Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử, nhưng phải áp dụng tinh thần quy định
có lợi cho người phạm tội quy định tại Khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm
1999, cụ thể là dù trong trường hợp nào cũng không được xử phạt quá mười lăm
năm tù.
b. Về tội cố ý gây thương tích:
So sánh Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999
nếu theo Điều luật, rõ ràng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 nhẹ hơn; do đó, đối
với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được thực hiện trước ngày
1-7-2000 mà tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc trường hợp có tính chất côn đồ
hoặc tái phạm nguy hiểm thì phải áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để
xét xử. Tuy nhiên, trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành thì
phải áp dụng Khoản 2 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử, nhưng nay
theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 trường hợp này thuộc quy định
tại Khoản 1; do đó, cần áp dụng tinh thần quy định này có lợi cho người phạm tội,
cho nên chỉ được áp dụng Khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 để xét xử.
3. Theo quy định tại Khoản 1 Điều
60 Bộ luật hình sự năm 1999, thì khi cho hưởng án treo Toà án ấn định thời gian
thử thách. Thế nhưng tại Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày
30-10-2000 của Chính phủ lại quy định thời gian thử thách của án treo được tính
từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định thi
hành bản án và trích lục bản án? Như vậy, hai quy định này có mâu thuẫn với
nhau không? Toà án ấn định thời gian thử thách như thế nào? Thời gian thử thách
được tính từ ngày nào?
Quy định tại Khoản 5 Điều 5 Nghị
định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 61) không có gì mâu thuẫn với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999.
Việc Toà án cho người bị xử phạt
tù được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách vẫn thực hiện theo quy định
tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 theo thủ tục chung; cụ thể là vẫn thực hiện
như các hướng dẫn trước đây.
Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61 quy
định: "Người được hưởng án treo là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân
quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, thì thời gian thử thách cũng được
tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ nhưng không được tính vào thời
gian xét nâng lương, phong quân hàm theo niên hạn. Thời gian thử thách được
tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người đó nhận được quyết định
thi hành bản án và trích lục bản án".
Như vậy quy định tại Khoản 5 Điều
5 Nghị định số 61 được áp dụng đối với người được hưởng án treo là cán bộ, công
chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương nếu vẫn
được tiếp tục làm việc, thì thời gian thử thách để được tính vào thời gian công
tác, thời gian tại ngũ chỉ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục
người đó nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án, chứ không phải
kể từ ngày Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
4. Một người đang chấp hành hình
phạt tù do bị ốm nặng đã được Chánh án Toà án ra quyết định cho được tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù. Trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù, thì người đó lại phạm tội mới và bị đưa ra xét xử. Trong trường hợp này phải
áp dụng Khoản nào của Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 để tổng hợp hình phạt?
Một người đang chấp hành hình phạt
tù do bị ốm nặng đã được Chánh án Toà án ra quyết định cho được tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, thì người đó đang phải chấp hành bản án đối với phần hình phạt
tù còn lại và các quyết định khác trong bản án, mà họ chưa thi hành. Nếu trong
thời gian này người đó lại phạm tội mới và bị đưa ra xét xử, thì việc tổng hợp
hình phạt đối với họ theo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm
1999.
5. Người phạm tội bị bắt quả
tang đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình, thì có được áp dụng tình tiết
giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999 hay không?
Mặc dù người phạm tội bị bắt quả
tang, nhưng sau khi bị bắt đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình phù hợp
với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì Toà án áp dụng tình Tiết
giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999 cho họ. Nếu sau khi bị bắt người phạm tội quanh co, chối
tội hoặc khai báo không đúng sự thật của vụ án và chỉ sau khi cơ quan tiến hành
tố tụng đã chứng minh được đầy đủ hành vi phạm tội của họ, họ mới nhận sự việc
phạm tội của họ đúng như cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh, thì không được
áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo" quy định tại Điểm p Khoản
1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp tại cơ quan Điều tra hoặc
tại phiên toà sơ thẩm người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không
đúng sự thật, nhưng sau khi có kết luận Điều tra hoặc sau khi xét xử sơ thẩm đến
phiên toà phúc thẩm đã khai báo lại một cách đầy đủ và đúng sự thật diễn biến
việc phạm tội, thì vẫn được áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai
báo" đối với họ, nhưng mức độ giảm nhẹ trong trường hợp này không thể bằng
trong trường hợp ngay từ đầu họ đã khai báo đầy đủ và đúng sự thật diễn biến việc
phạm tội.
6. Khi xét xử vụ án hình sự về tội
cố ý gây thương tích, trong đó bị cáo là chồng (hoặc là vợ), người bị hại là vợ
(hoặc là chồng) thì có buộc người chồng (hoặc người vợ) phải bồi thường thiệt hại
cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm hay không?
Về nguyên tắc theo quy định tại Điều
42 Bộ luật hình sự năm 1999, các Điều 609, 610 và 613 Bộ luật dân sự thì người
chồng (hoặc người vợ) phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo
quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc Toà án có buộc người chồng
(hoặc người vợ) phải bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức
khoẻ bị xâm phạm hay không là phụ thuộc vào người bị hại có yêu cầu hay không.
Trong trường hợp người bị hại là người vợ (hoặc người chồng) có yêu cầu thì Toà
án cần buộc người chồng (hoặc người vợ) có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp
này cần chú ý là quan hệ giữa bị cáo và người bị hại là vợ chồng cho nên còn bị
Điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình; do đó, khi quyết định việc bồi thường
thiệt hại cần chú ý đến các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về trách nhiệm,
nghĩa vụ của vợ, chồng; về chế độ tài sản riêng, tài sản chung của vợ, chồng...
7. Phân biệt việc áp dụng tình Tiết
giảm nhẹ trong trường hợp "tự thú" và trong trường hợp "đầu
thú" như thế nào?
"Tự thú" là tự mình nhận
tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình
phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng
trong quá trình Điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội
khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự
mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.
"Đầu thú" là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn
tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử
lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo Thông tư liên ngành số 05/TTLN
ngày 2-6-1990 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp "Hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự
thú", thì các trường hợp này đều được coi là tự thú. Tuy hướng dẫn các trường
hợp này đều được coi là tự thú để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng
không hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào áp dụng Khoản 1, trong trường hợp
nào áp dụng Khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Để áp dụng đúng và thống
nhất tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp trên đây, Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể như sau:
- Nếu người phạm tội tự mình nhận
tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình
phạm tội thì áp dụng tình Tiết giảm nhẹ "tự thú" quy định tại Khoản 1
Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
- Nếu có người đã biết hành vi
phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm
tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng Khoản 2 Điều 46 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Cũng cần chú ý là, trong trường hợp này, nếu người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải hoặc có những việc làm khác thuộc trường hợp được coi là
tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì được hưởng tình Tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự tương ứng quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
8. Đối với người nước ngoài phạm
tội nhưng có nhiều tình Tiết giảm nhẹ, nếu xử phạt tù thì không thể cho hưởng
án treo được. Vậy có thể áp dụng hình phạt tiền đối với họ được không?
Việc áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính đối với người phạm tội nói chung, cũng như đối với người nước
ngoài phạm tội nói riêng phải tuân thủ quy định tại Điều 30 Bộ luật hình sự năm
1999. Trong trường hợp người phạm tội là người nước ngoài có nhiều tình Tiết giảm
nhẹ, nếu xử phạt tù thì không thể cho hưởng án treo được, nhưng họ có đủ các Điều
kiện quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 và đã được hướng dẫn tại Mục
10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ
luật hình sự năm 1999" để có thể được chuyển sang một hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể áp dụng hình phạt
trục xuất hoặc hình phạt tiền.
9. Đề nghị hướng dẫn các tình Tiết
hàng phạm pháp là hàng cấm (thuốc lá điếu của nước ngoài) có số lượng lớn, có số
lượng rất lớn và có số lượng đặc biệt lớn.
Để áp dụng đúng và thống nhất
các tình Tiết này thì cần phải có sự thống nhất của liên ngành để hướng dẫn.
Tuy nhiên, trong thời gian chờ hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối
cao tạm thời hướng dẫn như sau:
- Được coi là hàng phạm pháp có
số lượng lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 1.500 bao đến dưới 4.500 bao
(mỗi bao 20 điếu);
- Được coi là hàng phạm pháp có
số lượng rất lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 4.500 bao đến dưới 13.500
bao (mỗi bao 20 điếu);
- Được coi là hàng phạm pháp có
số lượng đặc biệt lớn đối với thuốc lá điếu nước ngoài từ 13.500 bao trở lên (mỗi
bao 20 điếu).
10. Nếu chỉ căn cứ vào số lượng
tiền giả thì trường hợp nào áp dụng Khoản 1, trường hợp nào áp dụng Khoản 2 và
trường hợp nào áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 1999.
Đây là vấn đề cần phải có sự thống
nhất của liên ngành để hướng dẫn. Trong thời gian chờ hướng dẫn của liên ngành,
Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn như sau:
a. Đối với tội làm tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái giả:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả dưới 3 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 2 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 3 triệu đồng đến dưới 15 triệu
đồng;
- Áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 15 triệu đồng trở lên.
b. Đối với tội tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả dưới 10 triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 2 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 10 triệu đồng đến dưới 30
triệu đồng;
- Áp dụng Khoản 3 Điều 180 Bộ luật
hình sự năm 1999 để xét xử bị cáo, nếu tiền giả từ 30 triệu đồng trở lên.
11. Đối với người nhiều lần lưu
hành tiền giả thì số lượng tiền giả để truy cứu trách nhiệm hình sự là căn cứ
vào từng lần cụ thể hay lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần cộng lại?
Nếu lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần cộng lại thì có áp dụng tình Tiết
tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ
luật hình sự năm 1999 nữa hay không?
Cần phải lấy tổng số lượng tiền
giả của tất cả các lần phạm tội cộng lại để truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu
trong các lần phạm tội đó có trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự thì không xem xét trách nhiệm hình sự đối với trường hợp đó (không cộng
số lượng tiền giả của lần phạm tội đó). Nếu có hai lần phạm tội lưu hành tiền
giả trở lên thì ngoài việc cộng số lượng tiền giả của các lần phạm tội để làm
căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, còn phải áp dụng tình Tiết tăng nặng
"phạm tội nhiều lần" quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình
sự năm 1999.
12. Đề nghị hướng dẫn đối với
các trường hợp sử dụng điện trái phép làm chết người thì xét xử về tội gì?
Để xét xử đúng tội cần phải xem
xét từng trường hợp cụ thể. Về nguyên tắc chung, Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn như sau:
a. Đối với trường hợp sử dụng điện
trái phép để chống trộm cắp mà làm chết người thì người phạm tội phải bị xét xử
về tội giết người.
b. Đối với trường hợp sử dụng điện
trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá hoại mùa màng thì cần phân biệt như
sau:
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện
ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện
trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có
thái độ bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra và thực tế là có người bị điện giật chết, thì
người phạm tội bị xét xử về tội giết người.
+ Nếu người sử dụng điện mắc điện
ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo
nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không thể xảy ra..., nhưng hậu quả có
người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội vô ý làm chết người.
II. VỀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Theo quy định của pháp luật
thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Toà
án. Vậy quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Điều tra bổ sung thì Viện kiểm
sát có quyền kháng nghị hay không?
Viện kiểm sát không có quyền
kháng nghị quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Điều tra bổ sung. Theo
tinh thần quy định tại Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự thì những vấn đề cần Điều
tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu Điều tra bổ sung. Nếu xét
thấy những vấn đề cần Điều tra bổ sung mà Toà án yêu cầu là có căn cứ và cần
thiết thì Viện kiểm sát tiến hành Điều tra bổ sung; trong trường hợp kết quả Điều
tra bổ sung dẫn tới đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ
án và báo cho Toà án biết. Nếu xét thấy những vấn đề cần Điều tra bổ sung mà
Toà án yêu cầu là không có căn cứ không thể Điều tra bổ sung được thì Viện kiểm
sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Toà án tiến hành xét xử căn cứ vào hồ sơ
vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên toà để quyết định khi nghị án.
2. Trong nhiều hồ sơ vụ án hình
sự (và dân sự) có các giấy tờ, tài liệu như đăng ký xe máy, giấy phép lái xe,
giấy tờ tuỳ thân... Sau khi xét xử nếu đương sự đến xin lại giấy tờ mà Toà án
cho họ lấy về thì có vi phạm quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự hay
không?
Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự
chỉ quy định thẩm quyền xử lý vật chứng trong các giai đoạn Điều tra, truy tố,
xét xử đối với vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật
chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa hoặc thuộc sở hữu của
người khác bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ phạm tội; vật chứng
là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng không có giá trị hoặc
không sử dụng được. Đối với các giấy tờ, tài liệu tuỳ thân, như: hộ chiếu, giấy
chứng minh nhân dân, thẻ thương binh, giấy đăng ký xe máy, giấy phép lái xe...,
thì theo quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự khi khám xét Điều tra
viên được tạm giữ nếu là vật chứng hoặc có liên quan trực tiếp đến vụ án. Việc
tạm giữ này phải tuân thủ quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự. Sau
khi Toà án đã xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, nếu đương sự đến Toà
án xin được lấy lại giấy tờ, tài liệu này, thì việc có trả lại giấy tờ, tài liệu
này cho đương sự hay không về nguyên tắc chung phải căn cứ vào quyết định của
Toà án trong bản án; cụ thể là:
a. Nếu trong bản án không có quyết
định của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng các giấy tờ, tài liệu
này và các giấy tờ, tài liệu này là cần thiết trong cuộc sống và sinh hoạt của
người bị kết án hoặc của thân nhân người bị kết án, thì Toà án trả lại các giấy
tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ:
- Giấy chứng minh nhân dân, Thẻ
thương binh, Giấy chứng nhận huân chương, huy chương... thì Toà án trả lại cho
họ.
- Trong bản án không có quyết định
cấm hành nghề lái xe thì Toà án trả lại giấy phép lái xe cho họ.
b. Nếu trong bản án có quyết định
của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc họ được tiếp tục sử dụng các giấy tờ,
tài liệu này, thì Toà án trả lại các giấy tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ: Trong bản án có quyết định
trả lại chiếc xe máy cho người phạm tội thì Toà án trả lại giấy đăng ký xe máy
cho họ.
c. Nếu trong bản án có quyết định
của Toà án có liên quan trực tiếp đến việc không được tiếp tục sử dụng các giấy
tờ, tài liệu này thì không trả lại các giấy tờ, tài liệu này cho họ.
Ví dụ:
- Trong bản án có quyết định tịch
thu chiếc xe máy của người phạm tội, đã dùng vào việc thực hiện tội phạm thì
không trả lại giấy đăng ký xe máy đó cho họ.
- Trong bản án có quyết định cấm
hành nghề lái xe trong hai năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù thì
không trả lại giấy phép lái xe cho họ. Tuy nhiên, hết thời hạn cấm mà giấy phép
lái xe này vẫn có giá trị sử dụng thì Toà án trả lại giấy phép lái xe này cho họ.
Cần lưu ý rằng phải phôtô lại
các giấy tờ, tài liệu sẽ trả lại và việc trả lại các giấy tờ, tài liệu này phải
được lập thành biên bản, có chữ ký của người trả và của người nhận; bản phôtô
các giấy tờ, tài liệu và biên bản trả lại giấy tờ, tài liệu phải được lưu vào hồ
sơ vụ án đúng vị trí của các giấy tờ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được trả
lại.
3. Theo quy định tại Điều 87 Bộ
luật tố tụng hình sự thì Tòa án có quyền ra quyết định khởi tố vụ án nếu qua
xét xử tại phiên toà mà phát hiện được người phạm tội mới cần phải Điều tra. Vậy
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định này hay không?
Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật
tố tụng hình sự, nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm
hoặc người phạm tội mới cần phải Điều tra, thì Toà án ra quyết định khởi tố vụ
án (đoạn 2 Khoản 1). Quyết định khởi tố vụ án này phải được gửi đến Viện kiểm
sát để xem xét, quyết định việc Điều tra (Khoản 3).
Khi kiểm sát việc khởi tố vụ án
hình sự, nếu xét thấy quyết định khởi tố của Toà án không có căn cứ thì theo
quy định tại Khoản 3 Điều 91 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có quyền
kháng nghị lên Toà án cấp trên.
4. Vì bị cáo ốm không đến được
phiên toà nên Toà án phải quyết định hoãn xét xử nhiều lần, vậy trường hợp này
giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại Điều 162 Bộ luật
tố tụng hình sự thì trong trường hợp bị cáo đã được giao giấy triệu tập hợp lệ,
nhưng vắng mặt tại phiên toà với lý do "bị ốm", tuỳ từng trường hợp mà
Toà án quyết định như sau:
1. Nếu đúng bị cáo bị ốm (có bệnh
án, có chứng nhận của cơ sở chữa bệnh...) và sự vắng mặt của bị cáo không trở
ngại cho việc xét xử (như: phạm tội quả tang, chứng cứ đã đầy đủ rõ ràng...), thì
Tòa án có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo (Điểm c Khoản 2 Điều 162); nếu sự
vắng mặt của bị cáo có trở ngại cho việc xét xử (như: cần đối chất, cần kiểm
tra một số tình Tiết nào đó của vụ án...), thì Toà án phải hoãn phiên toà (đoạn
1 Khoản 1 Điều 162).
2. Nếu gia đình bị cáo thông báo
cho Toà án về việc bị cáo ốm, nhưng không có chứng cứ chứng minh là bị cáo bị ốm
(không có bệnh án, không có chứng nhận của cơ sở chữa bệnh...), thì sự vắng mặt
của bị cáo là không có lý do chính đáng và bị cáo sẽ bị áp giải đến phiên toà
(đoạn 1 Khoản 1 Điều 162). Tuy nhiên, trong trường hợp sự vắng mặt của bị cáo
không trở ngại cho việc xét xử thì Toà án có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị
cáo (Điểm c Khoản 2 Điều 162).
3. Nếu bị cáo bị ốm do bệnh tâm
thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác (ung thư, lao phổi nặng...), thì Toà án phải
ra quyết định tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh (đoạn 2 Khoản 1 Điều
162). Nếu họ thuộc đối tượng phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, thì Toà
án phải ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ.
5. Theo Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự phải có đơn khởi kiện của các đối tượng theo luật định
thì Toà án mới giải quyết các vụ án. Vậy phần dân sự trong vụ án hình sự được
tách ra để giải quyết riêng thì khi giải quyết phần dân sự đó họ có phải làm
đơn khởi kiện hay không, trong trường hợp nào thì tách phần dân sự trong vụ án
hình sự để giải quyết riêng?
Theo tinh thần quy định tại Điều
42 Bộ luật hình sự năm 1999 thì khi xét xử một vụ án hình sự cùng với việc quyết
định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, Toà án buộc người phạm tội phải
trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường các thiệt hại vật chất đã được xác định do
hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp Toà án phải tách phần
dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết trong một vụ án dân sự khác khi có yêu
cầu. Thông thường Toà án chỉ tách phần dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết
trong một vụ án dân sự khác khi chưa xác định được người bị hại, nguyên đơn dân
sự hoặc đã xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự nhưng khi xét xử không
biết họ ở đâu hoặc đã xác định được người bị hại, nguyên đơn dân sự, nhưng họ
chưa có yêu cầu trả lại những vật, tiền bạc đã bị người phạm tội chiếm đoạt,
chưa có yêu cầu phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, chưa chứng minh được đầy
đủ thiệt hại do tội phạm gây ra. Đối với các trường hợp này, Toà án chỉ thụ lý
để giải quyết phần dân sự khi đương sự có yêu cầu (có đơn yêu cầu hoặc đơn khởi
kiện) và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung theo quy định của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
6. Khi xét xử sơ thẩm một số vụ
án hình sự, Toà án đã quyết định xử phạt bị cáo đúng bằng thời gian tạm giam và
trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa. Việc quyết định như vậy có đúng hay
không và việc quyết định như vậy có ảnh hưởng gì tới quyền kháng cáo, kháng nghị
và việc ra quyết định thi hành án hay không?
Khi quyết định hình phạt, Toà án
cấp sơ thẩm căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình Tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy trong trường hợp
cụ thể đó xử phạt bị cáo mức hình phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam
là thoả đáng, thì Toà án cấp sơ thẩm có quyền xử phạt bị cáo đúng bằng thời
gian bị cáo đã bị tạm giam. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự
thì một trong những trường hợp Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả lại tự do ngay
tại phiên toà cho bị cáo đang bị tạm giam nếu họ không bị tạm giam về một tội
phạm khác khi thời hạn tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam; do đó, trong
trường hợp Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định xử phạt bị cáo đúng bằng thời gian
bị cáo bị tạm giam và tuyên bố trả lại tự do ngay cho bị cáo tại phiên toà, nếu
họ không bị tạm giam về một tội phạm khác là đúng với các quy định của pháp luật.
Việc quyết định như trên không
có ảnh hướng gì tới quyền kháng cáo, kháng nghị và việc ra quyết định thi hành
án. Những vấn đề này vẫn được thực hiện theo quy định chung của Bộ luật tố tụng
hình sự.
7. Người bị kết án làm đơn xin
hoãn thi hành án phạt tù với lý do ốm nặng. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên
ngành số 03/TTLN ngày 30-6-1993 thì trường hợp ốm nặng là người bị các bệnh
như: lao, ung thư, bại liệt... Nếu theo bệnh án của người bị kết án xin hoãn
thi hành án phạt tù thì họ bị bệnh khác (không phải là các bệnh nêu trên) với tỷ
lệ mất sức lao động là trên 70%. Trong trường hợp này có coi là họ ốm nặng để
cho họ hoãn thi hành án hay không?
Theo hướng dẫn tại Điểm d Mục 2
Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 30- 6-1993 của Toà án nhân dân tối cao - Bộ
Nội vụ- Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thực hiện một số quy định
của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù" thì: "một trong những lý do để Toà
án cho người bị kết án được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là
"người bị kết án ốm nặng". Người bị kết án ốm nặng là người bị kết án
bị đau ốm tới mức không thể đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành
hình phạt tù được. Việc đi chấp hành hình phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình
phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ và cần thiết phải cho họ được
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để cho họ có Điều kiện chữa bệnh
(như bị bệnh ung thư, bị lao nặng, bị bại liệt...)". Như vậy, theo hướng dẫn
trên đây thì không phải khi người bị kết án bị mắc một trong các bệnh: lao, ung
thư, bại liệt mới được coi là bị ốm nặng. Cần chú ý là ba loại bệnh đó chỉ là
ví dụ, nếu người bị kết án mắc phải, thì được coi là bị ốm nặng. Trong Thông tư
sau khi viện dẫn ba loại bệnh đó còn có ba dấu chấm (...). Điều đó có nghĩa là
ngoài ba loại bệnh đó còn có thể có nhiều loại bệnh khác (ví dụ như: xơ gan cổ
chướng, AIDS...), nếu người bị kết án mắc phải các bệnh này thì cũng có thể coi
là họ bị ốm nặng để xem xét cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, dù mắc phải bệnh gì, thì Điều kiện quyết định
để cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc được tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù là họ phải bị đau ốm tới mức không thể đi chấp hành hình
phạt tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù được, việc đi chấp hành hình phạt
tù hoặc tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng của họ.
Việc quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù trong các trường hợp
này là nhằm tạo cho họ có Điều kiện để chữa bệnh.
8. Khi hồ sơ vụ án do Viện kiểm
sát chuyển đến cho Toà án, nhưng cáo trạng chưa được tống đạt cho bị can thì
Toà án có nhận hồ sơ vụ án và vào sổ thụ lý hay không? Nếu Toà án nhận hồ sơ
thì Toà án có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn không?
1. Vấn đề có nhận hồ sơ vụ
án và vào sổ thụ lý hay không trong trường hợp này đã được hướng dẫn tại các Điểm
1 và 2 Thông tư liên ngành số 7/TTLN ngày 15-9-1990 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn việc giao nhận hồ sơ vụ án
hình sự"; cụ thể là "Đối với vụ án chỉ có bị can bị tạm giam thì
trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố Viện kiểm sát gửi đến
Toà án hồ sơ vụ án và quyết định truy tố cùng với biên bản về việc Viện kiểm
sát giao cáo trạng cho bị can. Nếu trong hồ sơ vụ án chưa có biên bản về việc
Viện kiểm sát giao cáo trạng cho bị can thì Toà án chưa nhận hồ sơ vụ án. Đối với
vụ án vừa có bị can đang bị tạm giam, vừa có bị can tại ngoại, cũng như vụ án
chỉ có bị can tại ngoại, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định
truy tố, Viện kiểm sát gửi đến Toà án hồ sơ vụ án và quyết định truy tố cùng với
biên bản giao cáo trạng cho bị can đang bị tạm giam, cũng như bị can tại ngoại.
