|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
201/2001/QĐ-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Phan Văn Khải
|
Ngày ban hành:
|
28/12/2001
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
201/2001/QĐ-TTg
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2001
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 201/2001/QĐ-TTG NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM 2001 VỀ VIỆC PHÊ
DUYỆT ''CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2001- 2010"
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Giáo dục ngày 02 tháng 12 năm 1998;
Xét tờ trình của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2001 -
2010" kèm theo quyết định này.
Điều 2. Phân công thực hiện Chiến lược:
a) Hội đồng Quốc gia Giáo dục
giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục
2001-2010.
b) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ
trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan
và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai
thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010; xây dựng và tổ chức thực
hiện các kế hoạch giáo dục 5 năm và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát triển
giáo dục và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát, tổng hợp tình hình thực hiện và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ
chức sơ kết việc thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 vào đầu năm
2006 và tổng kết vào đầu năm 2011.
c) Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành liên quan và
các địa phương xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển đào tạo nghề phù hợp
với Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010; xây dựng các chính sách hỗ trợ
học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách.
d) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ đạo
các ngành và các địa phương đưa kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo nhân
lực vào kế hoạch định kỳ của ngành và địa phương; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài
chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo huy động các nguồn tài trợ trong và ngoài nước
cho phát triển giáo dục; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tổ chức công tác
thông tin về nhu cầu nhân lực và biến động của thị trường lao động.
e) Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội xác định tỷ lệ ngân sách hàng năm chi cho giáo dục, đảm bảo việc thực
hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010; hoàn thiện chính sách tài chính
và chế độ quản lý tài chính trong lĩnh vực giáo dục để sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục; xây dựng các chính sách về tự chủ tài
chính trong các cơ sở giáo dục, các chính sách tài chính khuyến khích gắn kết
đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng, khuyến khích các thành phần kinh
tế - xã hội đầu tư cho giáo dục.
g) Ban Tổ chức - Cán bộ Chính
phủ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thực hiện cải cách hành chính trong ngành giáo dục; xác định biên chế, xây dựng
các chế độ, chính sách đối với cán bộ ngành giáo dục, đối với các tập thể, cá
nhân tham gia xã hội hoá giáo dục.
h) Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành, địa
phương xây dựng cơ chế, chính sách và kế hoạch sử dụng tiềm lực của ngành giáo
dục trong nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng, bảo vệ môi trường; chủ
trì tổ chức thực hiện việc kết hợp các hoạt động nghiên cứu khoa học - công
nghệ giữa các viện nghiên cứu với các trường đại học, cao đẳng.
i) Các Bộ, ngành theo chức năng
và nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010
trong phạm vi thẩm quyền; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành
khác triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục trên phạm vi toàn
quốc.
k) Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm phát triển giáo dục trên địa
bàn theo thẩm quyền; xây dựng và chỉ đạo thực hiện các kế hoạch giáo dục 5 năm
và hàng năm phù hợp với Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong cùng thời kỳ.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, các thành viên Hội đồng quốc gia giáo dục chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này.
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 2001 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm
2001 của Thủ tướng Chính phủ)
MỞ ĐẦU
Đại hội IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 - 2010 là: ²Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
hoá². ²Con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có
những bước nhẩy vọt...". Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giáo dục và
khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu phát triển giáo dục là rất
bức thiết.
Sau gần 15 năm đổi mới, giáo dục
Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng còn những yếu kém, bất cập.
Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 xác định mục tiêu, giải pháp và
các bước đi theo phương châm đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh
mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển
trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp
phần đắc lực thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010.
1. TÌNH
HÌNH GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY:
1.1. Những
thành tựu:
Buớc vào Thế kỷ 21 giáo dục Việt
nam đã trải qua 15 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở
rộng quy mô, đa dạng hoá các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho
nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao. Chất lượng giáo dục có những chuyển
biến bước đầu.
a) Một hệ thống giáo dục quốc
dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hoá đã được hình thành với đầy
đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Mạng lưới các
trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các tỉnh và nhiều
huyện miền núi có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc ít người.
Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy
nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở
hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Cơ sở vật
chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường lớp được xây dựng
mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng.
