BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
22-NV
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 09 năm 1968
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC VẬN DỤNG TIÊU CHUẨN LIỆT SĨ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong bản “Định nghĩa liệt sĩ”
kèm theo Điều lệ về ưu đãi gia đình liệt sĩ ban hành do Nghị định số 980-TTg
ngày 27/7/1956, Thủ tướng Chính phủ đã quy định tiêu chuẩn để xác nhận những liệt
sĩ hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tiêu chuẩn đó áp dụng vào những
trường hợp hy sinh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta vẫn
thích hợp. Nhưng do đặc điểm của cuộc chiến tranh này, nhiều trường hợp hy sinh
có những tình tiết khác với những trường hợp hy sinh trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp trước đây. Nay Bộ Nội vụ hướng dẫn giải thích thêm một số điểm
sau đây để việc vận dụng tiêu chuẩn liệt sĩ trong tình hình mới được đúng đắn.
I. MỤC ĐÍCH CỦA
VIỆC XÁC NHẬN LIỆT SĨ.
Trong sự nghiệp cách mạng dân tộc
ta, các liệt sĩ đã nêu lên tấm gương hy sinh phấn đấu cao cả. Việc xác nhận liệt
sĩ không những là để ghi nhớ công ơn liệt sĩ và thi hành chính sách đối với gia
đình liệt sĩ, mà còn nhằm biểu dương tinh thần phấn đấu hy sinh của liệt sĩ để
mọi người học tập, nêu cao truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc để động
viên, cổ vũ mọi người kiên quyết phấn đấu vượt khó khăn, nguy hiểm, đem hết nhiệt
tình và khả năng của mình góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta
đến thắng lợi hoàn toàn.
II. TINH THẦN
CƠ BẢN CỦA TIÊU CHUẨN LIỆT SĨ.
Thủ tướng Chính phủ đã định
nghĩa “Liệt sĩ là những người, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng
chính trị, vì phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mà hy sinh một cách
vẻ vang”.
Theo tinh thần như trên, thì bất
cứ người nào (cán bộ, bộ đội, công nhân, viên chức, công dân …) nếu vì phấn đấu
cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mà hy sinh một cách vẻ vang, đều được xác
nhận là liệt sĩ. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những trường hợp chết sau
đây được coi là hy sinh một cách vẻ vang.
1. Chết vì chiến đấu hoặc đấu
tranh với địch.
a) Chiến đấu với địch bao gồm:
chỉ huy chiến đấu, trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu (hiểu theo nghĩa “trực
tiếp tham gia chiến đấu với địch” như quy định trong Nghị định số 111B-CP
ngày 20/7/1967 của Hội đồng Chính phủ).
b) Đấu tranh với địch: Những trường
hợp này đã được quy định ở các điểm 1, 2, 8 trong bản “Định nghĩa liệt sĩ” của
Thủ tướng Chính phủ.
2. Chết vì dũng cảm cứu người,
cứu tài sản của nhà nước, của nhân dân đang gặp cơn nguy hiểm, như: Xông
vào kho tàng đang bị cháy để cứu tài sản của Nhà nước, hoặc xông vào nơi đang bị
địch đánh phá để cứu người bị nạn…
3. Chết vì dũng cảm vượt khó
khăn, nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm vụ bao gồm những trường hợp:
a) Khi địch đang đánh phá, vì điều
kiện sản xuất, công tác, kiên quyết không rời vị trí của mình để bảo đảm đến
cùng một nhiệm vụ cấp thiết được giao, hoặc thay thế đồng đội, đồng sự đã bị
thương vong hoàn thành nhiệm vụ đó, rồi bị chết do bom đạn địch gây nên.
b) Hăng hái, dũng cảm làm nhiệm
vụ sản xuất, công tác ở những nơi đã bị địch đánh phá thường xuyên hoặc có
thể sẽ bị địch đánh phá ác liệt như những người làm công tác giao thông vận tải
thường xuyên phải bám sát cầu đường, bến phà, đi trên sông, biển, đường sắt, đường
bộ ở những tuyến đường, quãng đường nguy hiểm, sản xuất ở những nhà máy, xí
nghiệp quan trọng nhưng không di chuyển đi nơi khác được … rồi bị chết do bom địch
gây nên.
c) Hăng hái, dũng cảm làm nhiệm
vụ sản xuất, công tác ở những nơi có nhiều khó khăn, gian khổ thuộc các chiến
trường quan trọng, rồi bị chết bom đạn địch hoặc bị chết do bệnh tật, tai nạn.