Nếu Viện kiểm sát gặp khó khăn trong việc giao cáo trạng cho bị can tại ngoại,
thì chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày gửi cho Toà án hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát gửi
đến Toà án biên bản về việc Viện kiểm sát giao cáo trạng cho bị can tại ngoại.
Hết thời hạn đó, nếu Viện kiểm sát không gửi đến Toà án đủ các biên bản giao
cáo trạng cho bị can, thì Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát vì lý do chưa hoàn
thành thủ tục tố tụng" (Xem cuốn các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế
và tố tụng; năm 1990; trang 164-165).
2. Việc hướng dẫn Toà án nhận hồ
sơ vụ án trong trường hợp có bị can tại ngoại và Viện kiểm sát gặp khó khăn
trong việc giao cáo trạng cần được hiểu là Toà án tạm thời nhận hồ sơ chờ Viện
kiểm sát hoàn thành thủ tục tố tụng. Trong trường hợp này Toà án chỉ vào sổ
theo dõi mà chưa thụ lý vụ án. Toà án chỉ thụ lý vụ án và phân công Thẩm phán
làm chủ toạ phiên toà sau khi Viện kiểm sát đã hoàn thành thủ tục tố tụng (sau
khi nhận được biên bản bàn giao cáo trạng cho bị can). Chỉ khi có căn cứ khẳng
định được rằng bị can đã nhận được cáo trạng, Tòa án đã thụ lý vụ án, thì Toà
án mới có quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn.
9. Một người thực tế có tham gia
vào việc phạm tội nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 và Điều 25 Bộ luật hình sự năm
1999 (Ví dụ: Trẻ em từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi không chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng theo quy định tại Khoản
2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc họ có thể là bị đơn dân sự hoặc người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nếu như xét thấy sự có mặt của họ tại
phiên toà là cần thiết để khai báo và đối chất với các bị cáo trong vụ án, Tòa
án đã triệu tập họ hợp lệ đến lần thứ 2 mà họ vẫn cố tình vắng mặt không có lý
do chính đáng, thì có thể dẫn giải họ đến phiên toà được không? Nếu được thì áp
dụng Điều Khoản nào của Bộ luật tố tụng hình sự và cơ quan nào được quyền ra lệnh
dẫn giải, cơ quan nào thi hành lệnh dẫn giải?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều
43 Bộ luật tố tụng hình sự thì "người nào biết được những tình Tiết có
liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng". Như vậy, đối
với trường hợp một người thực tế có tham gia thực hiện tội phạm nhưng không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự (do chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm đã thực hiện) hoặc được miễn trách nhiệm hình sự, thì họ không những
có thể là bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
mà họ còn có thể là người làm chứng; vì vậy, nếu xét thấy sự có mặt của họ tại
phiên toà là cần thiết để khai báo và đối chất với các bị cáo trong vụ án, thì
Tòa án có thể triệu tập họ đến phiên toà với tư cách là người làm chứng. Trong
trường hợp họ đã được Toà án triệu tập, nhưng cố ý không đến mà không có lý do
chính đáng thì theo quy định tại Khoản 4 Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự họ có
thể bị dẫn giải đến phiên toà. Việc dẫn giải người làm chứng đến phiên toà đã
được hướng dẫn tại Điểm 2 Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 20-3-1993 của
TANDTC, VKSNDTC, BNV, BTP "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa
đổi, bổ sung một số Điều của BLTTHS"; cụ thể là: "... Trong trường hợp...
Toà án ra quyết định dẫn giải người làm chứng, thì quyết định đó được gửi cho
Thủ trưởng cơ quan công an cùng cấp. Cơ quan công an có trách nhiệm dẫn giải
người làm chứng đến đúng thời gian, địa Điểm ghi trong quyết định..." (Xem
cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; Toà án nhân dân tối
cao xuất bản năm 1995; trang 106, 107).
10. Hiện nay ở địa phương có hai
quan Điểm trái ngược nhau về một vấn đề như sau:
- Quan Điểm thứ nhất cho rằng: ở
giai đoạn Điều tra chỉ có những người là Điều tra viên mới được quyền tiến hành
tố tụng, thu thập các chứng cứ (như hỏi cung bị can, ghi lời khai của người bị
hại hoặc nhân chứng...); còn những tình Tiết có liên quan đến vụ án được thu thập
bởi những người không phải là Điều tra viên thì không phải là chứng cứ pháp lý
được quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Quan Điểm thứ hai cho rằng: những
cán bộ cảnh sát hình sự hoặc phó (trưởng) công an xã, phường, thị trấn cũng có
thể ghi lời khai của người bị hại hoặc nhân chứng... thu thập vật chứng... và
các tài liệu đó cũng được xem là chứng cứ.
Trong hai quan Điểm trên thì
quan Điểm nào là đúng?
Trước hết cần chú ý là không phải
bất cứ biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của người bị hại, biên bản
ghi lời khai của nhân chứng... (mặc dù do Điều tra viên thực hiện) đều được coi
là chứng cứ. Chỉ được coi là chứng cứ những gì có thật, được thu thập theo
trình tự do Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình Tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết vụ án đúng đắn. Ví dụ: Biên bản ghi lời khai của một người được Điều tra
viên xác định là người làm chứng, nhưng sự thực người đó không biết bất cứ tình
Tiết nào có liên quan đến vụ án, thì biên bản ghi lời khai của người này không
phải là chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 49 Bộ luật
tố tụng hình sự thì: "Để thu thập chứng cứ, cơ quan Điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án có quyền... yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài
liệu, trình bày những tình Tiết làm sáng tỏ vụ án" (Khoản 1) và "...
cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và
trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án" (Khoản 2). Đồng thời theo
quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự thì: "những tình Tiết có liên
quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
cung cấp có thể được coi là chứng cứ. Trong trường hợp những tài liệu này có những
dấu hiệu quy định tại Điều 56 Bộ luật này thì được coi là vật chứng". Do
đó, trong các trường hợp cán bộ cảnh sát hình sự, Trưởng hoặc Phó trưởng công
an xã, phường, thị trấn trong khi thực hiện công vụ đã tiến hành lập biên bản về
việc vi phạm pháp luật, ghi lời khai của người bị hại hoặc người làm chứng...
và chuyển cho cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án thì các tài liệu này
cũng được coi là chứng cứ, nếu đáp ứng các Điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều
48 Bộ luật tố tụng hình sự.
11. Cách xác định ngày, tháng
sinh của bị can, bị cáo, người bị hại chưa thành niên như thế nào để xem xét
trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong trường hợp các cơ quan tiến
hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp nhưng vẫn không xác định được?
Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định: "Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện
pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những
tình Tiết tăng nặng và những tình Tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc
phải chứng minh là mình vô tội".
Như vậy, theo tinh thần quy định
trên đây trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo,
người bị hại thì về nguyên tắc chung các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng
phương pháp nào xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo chính xác và có
lợi cho bị can, bị cáo; do đó, trong trường hợp này cần xác định ngày, tháng
sinh của bị can, bị cáo, người bị hại chưa thành niên như sau:
1. Cách xác định ngày, tháng
sinh của bị can, bị cáo chưa thành niên.
a- Nếu xác định được tháng cụ thể,
nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của
tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với
bị can, bị cáo;
b- Nếu xác định được quý cụ thể
của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối
cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét
trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
c- Nếu xác định được cụ thể nửa
đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu
năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của
năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với
bị can, bị cáo;
d- Nếu không xác định được nửa
năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày
sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
2. Cách xác định ngày, tháng
sinh của người bị hại chưa thành niên.
a- Nếu xác định được tháng cụ thể,
nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của
tháng đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với
bị can, bị cáo;
b- Nếu xác định được quý cụ thể
của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mồng
một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách
nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
c- Nếu xác định được cụ thể nửa
đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào của nửa đầu
năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày mồng một tháng giêng hoặc ngày mồng một tháng
7 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm
hình sự đối với bị can, bị cáo;
d- Nếu không xác định được nửa
năm nào, quý nào, tháng nào trong năm, thì lấy ngày mồng một tháng giêng của
năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị
can, bị cáo.
12. Đề nghị hướng dẫn về thủ tục
Điều chỉnh hình phạt tù đối với các bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị trong
trường hợp Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án và người
bị kết án đang chấp hành hình phạt tù, nhưng lại được Toà án cấp phúc thẩm giảm
hình phạt tù theo quy định tại Khoản 2 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự?
Không cần phải có bất kỳ thủ tục
nào Điều chỉnh hình phạt tù, quyết định thi hành án phạt tù đối với bị cáo
không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp Chánh án
Toà án đã xét xử sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án phạt tù và họ đang chấp
hành hình phạt tù, nhưng lại được Tòa án cấp phúc thẩm giảm án theo quy định tại
Khoản 2 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự, bởi vì việc Chánh án Toà án đã xét xử
sơ thẩm đã ra quyết định thi hành án phạt tù là đúng. Việc tính thời hạn chấp
hành hình phạt tù cho người bị kết án trong trường hợp này cũng được thực hiện
tương tự như trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù được giảm thời
hạn chấp hành hình phạt tù. Cụ thể là Toà án cấp phúc thẩm trực tiếp hoặc thông
qua Toà án cấp sơ thẩm gửi cho cơ quan thi hành án phạt tù, người bị kết án bản
sao bản án phúc thẩm để thi hành. Cơ quan thi hành án sẽ lưu bản sao bản án
phúc thẩm này vào hồ sơ thi hành án và căn cứ vào bản sao bản án phúc thẩm này
để tính thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án.
Đối với Toà án cấp phúc thẩm cần
chú ý là trong trường hợp bị cáo bị phạt tù và đang chấp hành hình phạt tù mà
Toà án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và hình phạt này bằng hoặc
ngắn hơn thời hạn họ đã chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cấp phúc thẩm cần
tuyên bố trong bản án là trả tự do ngay cho bị cáo, nếu họ không bị tạm giữ, tạm
giam về hành vi vi phạm pháp luật khác.
13. Trường hợp bị cáo bỏ trốn,
cơ quan công an đã ra lệnh truy nã nhưng không có kết quả; Toà án xét xử vắng mặt
bị cáo và ra quyết định thi hành án phạt tù nhưng không bắt được bị cáo; trường
hợp này Toà án có phải yêu cầu cơ quan công an ra lệnh truy nã mới để bắt người
bị kết án đi chấp hành hình phạt tù hay không?
Theo tinh thần quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, cũng như tinh thần hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số
03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Nội vụ, thì thẩm quyền ra quyết định (lệnh) truy nã và quyết định đình
nã là của cơ quan Điều tra. Quyết định (lệnh) truy nã chỉ hết hiệu lực khi người
bị truy nã đã chết hoặc bị bắt giữ theo quyết định (lệnh) truy nã hoặc trong
trường hợp có quyết định đình nã của cơ quan Điều tra; do đó, trong trường hợp
bị cáo bỏ trốn, cơ quan công an đã ra quyết định (lệnh) truy nã nhưng không có
kết quả và Toà án xét xử vắng mặt bị cáo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự và hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN nói trên, thì khi bản
án sơ thẩm của Toà án có hiệu lực pháp luật Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm ra
quyết định thi hành án và gửi cho cơ quan thi hành án phạt tù cùng bản sao bản
án này mà không cần phải yêu cầu cơ quan Điều tra ra quyết định (lệnh) truy nã
mới.
14. Điều 276 Bộ luật tố tụng
hình sự quy định: "Trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại cơ
quan Điều tra phải có mặt đại diện của gia đình bị can...". Vậy "trường
hợp cần thiết" là những trường hợp như thế nào để có căn cứ xác định có sự
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không?