Hệ thống giáo dục đã bước đầu
được đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực... từng bước hoà
nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. Từ một hệ thống chỉ có các trường
công lập và chủ yếu là loại hình chính quy đến nay đã có các trường ngoài công
lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường mở, có phương thức đào
tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài. Thực hiện chế độ thu
học phí với hầu hết các cấp học và trình độ đào tạo sau phổ cập. Tỷ lệ học
sinh, sinh viên ngoài công lập trong tổng số học sinh, sinh viên ngày càng
tăng, trong năm học 2000 - 2001 chiếm 66% trẻ em các nhà trẻ, hơn 50% học sinh
mẫu giáo, hơn 34% học sinh trung học phổ thông, hơn 11% sinh viên đại học.
b) Quy mô giáo dục tăng nhanh,
bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Năm học 2000 - 2001 có gần 18
triệu học sinh phổ thông, 820.000 học sinh học nghề (130.000 học nghề dài hạn),
1 triệu sinh viên cao đẳng, đại học. Số sinh viên trên vạn dân đạt 118, vượt
chỉ tiêu định hướng cho năm 2000 mà Nghị quyết Trung ương 2 Khoá VIII đã đề ra.
Quy mô đào tạo nghề từ năm 1997 đến năm 2000 tăng 1,8 lần.
Lực lượng lao động đã qua đào
tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau chiếm 20% trong tổng số lao động
cả nước, đạt chỉ tiêu định hướng Nghị quyết Trung ương 2 Khoá VIII đã đề ra.
c) Công bằng xã hội trong giáo
dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những
chuyển biến tích cực, đã thành lập gần 250 trường dân tộc nội trú và hơn 100
trường bán trú. Cả nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ, phổ cập giáo dục
tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 94% dân cư từ 15 tuổi
trở lên biết chữ ; số năm đi học trung bình đạt 7,3. Về cơ bản nước ta đã đạt
được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ sở.
d) Công tác xã hội hoá giáo dục
đã đem lại kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực
vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đầu
tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Tỷ
trọng nguồn kinh phí xã hội đóng góp trong tổng kinh phí giáo dục ngày càng
tăng, đạt khoảng 25% vào năm 2000.
e) Chất lượng giáo dục có chuyển
biến trên một số mặt. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của
một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao; giáo dục trung học phổ thông
chuyên đạt trình độ cao của khu vực và thế giới, số học sinh phổ thông đạt các
giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học ngày càng tăng. Số đông sinh viên tốt
nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự
lập, năng động. Chất lượng đào tạo của một số ngành khoa học cơ bản và khoa học
công nghệ đã được nâng cao một bước. Giáo dục đại học đã từng bước vươn lên,
đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sỹ
cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có những cống hiến quan trọng trong hầu
hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Nhờ những thành tựu của giáo dục
và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta
theo bảng xếp loại của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) 10 năm gần
đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,456 - xếp thứ 121 tăng lên 0,682 - xếp thứ
101/174 nước. So với chỉ số phát triển kinh tế (GDP/người), HDI vượt lên 19
bậc.
Nguyên nhân của những thành tựu
là do đại bộ phận nhân dân ta có tinh thần hiếu học, chăm lo cho việc học tập
của con em; phần lớn các nhà giáo tận tuỵ với nghề. Đảng và Nhà nước ta đã rất
quan tâm và có những chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển giáo dục. Thực
hiện Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII
và thi hành Luật Giáo dục, sự nghiệp giáo dục đã có những chuyển biến tích cực.
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai phổ cập giáo dục trung học cơ sở
trong cả nước, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông; chỉ đạo xây dựng và
triển khai quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn
2001-2010; tập trung xây dựng và củng cố hai Đại học Quốc gia và một số trường
trọng điểm khác; quan tâm nhiều hơn đến phát triển giáo dục cho các vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc ít người; khắc phục một bước những hiện tượng tiêu cực
trong giáo dục. Chính phủ cũng đã tập trung hoàn thiện từng bước hệ thống các
chính sách vĩ mô về giáo dục, chỉ đạo thực hiện các giải pháp khắc phục các yếu
kém, bất cập, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao chất lượng giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách
nhà nước và các nguồn khác tăng lên. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng
từ 8% năm 1990 lên tới 15% năm 2000. Nhiều chương trình, đề án lớn huy động đa
dạng nguồn lực để phát triển giáo dục, đặc biệt là cho giáo dục phổ thông đã
được triển khai.
Ngành giáo dục đã có một số đổi
mới về mục tiêu giáo dục; đa dạng hoá các loại hình giáo dục và các nguồn kinh
phí, huy động xã hội tham gia phát triển giáo dục, tạo cơ hội cho nhiều người
học tập, tăng cường trao đổi và hợp tác quốc tế. Các đoàn thể quần chúng, các
tổ chức xã hội có nhiều hoạt động trợ giúp phát triển giáo dục.
Sự ổn định chính trị, những
thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân của thời kỳ đổi mới
đã tạo thêm điều kiện cũng như môi trường thuận lợi cho giáo dục phát triển.