Trong những trường hợp nói ở điểm
b và điểm c này, tinh thần hy sinh phấn đấu thường chỉ biểu hiện ở chỗ người bị
chết đã hăng hái, dũng cảm đảm nhận những công việc có tính chất khó khăn, nguy
hiểm thường xuyên và đã kiên quyết phấn đấu vượt khó khăn, nguy hiểm để hoàn
thành nhiệm vụ, còn lúc chết thì có thể là không có hành động dũng cảm rõ ràng
như những trường hợp nói ở điểm a. Vì vậy, đối với những trường hợp này,
cần phải xem xét kỹ tình hình thực tế của từng trường hợp để việc xác nhận liệt
sĩ được thoả đáng và tránh được sai sót, cụ thể là xem xét kỹ về các mặt sau
đây:
- Nhiệm vụ mà người bị chết đang
chấp hành có phải là nhiệm vụ thực sự có khó khăn, nguy hiểm hay không? Thời
gian, địa điểm xảy ra trường hợp chết có phải là thời gian, địa điểm nguy hiểm
hay không. Trường hợp chết có phải là do tính chất khó khăn, nguy hiểm của nhiệm
vụ được giao đưa đến hay không?
- Trong quá trình chấp hành nhiệm
vụ được giao, người bị chết đã biểu hiện tinh thần phấn đấu để hoàn thành nhiệm
vụ, ý thức tổ chức, kỷ luật như thế nào?
Người nào làm một nhiệm vụ thực
sự khó khăn, nguy hiểm mà biểu hiện rõ tinh thần dũng cảm vượt khó khăn, nguy
hiểm kiên quyết làm nhiệm vụ, rồi bị chết do địch bắn phá (như những trường hợp
nói ở điểm b), hoặc bị chết do bệnh tật, tai nạn (như những trường hợp nói ở điểm
c) trong khi đang làm nhiệm vụ, thì được xác nhận là liệt sĩ.
Ngược lại, người nào khi làm nhiệm
vụ không đòi hỏi phải có tinh thần phấn đấu dũng cảm, hoặc người nào tuy được
giao một nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, nhưng cho đến phút cuối cùng vẫn tỏ ra
chùn bước, sợ hy sinh, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật,
rồi bị chết như nói ở trên, thì không được xác nhận là liệt sĩ.
III. MỘT SỐ
ĐIỂM CẦN CHÚ Ý
1. Những trường hợp hy sinh của
cán bộ, bộ đội và nhân dân ta xảy ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau nên có nhiều
tình tiết khác nhau, nhưng tiêu chuẩn để xác nhận liệt sĩ thì không thể nào quy
định thật chi tiết cụ thể được. Đối với những trường hợp chết vì chiến đấu, vì
đấu tranh với địch, những trường hợp chết có hành động dũng cảm rõ ràng, việc
xét định liệt sĩ thường không có vướng mắc. Nhưng đối với những trường hợp chết
vì làm nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm mà lúc chết không có hành động dũng cảm rõ
ràng, việc xét định liệt sĩ có khó khăn hơn, do đó không những phải nắm vững mục
đích của việc xác nhận liệt sĩ, nắm vững tinh thần cơ bản của tiêu chuẩn liệt
sĩ và xem xét kỹ tình hình thực tế của từng trường hợp, mà còn phải căn cứ vào
yêu cầu chính trị của từng ngành, từng địa phương và căn cứ vào sự nhận xét của
quần chúng, có sự lãnh đạo chặt chẽ để việc xác nhận liệt sĩ được đúng đắn.
2. Việc xác nhận liệt sĩ không
những phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn của Nhà nước đã quy định, mà còn phải kịp thời
để phát huy tác dụng động viên, cổ vũ của nó; việc giải quyết quyền lợi
cho gia đình liệt sĩ cũng phải nhanh chóng, chu đáo để đề cao vinh dự gia đình
liệt sĩ và làm cho gia đình liệt sĩ được sớm ổn định về đời sống.
Trong Thông tư số 29-NV ngày
06/11/1967 hướng dẫn thủ tục về việc xác nhận liệt sĩ mới hy sinh trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, và giải quyết quyền lợi cho gia đình liệt sĩ, Bộ Nội vụ đã
quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các ngành, các địa phương đối với công
tác này. Quy định đó là cần thiết để đảm bảo cho việc thi hành chính sách đối với
những người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng được kịp thời và chu đáo, nhằm đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước hiện nay. Vì
vậy, các ngành, các địa phương, đặc biệt là những ngành, những địa phương có
nhiều người bị hy sinh trong cuộc kháng chiến lần này, cần thấu suốt tinh thần
đó để lãnh đạo việc xác nhận liệt sĩ đạt được kết quả tốt.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
NỘI VỤ
Ung Văn Khiêm
|