Việc quy định (hoặc hướng dẫn) cụ
thể những trường hợp nào là trường hợp cần thiết mà khi thuộc một trong những
trường hợp đó việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra phải có mặt đại diện của
gia đình bị can là rất quan trọng, bởi lẽ để căn cứ vào đó mà Viện kiểm sát,
Toà án xác định có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không. Tuy
nhiên, do Bộ luật tố tụng hình sự chưa có quy định cụ thể và Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng cũng chưa có hướng dẫn, đồng thời theo quy định tại Khoản 1 Điều 276 Bộ
luật tố tụng hình sự, thì đại diện của gia đình bị can, bị cáo có quyền và
nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan Điều tra; do đó, việc đánh
giá trường hợp nào là "trường hợp cần thiết" hiện nay phụ thuộc vào
đánh giá của cơ quan Điều tra. Vì vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như
tại phiên toà, nếu theo đánh giá của Toà án thì trường hợp đó có thể được coi
là trường hợp cần thiết, nhưng việc hỏi cung bị can tại cơ quan Điều tra không
có mặt đại diện của gia đình bị can (do cơ quan Điều tra đánh giá trường hợp
này không phải là trường hợp cần thiết), thì Toà án không được trả hồ sơ để Điều
tra bổ sung với lý do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
15. Hội thẩm nhân dân là giáo
viên đã nghỉ hưu có thể tham gia thành phần Hội đồng xét xử đối với bị cáo vị
thành niên theo như quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự được
hay không?
Khi xét xử sơ thẩm mà bị cáo là
người chưa thành niên, thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng
hình sự "thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo
viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh".
Khái niệm "giáo viên"
quy định tại Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự cần được hiểu là những
"nhà giáo" - những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường hoặc các cơ sở giáo dục khác, kể cả trong trường hợp họ đã nghỉ hưu.
16. Trường hợp bị cáo là người
chưa thành niên đã bỏ nhà đi khỏi địa phương, nhiều năm đến địa phương khác,
không có nơi ở nhất định, gia đình bị cáo cũng đã chuyển đi không còn ai ở địa
phương nơi bị cáo sinh ra. Chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú trước đây
cũng như tại nơi bị cáo đến đều trả lời không biết bị cáo là ai nên họ không
tham gia làm đại diện. Trong trường hợp này việc áp dụng Khoản 1 Điều 276 Bộ luật
tố tụng hình sự như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại
Điểm 6 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 20-6-1992 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ "Hướng dẫn thực hiện một số
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về lý lịch của bị can, bị cáo"; cụ thể:
"Theo quy định ở Điều 276 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà xét xử
bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại
diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội nơi bị cáo học tập, lao động và sinh sống.
Tuy nhiên, trong trường hợp không xác minh được lý lịch của bị cáo thì tại
phiên toà xét xử không nhất thiết phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại
diện của nhà trường hoặc tổ chức xã hội". (Xem Cuốn các văn bản về hình sự,
dân sự, kinh tế và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1992; trang
144). Như vậy, trong trường hợp này, Toà án chỉ cần yêu cầu Đoàn luật sư cử người
bào chữa cho bị cáo theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 37 và Điều 275 Bộ luật
tố tụng hình sự.
17. Nếu tại phiên toà Hội đồng
xét xử thấy cần khởi tố vụ án do phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội
mới cần phải Điều tra thì hình thức quyết định khởi tố vụ án bằng một quyết định
khởi tố vụ án riêng hay ghi thành một Điểm trong phần quyết định của bản án? Dù
bằng hình thức nào thì việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định này như thế
nào?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều
87 Bộ luật tố tụng hình sự, thì "...Toà án ra quyết định khởi tố vụ án nếu
qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới
cần phải Điều tra". Khoản 3 Điều này quy định "Trong thời hạn 24 giờ...
quyết định khởi tố của Toà án được gửi đến Viện kiểm sát để xem xét, quyết định
việc Điều tra". Đồng thời theo quy định về nội dung bản án tại Điều 198 Bộ
luật tố tụng hình sự thì trong bản án không có việc xem xét quyết định khởi tố
vụ án. Như vậy, theo các quy định này thì việc Toà án khởi tố vụ án tại phiên
toà là bằng một quyết định khởi tố vụ án riêng mà không được ghi thành một Điểm
trong phần quyết định của bản án.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều
91 Bộ luật tố tụng hình sự thì "trong trường hợp quyết định khởi tố của
Toà án không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Toà án cấp trên".
Cần chú ý là theo quy định tại Điều
87 Bộ luật tố tụng hình sự thì cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều
có quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Đồng thời theo quy định tại Khoản 2 Điều
213 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ có quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án của Toà án cấp sơ thẩm mới có thể bị kháng cáo (trừ quyết định về việc áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì việc kháng cáo hoặc kháng nghị đối với quyết định
này được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm); do đó, đối với quyết định khởi
tố vụ án của Toà án thì không người nào có quyền kháng cáo.
18. Tại phiên toà phúc thẩm nếu
những người tham gia tố tụng hoặc Viện kiểm sát đề nghị hoãn phiên toà vì chưa
được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 210 Bộ luật
tố tụng hình sự thì giải quyết như thế nào, có phải hoãn phiên toà theo Điều
168a Bộ luật tố tụng hình sự không?
Khoản 1 Điều 210 Bộ luật tố tụng
hình sự chỉ quy định Toà án cấp sơ thẩm thông báo cho Viện kiểm sát mà không quy
định cụ thể là Viện kiểm sát nào (Viện kiểm sát cùng cấp hay Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp của Viện kiểm sát cùng cấp). Tinh thần của quy định này cần được
hiểu là Viện kiểm sát cùng cấp. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng
hình sự thì: "Tại phiên toà phúc thẩm sự tham gia của kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp là bắt buộc; nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên toà". Đồng
thời theo hướng dẫn tại Mục 3 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày
8-12-1988 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng
dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự" thì: "Để
tạo Điều kiện cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm có tài liệu tham gia phiên toà,
khi gửi hồ sơ kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp sơ thẩm cần gửi thêm một bản
sao bản án cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (bản này không đánh số thứ tự các
tài liệu trong hồ sơ).
Để cả hai bên đều được chủ động
thời gian nghiên cứu hồ sơ, trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Toà án
cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên cứu
trước. Thời gian nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cấp tỉnh là 10 ngày, của Viện
phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 20 ngày. Viện kiểm sát phải hoàn trả
hồ sơ cho Toà án trong thời hạn đó". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân
sự và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; trang 138).
Mặt khác theo quy định tại Điều
214 Bộ luật tố tụng hình sự thì "Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể
xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án". Điều này
có nghĩa là khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm
sát cấp phúc thẩm cũng phải nghiên cứu các phần khác không bị kháng cáo, kháng
nghị của bản án sơ thẩm; do đó, nếu Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đề nghị hoãn
phiên toà vì chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị là không đúng
tinh thần quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các hướng dẫn của Thông tư
liên ngành nói trên.
Đối với những người tham gia tố
tụng liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị mà xin hoãn phiên tòa với lý do
chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị thì theo quy định tại Khoản 1
Điều 210 Bộ luật tố tụng hình sự "Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo cho họ
biết"; do đó, nếu họ có yêu cầu xin hoãn phiên toà thì Toà án cấp phúc thẩm
chấp nhận yêu cầu của họ về việc xin hoãn phiên toà đó, đồng thời thông báo
luôn cho họ biết về việc kháng cáo, kháng nghị.
Thời hạn hoãn phiên toà phúc thẩm
theo quy định tại Khoản 2 Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự là không được quá 30
ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà.
19. Tại phiên toà trong phần xét
hỏi thấy có những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại
phiên toà được, thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ
sung không? Nếu được thì đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó được
giải quyết như thế nào?
Mặc dù trong phần xét xử sơ thẩm
của Bộ luật tố tụng hình sự không có Điều luật quy định cụ thể về việc Hội đồng
xét xử quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung như Điều 154 quy định thẩm quyền
của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, Điều đó không có
nghĩa là tại phiên toà sơ thẩm, khi thấy có một trong các trường hợp quy định tại
Khoản 1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử không được ra quyết định
trả hồ sơ để Điều tra bổ sung. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 173 Bộ luật tố tụng
hình sự thì một trong các quyết định mà Hội đồng xét xử phải thảo luận và thông
qua tại phòng nghị án, đó là quyết định yêu cầu Điều tra bổ sung. Điều đó có
nghĩa là tại phiên toà khi xét thấy có một trong các trường hợp quy định tại Khoản
1 Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 173
Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định trả hồ sơ để Điều tra bổ sung.
Theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần I
Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8-12-1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự" thì: "khi Toà án trả hồ sơ để Viện kiểm sát Điều tra
bổ sung, thì Toà án xoá sổ thụ lý, Viện kiểm sát ghi việc Toà án trả hồ sơ vào
sổ thụ lý của mình. Khi nhận lại hồ sơ, Toà án thụ lý lại. Ngày chuyển hồ sơ
cho Viện kiểm sát và ngày thụ lý lại cũng được đóng dấu (hoặc ghi) vào bìa hồ
sơ"; do đó, đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử trước đó Toà án không
phải giải quyết gì, mà vẫn được lưu trong hồ sơ vụ án. Sau khi Viện kiểm sát đã
Điều tra bổ sung hoặc không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu Điều
tra bổ sung và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án thì Toà án thụ lý lại và giải quyết
vụ án theo thủ tục chung. Theo hướng dẫn tại Mục II Thông tư liên ngành nói
trên thì "... khi nhận lại hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, Toà án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử" (xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng;
Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; trang 135).
20. Điều 28 Bộ luật tố tụng hình
sự quy định những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng. Thực tế có
trường hợp Luật sư và Thư ký phiên toà có quan hệ là cha con ruột thì có coi là
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không?
Nếu không có căn cứ rõ ràng nào
khác (ngoài các căn cứ quy định tại các Điểm 1 và 2 Điều 28, Điều 33 Bộ luật tố
tụng hình sự), mặc dù trong vụ án giữa người tiến hành tố tụng là Thư ký phiên
toà và người tham gia tố tụng là Luật sư (người bào chữa) có quan hệ ruột thịt
(cha con, anh em ruột...) thì Thư ký phiên toà không thuộc một trong các trường
hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều
35 Bộ luật tố tụng hình sự thì Luật sư không được bào chữa. Nếu Toà án chấp nhận
họ là người bào chữa là vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 35 Bộ luật tố
tụng hình sự, tức là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy có Luật sư đã tham gia bào chữa cho bị can từ giai đoạn Điều tra (hoặc
bào chữa cho bị cáo từ giai đoạn sơ thẩm) và tiếp tục bào chữa cho bị cáo tại
phiên toà sơ thẩm (hoặc bào chữa cho bị cáo tại phiên toà phúc thẩm) thì trong
trường hợp này để tạo thuận lợi cho Luật sư và bảo đảm quyền bào chữa của bị
cáo, Toà án không phân công người thân thích của Luật sư làm Thư ký phiên toà.
Nếu đã phân công thì cần thay đổi người khác làm Thư ký phiên toà.
21. Bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm
phạt tù và phạt tiền là hình phạt bổ sung. Chỉ có bị cáo kháng cáo xin được hưởng
án treo. Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên hoặc giảm mức
hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời tăng mức hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung. Toà án cấp phúc thẩm quyết định như vậy có đúng hay
không?
Trong trường hợp này chỉ có
kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo và Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên
(hoặc giảm) mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo là theo hướng
có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên việc Toà án cấp phúc thẩm tăng mức hình phạt tiền
là hình phạt bổ sung khi không có kháng nghị của Viện kiểm sát là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại Khoản 3 Điều 221 Bộ luật tố tụng hình
sự.
22. Việc xét giảm thời gian thử
thách của án treo được tiến hành như thế nào? Thành phần của Hội đồng xét giảm
thời gian thử thách của án treo gồm những ai?
Trước đây về Điều kiện, thủ tục
và thành phần Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo đã được hướng dẫn
cụ thể tại Mục VIII Nghị quyết số 1/HĐTP ngày 18-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự"
(xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng tập 2; năm 1992; tr.13).
Quy định về án treo trong Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản không có gì khác
quy định về án treo trong Bộ luật hình sự năm 1985; do đó, Điều kiện, thủ tục
và thành phần Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo vẫn được thực
hiện theo hướng dẫn trong Nghị quyết số 1/HĐTP nói trên. Cần lưu ý là ở những
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực
nếu có đủ Thẩm phán thì Hội đồng xét giảm thời gian thử thách của án treo là ba
Thẩm phán; nếu không có đủ ba Thẩm phán thì thành phần Hội đồng xét giảm thời
gian thử thách của án treo là hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân (hoặc Hội
thẩm quân nhân).
23. Đối với các vụ án về các tội
chiếm đoạt nếu theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự là
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng trong vụ án có người
bị hại hoặc nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài, thì
Toà án cấp nào có thẩm quyền xét xử?
Không chỉ đối với các vụ án về
các tội chiếm đoạt, mà đối với tất cả các loại vụ án nói chung, nếu theo quy định
tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự là thuộc thẩm quyền xét xử của Toà
án nhân dân cấp huyện, nhưng trong vụ án có bị cáo, người bị hại, người có quyền
lợi hoặc nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức
nước ngoài, thì căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành là thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
24. Hiện nay vừa có các Đoàn luật
sư vừa có các Văn phòng luật sư. Vậy trong các trường hợp pháp luật quy định bắt
buộc phải có Luật sư bào chữa cho bị cáo, thì Toà án yêu cầu Đoàn luật sư hay
yêu cầu Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo?
Theo tinh thần quy định tại Khoản
2 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong các trường hợp pháp luật quy định bắt
buộc phải có Luật sư bào chữa cho bị cáo, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không mời người bào chữa, thì Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo. Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư mà không phải là Văn
phòng luật sư, bởi vì Đoàn luật sư là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, còn Văn
phòng luật sư là tổ chức hoạt động kinh doanh, dịch vụ tư vấn pháp lý.
25. Người bị kết án là phụ nữ
đang chấp hành hình phạt tù, nhưng phát hiện là có thai và được Ban giám thị trại
giam đề nghị Toà án cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì Toà án có chấp
nhận không?
Theo quy định tại Điều 61 và Điều
62 Bộ luật tố tụng hình sự, thì phụ nữ đang có thai là một trong các trường hợp
có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; do đó, khi người bị kết án là
phụ nữ đang chấp hành hình phạt tù, nhưng phát hiện có thai, nếu Ban giám thị
trại giam đề nghị Toà án cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, thì nói chung
Toà án nên chấp nhận cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trừ các
trường hợp sau đây:
a) Nếu xét thấy cho họ được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì họ lại tiếp tục phạm tội;
b) Họ không có nơi cư trú nhất định;
c) Họ bị xử phạt tù từ 10 năm trở
lên về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
III. VỀ
DÂN SỰ
1. Về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 627
Bộ luật dân sự được xác định như thế nào?
a. Khoản 2 Điều 627 Bộ luật dân
sự quy định về chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra. Trước đây Toà án nhân dân tối cao tạm hướng dẫn là: "Nếu
chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, hoặc giao cho người khác sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ, thì chủ sở hữu và người chiếm hữu hoặc người sử dụng phải
chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra" (Xem Cuốn giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính và tố tụng; Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1999; trang 111).
Nay Toà án nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn như sau:
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu chủ sở hữu vẫn
chiếm hữu, sử dụng.
- Người được chủ sở hữu giao cho
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu,
sử dụng có thoả thuận khác. Thoả thuận khác không được trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường (ví dụ: chủ sở hữu và người
được giao chiếm hữu, sử dụng thoả thuận cùng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường
thiệt hại; thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được
giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu Khoản tiền đã bồi thường;
thoả thuận ai có Điều kiện hơn thì người đó bồi thường thiệt hại trước...)
b. Khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân
sự quy định các trường hợp phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Theo quy định tại Khoản 3 này
thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ thiệt hại xảy ra hoàn
toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại (ví dụ một người đâm đầu vào xe ô tô để
tự tử), thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết thì thực hiện
theo quy định đó của pháp luật.
c. Khoản 4 Điều 627 Bộ luật dân
sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao gây ra
trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Về nguyên tắc chung nếu chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi
trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã
thực hiện đầy đủ các quy định về bảo quản, sử dụng... nguồn nguy hiểm cao độ),
thì chỉ người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ mà gây
thiệt hại phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi (Ví dụ: để xe ô tô bên vệ đường
không khoá và không rút chìa khoá khỏi ổ điện...) để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật và gây thiệt hại, thì phải liên đới cùng với
người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại.
2. Việc quyết định bồi thường
thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại Điều 616 Bộ luật dân
sự được thực hiện theo phương thức nào, bởi vì thực tiễn cho thấy có Toà án quyết
định bồi thường hàng tháng, có Toà án quyết định bồi thường một lần...?
Điều 616 Bộ luật dân sự chỉ quy
định thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm
(bao gồm bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn
khả năng lao động; tiền cấp dưỡng trong trường hợp người bị thiệt hại chết).
Khi giải quyết yêu cầu đối với các Khoản này, trước hết Toà án cần tiến hành
hoà giải; nếu qua hoà giải mà các bên thoả thuận được với nhau về phương thức bồi
thường thiệt hại nào (hàng tháng, hàng quý, hàng năm hoặc một lần) thì Toà án
chấp nhận sự thoả thuận của các bên về phương thức bồi thường thiệt hại đó. Trường
hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức bồi thường
thiệt hại hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, nếu người được bồi thường thiệt
hại hoặc người được cấp dưỡng yêu cầu được bồi thường hoặc cấp dưỡng theo
phương thức một lần và xét thấy yêu cầu của họ là chính đáng và người phải bồi
thường, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có Điều kiện thi hành án thì Toà án có thể
quyết định phương thức một lần.
3. Khi giải quyết các tranh chấp
về cho vay ngoại tệ có lãi thì đối với phần lãi cần quyết định như thế nào?
Theo quy định của pháp luật hiện
hành thì các giao dịch giữa các cá nhân về việc vay ngoại tệ có lãi là vô hiệu;
do đó, khi có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án áp dụng Điều
146 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả cho bên cho vay số nợ gốc (tính ra tiền
Việt Nam tại thời Điểm xét xử sơ thẩm). Đối với Khoản lãi nếu bên vay đã trả
cho bên cho vay thì phải tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước; nếu chưa trả thì
không tuyên tịch thu.
4. Khi có các yêu cầu chia tài sản
chung là nhà mặt phố có diện tích hẹp, nhưng có địa thế kinh doanh tốt thì cần
giải quyết thế nào?
Về nguyên tắc chúng ta phải tuân
theo quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự về chia tài sản thuộc sở hữu chung. Để
có quyết định đúng Toà án cần Điều tra xem xét cụ thể nhà ở. Nếu các đương sự đều
có yêu cầu chia tài sản chung và tài sản chung đó có thể chia được để sử dụng
kinh doanh, cho thuê lại (vẫn bảo đảm Điều kiện sinh hoạt tối thiểu và sự độc lập
của mỗi chủ sở hữu sau khi chia) thì Toà án quyết định chia tài sản chung. Nếu
tài sản chung là nhà ở đó không thể chia được (không bảo đảm Điều kiện sinh hoạt
tối thiểu và sự độc lập của mỗi chủ sở hữu sau khi chia) thì Toà án cho định
giá tài sản thành tiền theo giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương vào thời Điểm
xét xử sơ thẩm để chia.
5. Khi giải quyết việc ly hôn và
có yêu cầu phân chia tài sản mà có trường hợp người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ
chồng họ nợ người khác, thì có đưa những người đó vào tham gia tố tụng không?
Khi giải quyết việc ly hôn và có
yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người
khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc
người nợ phải trả nợ cho họ;
- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng
họ phải trả nợ cho chủ nợ.
- Chủ nợ chưa có yêu cầu vợ chồng
họ phải trả nợ cho chủ nợ.
6. Người có công với cách mạng
được Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho một Khoản tiền. Nay người đó đã chết, nếu
xảy ra tranh chấp đòi chia số tiền đó và có yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây
là vụ án chia thừa kế hay vụ án dân sự khác?
Tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ
thể mà xác định đó là vụ án gì; cụ thể như sau:
a. Trong các trường hợp sau đây
là tranh chấp chia thừa kế, nếu có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án thụ lý
để giải quyết theo thủ tục chung như đối với vụ án chia thừa kế:
- Nếu Khoản tiền đó là Nhà nước
trợ cấp hay hỗ trợ cho chính người có công với cách mạng và người đó đã nhận được
khi còn sống, nhưng sau khi chết còn để lại số tiền đó hoặc tài sản được tạo lập
từ số tiền đó và những người thân thích của người đó có tranh chấp;
- Nếu Khoản tiền đó là Nhà nước
trợ cấp hay hỗ trợ cho chính người có công với cách mạng, nhưng sau khi người
đó chết, thì những người thân thích của người đó mới nhận được và giữa họ có
tranh chấp.
b. Trong trường hợp Khoản tiền
đó là Nhà nước trợ cấp hay hỗ trợ cho những người thân thích của người có công
với cách mạng và giữa họ có tranh chấp, đồng thời có yêu cầu Toà án giải quyết,
thì đây là vụ án dân sự về yêu cầu chia tài sản chung, nhưng cần chú ý:
- Nếu trong văn bản, tài liệu về
trợ cấp, hỗ trợ có ghi rõ trợ cấp hay hỗ trợ cho người nào cụ thể, thì chỉ những
người có tên trong văn bản, tài liệu đó mới được hưởng.
- Nếu trong văn bản, tài liệu về
trợ cấp, hỗ trợ không ghi rõ trợ cấp hay hỗ trợ cho người nào cụ thể mà chỉ ghi
trợ cấp, hỗ trợ cho thân nhân của người có công với cách mạng, thì cần căn cứ
vào văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước quy định về đối tượng, Điều kiện được
hưởng trong việc thực hiện chính sách cụ thể đó để xác định thân nhân của người
có công với cách mạng trong việc thực hiện trợ cấp, hỗ trợ cụ thể này bao gồm
những ai. Chỉ những người thuộc đối tượng và có đủ Điều kiện đã quy định mới được
hưởng.
7. Trong trường hợp hai bên nam
nữ kết hôn với nhau nhằm Mục đích để được xuất cảnh đi nước ngoài hoặc để được
nhập hộ khẩu, nếu đương sự có đơn xin ly hôn thì Toà án huỷ việc kết hôn trái
pháp luật hay xử cho ly hôn?
Theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 thì nếu việc kết hôn vi phạm một trong các quy định tại Điều
9 và Điều 10 của Luật này là trái pháp luật và nếu dù một trong các bên hoặc cả
hai bên có đơn xin ly hôn, thì tuỳ từng trường hợp vi phạm mà Toà án áp dụng Điều
9, Điều 10 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 huỷ việc kết hôn trái
pháp luật.
Trong trường hợp hai bên nam nữ
kết hôn với nhau mặc dù chỉ với Mục đích để được xuất cảnh đi nước ngoài hoặc để
được nhập hộ khẩu nhưng không vi phạm một trong các Điều 9, Điều 10 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, nay đương sự xin ly hôn thì Tòa án thụ lý và giải
quyết vụ án xin ly hôn theo thủ tục chung.
8. Trường hợp nam, nữ bắt đầu
chung sống với nhau như vợ chồng trong Khoảng thời gian từ ngày 03-01-1987 đến
ngày 01-01-2001 và đến nay họ có yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Khi giải
quyết vụ án Toà án nhận thấy họ không đủ Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Toà án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng
hay tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật?
Điểm b Mục 3 Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của Quốc hội "Về việc thi hành Luật hôn nhân và
gia đình" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 35 của Quốc hội) quy định:
"Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày
01-01-2001 mà có đủ Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến
ngày 01-01-2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu
ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 để giải quyết".
Theo quy định trên đây Toà án áp
dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết
việc ly hôn khi có yêu cầu nếu có đủ các Điều kiện sau đây:
a. Nam và nữ chung sống với nhau
như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2001 và đang chung sống với nhau
như vợ chồng (Thế nào là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng đã được hướng
dẫn tại Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP
ngày 3-1-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp "Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9-6-2000 của
Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình").
b. Việc họ chung sống với nhau
như vợ chồng có đủ các Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 (Thế nào là vi phạm Điều kiện kết hôn đã được hướng dẫn tại Điểm
d Mục 2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000").
Như vậy, trong trường hợp họ
không có đủ các Điều kiện a và b trên đây thì quan hệ của họ không được coi như
quan hệ vợ chồng, nếu họ có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng Điểm b Khoản 3
Nghị quyết số 35 của Quốc hội tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng mà
không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật, bởi vì họ không có đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp này nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng Khoản
2 và Khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
IV. VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Trong trường hợp có đương sự
đề nghị trưng cầu giám định, nhưng họ lại không nộp tiền tạm ứng chi phí về
giám định thì Toà án giải quyết như thế nào?
Trong trường hợp này Toà án cần
giải thích cho đương sự có đề nghị trưng cầu giám định biết quy định tại Điều
33 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; cụ thể là: "Đương sự đã
đề nghị trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí về giám định; nếu vì
họ không nộp mà việc giám định không được tiến hành thì Toà án có thể căn cứ
vào kết quả Điều tra đã đạt được để giải quyết vụ án hoặc tự mình trưng cầu
giám định". Nếu Toà án đã giải thích mà đương sự không nộp tiền tạm ứng
chi phí về giám định và vì thế việc giám định không thể tiến hành được, thì Toà
án có thể tự mình trưng cầu giám định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong tố tụng
dân sự trách nhiệm chứng minh là của đương sự cho nên thông thường Toà án không
tự mình trưng cầu giám định, song Toà án cần tiến hành mọi biện pháp có thể để Điều
tra, thu thập chứng cứ và căn cứ vào kết quả Điều tra, thu thập chứng cứ đã đạt
được để giải quyết vụ án.
2. Tại Điểm 5 Phần II Nghị quyết
số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
"Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự" có hướng dẫn: "Trước khi xét xử phúc thẩm Toà án cũng tiến
hành hoà giải...". Thực tiễn xét xử cho thấy trước khi xét xử phúc thẩm
các Toà án cấp phúc thẩm thường không tiến hành hoà giải. Vậy có vi phạm thủ tục
tố tụng không?
Trước đây Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao có hướng dẫn: "trước khi xét xử phúc thẩm Toà án cũng
tiến hành hoà giải...". Hướng dẫn này không cụ thể là có bắt buộc hay
không? Nay Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về vấn đề này như sau:
Theo quy định tại Điều 65 Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì trước khi xét xử phúc thẩm Toà án
"có quyền" hoà giải. Như vậy theo tinh thần của quy định này thì trước
khi xét xử phúc thẩm không bắt buộc Toà án cấp phúc thẩm phải tiến hành hoà giải.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự thì: "Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để
giúp các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, trừ những trường hợp
không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải"; do đó,
sau khi thụ lý vụ án để tiến hành giải quyết theo trình tự phúc thẩm, Toà án cấp
phúc thẩm nên tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án (trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định
không được hoà giải). Trong trường hợp trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành
hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
lập biên bản hoà giải thành. Trong trường hợp tại phiên toà, Toà án tiến hành
hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
không cần phải lập biên bản hoà giải thành, nhưng phải ghi đầy đủ vào biên bản
phiên toà. Tuy nhiên, cần chú ý là dù trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành
hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
Toà án cấp phúc thẩm cũng phải mở phiên toà. Trên cơ sở sự thoả thuận của các
đương sự về việc giải quyết vụ án, Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điểm 2 Điều
69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để sửa bản án sơ thẩm, công nhận
sự thoả thuận của các đương sự.
3. Về giao dịch dân sự về nhà ở
thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1-7-1991 mà có người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia, nếu có yêu cầu thì Toà
án có thụ lý giải quyết hay không?
Theo quy định tại Điều 2 Nghị
quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
"Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991", thì
Nghị quyết này áp dụng đối với giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân
được xác lập trước ngày 1-7-1991 bao gồm: thuê nhà ở; cho mượn; cho ở nhờ nhà ở;
mua bán nhà ở; đổi nhà ở; tặng cho nhà ở; thừa kế nhà ở; quản lý nhà vắng chủ
giữa cá nhân với cá nhân mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ
chức nước ngoài tham gia. Tại Khoản 2 Mục II Thông tư liên tịch số
01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về
giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội" cũng đã hướng dẫn đối với các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch
dân sự về nhà ở quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10
nói trên mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài
tham gia, thì Toà án chưa thụ lý giải quyết; nếu đã thụ lý và đang giải quyết
thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết; nếu đã có quyết định tạm đình
chỉ việc giải quyết, thì tiếp tục tạm đình chỉ việc giải quyết.
Đây là vấn đề rất bức xúc, đang
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và sẽ có Nghị quyết riêng để giải quyết
đối với loại giao dịch dân sự này.
4. Người nước ngoài đến Việt Nam
làm việc, học tập... và kết hôn với người Việt Nam theo đúng quy định của pháp
luật Việt Nam. Sau một thời gian chung sống, thì người nước ngoài về nước và
không còn có liên lạc gì với người vợ (hoặc người chồng) ở Việt Nam với thời
gian trên 6 tháng. Người vợ (hoặc người chồng) ở Việt Nam có đơn yêu cầu Toà án
giải quyết cho ly hôn với người nước ngoài đó, thì Toà án có thụ lý để giải quyết
không?
Trong Báo cáo Công tác ngành Toà
án năm 2000 (tr. 34) có đề xuất theo hướng nếu có yêu cầu Toà án giải quyết cho
ly hôn với người nước ngoài thì Toà án thụ lý và giải quyết cho ly hôn. Đề xuất
này là đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp
của người Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự thì Toà án phải thụ lý để giải quyết, nhưng cần phân biệt như
sau:
a. Nếu thông qua con đường ngoại
giao, qua việc uỷ thác tư pháp hoặc bằng các biện pháp khác mà đã liên hệ được
với bị đơn là người nước ngoài, thì Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
không phụ thuộc vào thái độ của bị đơn có đồng ý, không đồng ý hoặc cố tình trốn
tránh (cần chú ý là phải có văn bản chứng minh việc đã liên hệ được với bị đơn,
như: biên bản làm việc với bị đơn, lời khai của bị đơn, văn bản của cơ quan thực
hiện việc uỷ thác cho biết đã liên hệ được với bị đơn
).
b. Nếu thông qua con đường ngoại
giao, qua việc uỷ thác tư pháp hoặc bằng các biện pháp khác mà chưa liên hệ được
với bị đơn là người nước ngoài, thì Toà án phải áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 45
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết vụ án, chờ quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.
5. Công dân Việt Nam đi học tập,
lao động, công tác ở nước ngoài sau khi hết thời hạn thì bỏ đi đâu không rõ và
đã quá thời hạn hai năm. Người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Toà án
nhân dân giải quyết tuyên bố mất tích thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án cấp nào?
Khi công dân Việt Nam đi học tập,
lao động, công tác ở nước ngoài sau khi hết thời hạn thì bỏ đi đâu không rõ và
không có tin tức thì không thể coi đây là trường hợp có nhân tố nước ngoài; do
đó, nếu người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết
tuyên bố mất tích, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thụ lý giải quyết.
6. Đối với trường hợp Tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo, nhưng xét thấy phần án phí trong bản
án sơ thẩm có sai sót nên có sửa một phần của bản án sơ thẩm về phần án phí. Vậy
trường hợp này đương sự có phải chịu tiền án phí phúc thẩm không?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều
53 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trong phần quyết định của
bản án Toà án cần quyết định về việc giải quyết vụ án, về án phí và quyền kháng
cáo của đương sự. Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, trả tiền công lao động, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành
vi nhất định thì Hội đồng xét xử có thể quyết định cho thi hành ngay. Mặt khác
theo Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ "quy
định về án phí, lệ phí Toà án" thì : "Đương sự kháng cáo không phải
chịu án phí phúc thẩm nếu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm,
huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm". Do đó, đối với trường
hợp Toà án cấp phúc thẩm tuy chỉ sửa một phần quyết định của bản án về phần án
phí, thì cũng là đã sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm; vì vậy, trong
trường hợp này đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
7. Nguyên đơn nộp tiền tạm ứng
án phí, nhưng thường chưa xuất trình được ngay biên lai nộp tiền cho Toà án được
mà phải sau một thời gian; vậy trong trường hợp này khi Toà án nhận được biên
lai thì Toà án lấy ngày thụ lý vụ án là ngày nào, ngày nhận được biên lai hay
ngày đương sự nộp tiền (ghi trong biên lai)? Nếu lấy ngày đương sự nộp tiền
(ghi trong biên lai), thì trong thời gian từ ngày đương sự nộp tiền đến ngày
Toà án nhận được biên lai, Toà án đã thụ lý nhiều vụ án khác.
Cần chú ý là Khoản 1 và Khoản 3 Điều
37 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự chỉ quy định thời hạn phải nộp
tiền tạm ứng án phí, mà không quy định cụ thể thời hạn phải xuất trình cho Toà
án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Thực tiễn cho thấy là ngày đương sự xuất
trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án thường sau ngày đương sự nộp
tiền tạm ứng án phí cho cơ quan thi hành án. Khoản 2 Điều 37 Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Toà án thụ lý vụ án kể từ ngày
nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu đương sự được miễn án phí thì ngày thụ
lý là ngày Toà án nhận đơn khởi kiện. Nếu đương sự được miễn nộp tiền tạm ứng
án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án cho miễn nộp tiền tạm ứng án phí". Mặc
dù Khoản 2 Điều 37 này không quy định cụ thể như Điều 33 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, Khoản 2 Điều 35 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động, Khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính, nhưng không nên hiểu máy móc "ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án
phí" là ngày họ trực tiếp nộp tiền tạm ứng án phí cho cơ quan thi hành án
(ghi trong biên lai). Về nguyên tắc, Toà án chỉ chấp nhận đương sự đã nộp tiền
tạm ứng án phí khi họ xuất trình cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí;
do đó, trong trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí tại cơ quan thi
hành án, nhưng chưa xuất trình được ngay biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho
Toà án mà phải sau một thời gian mới xuất trình cho Toà án được, thì ngày thụ
lý vụ án là ngày đương sự xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
8. Theo Toà án thì khi có người
đến nộp đơn xin ly hôn Toà án hướng dẫn cho họ đến cơ quan thi hành án để nộp dự
phí ly hôn, nhưng ở một số địa phương khi đương sự đến nộp dự phí ly hôn thì cơ
quan thi hành án thu ngay án phí ly hôn và nộp luôn vào công quỹ. Cơ quan thi
hành án cho rằng thu ngay án phí ly hôn mới đúng Nghị định số 70/CP của Chính
phủ. Vì vậy, khi Toà án có quyết định trả 50% dự phí cho đương sự thì cơ quan
thi hành án không trả lại cho đương sự. Cách hiểu như một số cơ quan thi hành
án như vậy có đúng không? Nếu cơ quan thi hành án không trả lại cho đương sự tiền
dự phí ly hôn thì phải giải quyết như thế nào?
Trước hết cần lưu ý với các Toà
án các cấp là khái niệm "dự phí" được sử dụng trước khi Toà án nhân
dân tối cao ban hành Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 "Về chế độ án phí,
lệ phí tại Toà án". Kể từ khi ban hành Thông tư này đến nay trong các văn
bản quy phạm pháp luật không dùng khái niệm "dự phí" này nữa. Theo
Thông tư số 40/TATC ngày 1-6-1976 của Toà án nhân dân tối cao "về chế độ
án phí, lệ phí và cấp phí thi hành tại Toà án nhân dân" thì dự phí sơ thẩm
chính là tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, dự phí kháng cáo chính là tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm (xem Tập hệ thống hoá luật lệ về tố tụng dân sự; Toà án nhân dân
tối cao xuất bản năm 1976; trang 64, 65). Theo quy định tại Khoản 1 Điều 37
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì khi nhận được đơn khởi kiện
"nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án báo ngay cho nguyên đơn
nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nộp đơn, nguyên
đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí".
Đồng thời Khoản 2 và Khoản 3 Điều
2 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ "quy định về án phí, lệ
phí Toà án" quy định:
"...
2. Tiền tạm ứng án phí, tiền tạm
ứng lệ phí được nộp cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền để gửi vào tài Khoản
tạm giữ mở tại Kho bạc Nhà nước và được rút ra để thi hành án theo quy định của
Toà án.
3. Trong trường hợp người nộp tiền
tạm ứng án phí, lệ phí nêu tại Khoản 2 Điều này được hoàn trả một phần hoặc
toàn bộ số tiền đã nộp, thì cơ quan thi hành án đã thu tiền tạm ứng phải làm thủ
tục trả lại tiền cho người đã nộp. Trong trường hợp người đã nộp tiền tạm ứng
án phí, lệ phí phải chịu án phí thì ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án
có hiệu lực thi hành số tiền tạm ứng đã thu phải được chuyển nộp vào ngân sách
Nhà nước".
Như vậy, khi nhận đơn xin ly
hôn, xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình Toà án đã báo cho nguyên đơn đến
cơ quan thi hành án để nộp tiền tạm ứng án phí ly hôn là đúng. Theo tinh thần
quy định tại Điều 11 Nghị định số 70/CP nói trên và Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đương sự chỉ phải chịu án phí khi có
quyết định của Toà án về việc giải quyết vụ án trong đó có quyết định về án
phí. Việc một số cơ quan thi hành án cho rằng trong trường hợp xin ly hôn thì
thu ngay án phí ly hôn mà không phải là tiền tạm ứng án phí ly hôn là hoàn toàn
không đúng với quy định tại Nghị định số 70/CP nói trên của Chính phủ. Các Toà
án cần thực hiện đúng quy định trong Nghị định số 70/CP của Chính phủ về án
phí, lệ phí Toà án. Khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật
trong đó có quyết định của Toà án trả lại 50% tiền tạm ứng án phí cho đương sự
thì theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thi
hành án dân sự, Nghị định số 70/CP của Chính phủ, cơ quan thi hành án có trách
nhiệm phải thi hành. Nếu không thi hành là không đúng quy định của pháp luật và
đương sự có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
9. Ông A làm đơn khởi kiện đến
Toà án, nhưng do hoàn cảnh đặc biệt là vì già yếu không đi lại được, đường xá
xa xôi, không có ai để uỷ quyền, nên không có mặt tại phiên toà được. Trong khi
đó có cơ sở xác định quyền lợi của ông A bị xâm hại. Vậy Toà án nơi cư trú của nguyên
đơn có được thụ lý để giải quyết vụ án hay không? Nếu Toà án có thẩm quyền thụ
lý vụ án, nhưng nguyên đơn vì già yếu, ốm đau không thể có mặt tại Toà án, nên
không thể tiến hành hoà giải được, thì Toà án có được xét xử vắng mặt nguyên
đơn hay không?
a- Nếu không thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các Điểm 3, 4 và 5 Điều 14 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự, thì Toà án nơi cư trú của nguyên đơn không được thụ lý vụ án
để giải quyết, vì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án đó.
b- Theo quy định tại Điều 5 Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì hoà giải là thủ tục bắt buộc chỉ
khi không hoà giải được hoặc hoà giải không thành thì mới đưa vụ án ra xét xử,
trừ những trường hợp không phải hoà giải quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh
này. Đồng thời theo hướng dẫn tại Điểm 4 Mục II Nghị quyết số 03/HĐTP ngày
19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự", thì những
việc không hoà giải được là những việc "bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng (Khoản 4 Điều 44) hoặc những
trường hợp không có Điều kiện tiến hành hoà giải như: có một bên đương sự đang ở
nước ngoài, đang bị giam giữ hoặc do những trở ngại khách quan như bị tai nạn, ốm
đau nên không thể có mặt được khi hoà giải". Mặt khác theo quy định tại Khoản
3 Điều 48 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì "việc xét xử vẫn
được tiến hành nếu đương sự yêu cầu xét xử vắng mặt họ...". Như vậy, theo
các quy định và hướng dẫn trên đây trong trường hợp nguyên đơn do sức khỏe già
yếu, ốm đau, không có người để uỷ quyền cho họ tham gia tố tụng và có yêu cầu
xét xử vắng mặt họ, thì Toà án không phải tiến hành hoà giải và tiến hành việc
xét xử vụ án theo thủ tục chung mà không cần sự có mặt của nguyên đơn.
10. Tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định
số 70/CP quy định "Trước khi mở phiên toà, Toà án hoà giải mà các đương sự
tự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, thì đương sự phải chịu 50% mức án
phí quy định tại Điều 7 của Nghị định này".
Tại Khoản 3 Điều 11 quy định
"... Trong trường hợp thuận tình ly hôn, thì mỗi bên đương sự phải chịu một
nửa án phí dân sự sơ thẩm"
Vậy trong trường hợp thuận tình
ly hôn thì theo Nghị định số 70/CP nói trên mỗi bên đương sự phải chịu 25.000đ
hay 12.500đ?
Cần chú ý là trường hợp vợ chồng
thuận tình ly hôn không thuộc trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án (hòa giải thành) để được tính án phí theo
quy định tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ
"quy định về án phí, lệ phí Toà án". Trong trường hợp cả hai vợ chồng
xin ly hôn (thuận tình ly hôn), Toà án tiến hành hoà giải để hai bên đương sự
trở về đoàn tụ với nhau, nhưng họ vẫn kiên quyết xin ly hôn thì đây là hoà giải
đoàn tụ không thành. Nếu như đối với các trường hợp tranh chấp khác thì trong
trường hợp này Toà án phải lập biên bản hoà giải không thành và đưa vụ án ra
xét xử, nhưng đối với trường hợp họ vẫn kiên quyết xin ly hôn, thì Toà án lập
biên bản hoà giải đoàn tụ không thành và sau đó lập biên bản về sự thoả thuận của
các đương sự về thuận tình ly hôn... Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày lập các
biên bản này mà các đương sự không có thay đổi ý kiến thì Toà án áp dụng Khoản
2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 90 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 ra quyết định công nhận cho thuận tình ly hôn. Chính vì vậy,
Khoản 3 Điều 11 Nghị định số 70/CP nói trên quy định trong trường hợp thuận
tình ly hôn, thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí dân sự sơ thẩm, có
nghĩa là phải chịu một nửa của 50.000 đồng (tức là 25.000 đồng).
11. Trong vụ án ly hôn hai bên
thoả thuận chia tài sản chung thì Toà án có cần phải định giá tài sản hay không
và họ có phải chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch hay không?
Có cần phải định giá tài sản hay
không và họ có phải chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch hay
không thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể như sau:
a. Nếu các đương sự đã tự thoả
thuận được với nhau về việc chia tài sản chung và sự thoả thuận đó bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con theo quy định tại Điều 90, Điều 95 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000, thì Toà án không cần phải định giá tài sản và họ không phải
chịu án phí đối với tài sản như vụ án có giá ngạch.
b. Nếu các đương sự khi có yêu cầu
ly hôn chưa thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản và cũng chưa thoả thuận
được về giá trị tài sản có yêu cầu Toà án giải quyết hoặc có thoả thuận với mức
thấp nhằm Mục đích trốn thuế, giảm tiền nộp án phí thì theo quy định tại Điểm đ
Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án phải yêu
cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp
trước khi hoà giải. Nếu Toà án tiến hành hoà giải theo quy định tại Điều 44
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Toà án tiến hành hoà giải trước
khi mở phiên toà) mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản
chung, thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 7, Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 70/CP
ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Toà án, các đương sự phải
chịu 50% mức án phí quy định tại Khoản 2 Điều 7 của Nghị định này, nếu họ không
thuộc trường hợp được miễn nộp án phí. Nếu tại phiên toà Toà án tiến hành hoà
giải mà các đương sự mới thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung
thì họ phải chịu án phí như trường hợp Toà án phải tiến hành xét xử.
12. Theo quy định tại Khoản 2 Điều
31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "... Người kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn
kháng cáo; Nếu trong thời hạn đó mà không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì
coi như không kháng cáo..., trừ trường hợp có lý do chính đáng". Thực tiễn
cho thấy trong phần quyết định của các bản án dân sự sơ thẩm chỉ ghi quyền
kháng cáo mà không ghi "nếu có kháng cáo thì phải nộp 50.000đ tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo". Như vậy trong các bản án dân sự
sơ thẩm không ghi vấn đề này có phải là thiếu sót hay không? Đề nghị hướng dẫn
có cần phải ghi thêm việc phải nộp 50.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong
phần quyết định của bản án dân sự sơ thẩm hay không?
Khoản 2 Điều 53 Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự quy định:
"Trong bản án Hội đồng xét
xử trình bày đầy đủ nội dung vụ án, những tình Tiết đã được chứng minh, những
chứng cứ, căn cứ pháp luật mà Toà án dựa vào để giải quyết các vấn đề trong vụ
án, quyết định của Toà án về giải quyết vụ án, về án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự... Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, trả tiền công lao động, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành
vi nhất định thì Hội đồng xét xử có thể quyết định cho thi hành ngay". Như
vậy, theo Khoản 2 Điều 53 này thì Tòa án chỉ phải ghi trong phần quyết định của
bản án dân sự sơ thẩm quyền kháng cáo (ai có quyền kháng cáo, thời hạn kháng
cáo và đối tượng kháng cáo) mà không phải ghi hậu quả của việc không nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm, nếu có kháng cáo; do đó, trong các bản án dân sự sơ thẩm
không ghi hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng với
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự mà không phải là thiếu
sót.
Để bảo đảm cho các đương sự thực
hiện được quyền kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật tại Phần VII Nghị
quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
"Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự" đã hướng dẫn:
"Các đương sự phải chịu án
phí theo quy định của pháp luật, cho nên ngay sau khi nhận đơn khởi kiện của
đương sự, Toà án phải giải thích cho họ biết về chế độ án phí, về việc họ phải
nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án mới thụ lý vụ án để giải quyết; giải thích
ngay cho tất cả các đương sự biết cả việc nếu họ kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án sơ thẩm và hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
trong thời hạn đó" (Mục 2) và "Người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo (trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm), mặc dù đã được Toà án giải thích, nhắc nhở, thì coi như
không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải gửi hồ sơ lên Toà án cấp phúc
thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc giải thích, nhắc nhở đó." (Mục
3).
13. Một người có hành vi phạm tội
đã bị khởi tố bị can, nhưng bỏ trốn. Cơ quan Điều tra đã ra quyết định truy nã,
nhưng đã hơn hai năm vẫn không có kết quả. Người có quyền, lợi ích liên quan
như Ngân hàng là chủ nợ có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố người bị truy nã đó mất
tích để xử lý Khoản nợ theo quy định của pháp luật hoặc người vợ (hay người chồng)
có đơn yêu cầu Toà án tuyên bố người bị truy nã đó mất tích đồng thời xin ly
hôn với người đó thì Toà án có thụ lý vụ án hay không? Nếu thụ lý vụ án thì hướng
giải quyết vụ án đó như thế nào?
Theo quy định tại Điều 36 Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trường hợp này không thuộc một trong
những trường hợp Toà án trả lại đơn khởi kiện; do đó, Toà án phải thụ lý vụ án
theo quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh này. Việc giải quyết vụ án về tuyên bố
một người mất tích trong trường hợp này cũng được thực hiện theo thủ tục chung
có nghĩa là phải theo đúng các quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ luật dân sự, các
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và hướng dẫn tại Mục
III Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự". Trong trường hợp người vợ (hoặc người chồng) của
người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn, thì căn cứ vào Khoản 2 Điều 88 Bộ
luật dân sự và Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Toà án giải
quyết cho ly hôn. Đối với chia tài sản chung của vợ chồng, việc nuôi dưỡng giáo
dục con và việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích, thì Toà án áp dụng
các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 89 Bộ luật dân sự để
giải quyết.
14. Cả hai vợ chồng đều có đơn
xin ly hôn, Tòa án đã thụ lý và tiến hành hoà giải để hai bên trở về đoàn tụ với
nhau, nhưng không thành. Cả hai bên đều xin được ly hôn và thoả thuận được với
nhau về việc chia tài sản chung, việc trông nom nuôi dưỡng giáo dục con. Toà án
đã lập biên bản về việc cả hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và về việc các
đương sự thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản chung, việc trông nom,
nuôi dưỡng giáo dục con. Trong thời hạn 15 ngày, một trong hai bên đương sự
thay đổi ý kiến về việc chia tài sản chung và yêu cầu Toà án giải quyết. Vậy
trong trường hợp này Toà án phải giải quyết như thế nào? Toà án có được tách phần
tự nguyện xin ly hôn và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
về mặt tình cảm (ly hôn) hay không? Toà án có được tiếp tục tiến hành hoà giải
về việc chia tài sản chung hay không?
Theo hướng dẫn tại Điểm 2 Mục II
Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự" thì "hoà giải cũng là một thủ tục bắt buộc khi cả
hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn; do đó, nếu Toà án đã hoà giải để hai
bên đương sự trở về đoàn tụ với nhau, nhưng họ vẫn kiên quyết xin ly hôn, thì
Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản về sự thoả
thuận của các đương sự về thuận tình ly hôn, phân chia tài sản và nuôi con...Việc
ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ
án ra xét xử trong các trường hợp này cũng được thực hiện theo hướng dẫn
trên" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; Toà án nhân dân
tối cao xuất bản năm 1992; tr.292). Theo hướng dẫn tại đoạn 1 Điểm 2 này cũng
như quy định tại Khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
thì "trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà có
đương sự thay đổi ý kiến...thì Toà án đưa vụ án ra xét xử". Mặt khác theo
tinh thần quy định tại Điều 90 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì khi thuận
tình ly hôn các bên phải có thoả thuận việc chia tài sản chung, việc trông nom,
nuôi dưỡng, giáo dục con, Toà án mới công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy,
trong trường hợp trên đây mặc dù chỉ có một đương sự thay đổi ý kiến về việc
chia tài sản chung thì Toà án cũng không được tách phần thuận tình ly hôn để ra
quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục chung và tất cả các vấn đề đều được giải quyết trong bản án của
Tòa án.
15. Anh A xin ly hôn chị B, Toà
án thụ lý vụ án và tiến hành hoà giải. Tại phiên hoà giải anh A nhất trí về
đoàn tụ với chị B. Trong trường hợp này, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án ngay sau khi các đương sự thoả thuận được với nhau hay sau 15 ngày, kể từ
ngày lập biên bản về việc các đương sự thoả thuận được với nhau.
Toà án ra quyết định gì và vào
thời Điểm nào là hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung của việc "anh A nhất trí
với chị B"; cụ thể là:
a- Nếu tại phiên hoà giải mà anh
A nhất trí về đoàn tụ với chị B và rút đơn xin ly hôn, thì Toà án lập biên bản
về việc anh A rút đơn xin ly hôn và áp dụng Điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
b- Nếu tại phiên hoà giải mà anh
A nhất trí về đoàn tụ với chị B nhưng không rút đơn xin ly hôn mà thoả thuận
cùng chị B về đoàn tụ với nhau trên cơ sở hoà giải của Toà án, thì theo quy định
tại Khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Toà án lập
biên bản hoà giải thành. Trong trường hợp này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
lập biên bản hoà giải thành, đương sự không thay đổi ý kiến, thì Toà án ra quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp
luật.
16. Về nội dung hoà giải và
thành phần tham gia hoà giải trong vụ án về ly hôn (vợ hoặc chồng có đơn xin ly
hôn hoặc cả hai vợ chồng xin ly hôn), còn có ý kiến khác nhau.
Theo một số Toà án hiểu thì Mục
đích của việc hoà giải là để hai bên đương sự về đoàn tụ với nhau; do đó, nội
dung hòa giải là phân tích, khuyên nhủ để vợ chồng về đoàn tụ với nhau và thành
phần mà Toà án triệu tập để hoà giải là nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện (vợ
và chồng). Một số Viện kiểm sát nhân dân cho rằng nội dung và thành phần tham
gia hoà giải như trên là chưa đầy đủ. Theo ý kiến của Viện kiểm sát thì việc
hoà giải mà Toà án phải tiến hành bao gồm cả 3 nội dung: hoà giải về hôn nhân,
nuôi con và phân chia tài sản; thành phần tham gia hoà giải ngoài nguyên đơn, bị
đơn (vợ chồng) còn phải có mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (chủ nợ
hoặc con nợ).
Đề nghị Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn: Việc hòa giải trong vụ kiện ly hôn bao gồm những vấn đề gì và nội
dung nào? Thành phần tham gia hoà giải gồm những ai?
Việc xác định những vấn đề gì cần
phải tiến hành hoà giải, nội dung hoà giải như thế nào và ai phải có mặt khi
hoà giải trong các vụ án ly hôn phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
a. Về những vấn đề gì cần phải
tiến hành hoà giải
Theo tinh thần quy định tại Điều
43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì trong quá trình giải quyết
vụ án Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải
quyết tất cả những vấn đề mà một hoặc các bên đương sự có yêu cầu Toà án giải
quyết, trừ các việc Toà án không được tiến hành hoà giải quy định tại các Điểm
1, 2, 3 và 4 Điều 43 này. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án quyết
định tiến hành hoà giải việc gì trước và hoà giải việc gì sau.
Ví dụ 1: Vợ hoặc chồng có đơn
xin ly hôn hoặc cả hai vợ chồng đều có đơn xin ly hôn và yêu cầu Toà án giải
quyết việc chia tài sản, cũng như việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con, thì
trước hết Toà án tiến hành hoà giải để hai bên trở về đoàn tụ với nhau; nếu hai
bên đồng ý trở về đoàn tụ với nhau, thì Toà án không phải tiến hành hoà giải
các vấn đề khác còn lại; nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên kiên quyết xin
ly hôn, thì Toà án tiến hành hoà giải các vấn đề khác còn lại với nội dung
trong trường hợp Toà án xử cho ly hôn hay công nhận cho thuận tình ly hôn thì
các đương sự thoả thuận việc chia tài sản như thế nào, việc trông nom, nuôi dưỡng,
giáo dục con như thế nào?
Ví dụ 2: Một hoặc hai bên đã kết
hôn trái pháp luật có yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết
việc chia tài sản chung của họ và việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con, thì
Toà án không được tiến hành hoà giải yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật,
nhưng Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải với nội dung trong trường hợp Toà án
huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì các đương sự thoả thuận việc chia tài sản
như thế nào và việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con như thế nào?
b. Về nội dung hoà giải
Việc hoà giải các vấn đề khác
nhau có nội dung khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát nội dung của hoà giải
là bằng sự có mặt của người Thẩm phán, các bên đương sự trình bày những lý do
mà họ phải yêu cầu Toà án giải quyết. Trên cơ sở đó Thẩm phán hỏi ý kiến của
các bên; phân tích các quy định của pháp luật; những mặt được của việc các bên
thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vấn đề đó; hậu quả pháp lý của việc
Toà án phải quyết định...Có thể nói nội dung hoà giải và kết quả của việc hoà
giải phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của người Thẩm phán.
c. Về thành phần tham gia hoà giải
Theo quy định tại Khoản 1 Điều
44 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì: "nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hoà giải". Tuy
nhiên, trong khi hoà giải về ly hôn mà có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan (chủ nợ hoặc con nợ của vợ chồng) thì cần phân biệt như sau:
- Nếu giữa người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ) với vợ chồng đã tự thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết quyền, nghĩa vụ của các bên, thì không cần phải tiến
hành hoà giải giữa vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ
hoặc con nợ).
- Nếu giữa người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ) với vợ chồng không thoả thuận được với
nhau về việc giải quyết quyền, nghĩa vụ của các bên thì cần phân biệt là trong
vụ án này có hai nhóm quan hệ: nhóm quan hệ giữa vợ, chồng và nhóm quan hệ giữa
vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc con nợ). Mặt
khác, nhóm quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ nhân thân; do đó, không tiến hành
hoà giải hai nhóm quan hệ này trong cùng một phiên hoà giải. Nếu thuộc trường hợp
có Điều kiện tiến hành hoà giải thì cần tiến hành hoà giải việc giải quyết quyền,
nghĩa vụ giữa vợ chồng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chủ nợ hoặc
con nợ) trong một phiên hoà giải khác.
V. VỀ HÀNH CHÍNH.
1. Trong trường hợp có nhiều người
khiếu kiện đến Toà án đối với một quyết định hành chính trong việc áp dụng biện
pháp buộc tháo dỡ nhà ở... (Khoản 2 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính), thì có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án hay không, nếu tất
cả những người này không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
tiếp theo?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều
13 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ
sung), thì trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính
không được giải quyết hoặc trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính, khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức
đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý, thì họ có quyền
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khiếu kiện
vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Theo Điểm a Khoản 1 Điều 13 này chỉ
trong trường hợp có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết tiếp
theo (cùng đối với một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính), thì việc
giải quyết mới thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo; do đó, trong trường hợp có nhiều người khiếu kiện đến Toà án đối với một
quyết định hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở... mà
không có ai khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc
trong trường hợp có nhiều người đều khiếu kiện đến Toà án đối với một quyết định
hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở...đồng thời đều khiếu
nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết
khiếu kiện đó thuộc thẩm quyền của Toà án.
2. Đề nghị giải đáp cụm từ:
"... vì những trở ngại khách quan khác" mà người khởi kiện không khởi
kiện được trong thời hạn quy định tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều
30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì những trường hợp được coi
là trở ngại khách quan là những trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi
công tác, học tập ở nơi xa. Ngoài ra trong thực tế còn có những trở ngại khác;
ví dụ: do nhu cầu chiến đấu và phục vụ chiến đấu nơi xa; do yêu cầu của công
tác đặc biệt không được liên lạc với bên ngoài; do bị một tổ chức tội phạm bắt
cóc... cũng được coi là trở ngại khách quan mà trong Điều luật không thể liệt
kê cụ thể hết được cho nên mới dùng cụm từ "trở ngại khách quan
khác". Tham khảo Từ điển Tiếng Việt thì "khách quan" là cái tồn
tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người... và "trở
ngại" là cái gây khó khăn, cái làm cản trở. Như vậy, có thể hiểu "trở
ngại khách quan" là những khó khăn, cản trở tồn tại bên ngoài không phụ
thuộc vào ý thức, ý chí của con người. Ngoài những trở ngại khách quan được quy
định cụ thể tại Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính, thì bất cứ một trở ngại nào đáp ứng các Điều kiện này đều có thể được
Toà án chấp nhận là "trở ngại khách quan khác" và thời gian có trở ngại
khách quan đó không tính vào thời hiệu khởi kiện.
3. Người ra quyết định hành
chính bị khiếu kiện đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc do chia tách huyện,
tách tỉnh không còn ở huyện, tỉnh cũ hoặc về hưu, thì xác định tư cách
"người bị kiện" như thế nào? Toà án nơi xảy ra khiếu kiện hay Toà án
nơi người đã ra quyết định cư trú (hay công tác) có thẩm quyền giải quyết khiếu
kiện này?
Cần chú ý là người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước quy định tại Điều 4 Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính là người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định
của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định
hành chính hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết định hành chính hoặc một
hành vi hành chính do một người cụ thể (Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B...) ký hoặc
thực hiện, nhưng việc người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi
hành chính đó phải dưới danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền (ví dụ:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công an phường...); do đó, chỉ có thể
gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân... của Trưởng Công an phường... mà không thể gọi quyết định hành chính đó,
hành vi hành chính đó của một người cụ thể (Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn B...). Vì
vậy, trong trường hợp người ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính
đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc về hưu... mà quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính đó bị khiếu kiện, thì người được bầu, được cử, được bổ nhiệm...
thay chức vụ, chức danh của người đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa họ
chính là người bị kiện.
Trên cơ sở xác định người bị kiện
như trên, căn cứ vào quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính để tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định Toà án nào có thẩm quyền
giải quyết vụ án hành chính đó.
VI. VỀ LAO ĐỘNG.
Trong một doanh nghiệp Nhà nước
có việc lập quỹ trái phép. Người lao động được giao nhiệm vụ quản lý quỹ trái
phép đã chiếm đoạt tiền trong quỹ trái phép đó, nên đã bị doanh nghiệp ra quyết
định xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải. Vậy quyết định xử lý kỷ luật của
doanh nghiệp là đúng hay sai?
Mặc dù là quỹ trái phép nhưng vẫn
là tài sản của Nhà nước; do đó, hành vi chiếm đoạt tiền trong quỹ trái phép của
người được giao trách nhiệm quản lý là hành vi tham ô. Căn cứ vào Điểm a Khoản
1 Điều 85 Bộ luật lao động, thì doanh nghiệp có quyền xử lý kỷ luật người lao động
bằng hình thức sa thải.
Trên đây là những giải đáp của
Toà án nhân dân tối cao về một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn công tác của
Toà án. Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì chưa cụ thể hoặc chưa phù hợp
với thực tiễn, đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có hướng dẫn bổ
sung hoặc sửa đổi.