1.2. Những
yếu kém:
Mặc dầu đã đạt được những thành
tựu nêu trên, nhưng nhìn chung, giáo dục nước ta còn yếu về chất lượng, mất cân
đối về cơ cấu; hiệu quả giáo dục chưa cao; giáo dục chưa gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn; đào tạo chưa gắn với sử dụng; đội ngũ giáo viên còn yếu, cơ sở vật
chất còn thiếu; chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục và công tác quản
lý chậm đổi mới; một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương chậm được khắc phục.
a) Chất lượng giáo dục nói chung
còn thấp một mặt chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng với các ngành nghề trong xã hội. Học sinh,
sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế.
b) Hiệu quả hoạt động giáo dục
chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với nhập học đầu cấp còn thấp,
nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (năm học 1999 - 2000 tỷ lệ này ở tiểu học
và trung học cơ sở xấp xỉ 70%, ở trung học phổ thông 78%). Tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo còn thấp; còn nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có
việc làm.
c) Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục một bước song vẫn còn mất cân đối.
Công tác chỉ đạo cũng như tâm lý xã hội vẫn còn nặng về đào tạo đại học, chưa
chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là nghề trình độ cao. Việc tăng
quy mô đào tạo trong những năm gần đây chủ yếu diễn ra ở bậc đại học; tỷ lệ học
sinh, sinh viên cao đẳng kỹ thuật, công nghệ, trung học chuyên nghiệp và học
nghề còn thấp và tăng chậm. Công tác dự báo, quy hoạch định hướng ngành nghề
đào tạo chưa tốt. Học sinh, sinh viên chưa được nhà trường hướng dẫn đầy đủ về
nghề nghiệp và tạo khả năng tự lập nghiệp.
Các cơ sở giáo dục, nhất là giáo
dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập trung quá nhiều vào các thành phố lớn,
khu công nghiệp lớn. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số còn khó khăn.
Chưa chú trọng đúng mức đến các
hình thức giáo dục không chính quy, giáo dục bên ngoài nhà trường, đặc biệt cho
những người đang lao động.
d) Đội ngũ nhà giáo thiếu về số
lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng
nhanh quy mô vừa phải đảm bảo và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đặc
biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại học ít có điều kiện thường xuyên tiếp
cận, cập nhật tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới.
e) Cơ sở vật chất của nhà trường
còn thiếu thốn. Chưa thanh toán hết các lớp học 3 ca; vẫn còn các lớp học tranh
tre nứa lá ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thư viện, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy và học tập còn rất thiếu và lạc hậu.
g) Chương trình, giáo trình,
phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá. Chương trình giáo dục còn
mang nặng tính hàn lâm, kinh viện, nặng về thi cử; chưa chú trọng đến tính sáng
tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của
thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội cũng như nhu cầu của người học; chưa gắn
bó hiệu quả với nghiên cứu khoa học - công nghệ và triển khai ứng dụng. Giáo
dục trí lực chưa kết hợp hữu cơ với giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách công
dân, trách nhiệm đối với xã hội, ý thức tự tôn dân tộc...Chế độ thi cử còn lạc
hậu. Cách tuyển sinh đại học còn nặng nề và tốn kém.
h) Công tác
quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Một số hiện tượng
tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời. Các hiện
tượng ²thương mại hoá giáo dục² như mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, thu chi sai nguyên
tắc làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường, của nhà giáo. Hiện tượng gian lận
trong kiểm tra, thi cử của học sinh, sinh viên ảnh hưởng xấu đến nhân cách và
thái độ lao động của người học sau này. Ma tuý và các tệ nạn xã hội đã xâm nhập
vào nhà trường.
Nhìn chung,
chất lượng và hiệu quả nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong giai đoạn phát
triển mới.
Nguyên nhân của những yếu kém,
bất cập trước hết là do những yếu tố chủ quan, trình độ quản lý giáo dục chưa
theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát triển khi nền kinh tế đang chuyển từ kế
hoạch hoá tập trung sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chưa phối hợp
tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội; chậm
đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định hướng
chiến lược và chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý mối tương quan lớn giữa quy
mô, chất lượng và hiệu quả trong giáo dục. Các văn bản pháp quy về giáo dục
chưa được ban hành kịp thời. Công tác thanh tra giáo dục còn
yếu và chưa được quan tâm đúng mức. Những vấn đề về lý luận phát triển giáo dục
trong giai đoạn mới chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức để định hướng các
hoạt động thực tiễn. Năng lực của cán bộ quản lý giáo dục các cấp chưa được
chú trọng nâng cao. Một số cán bộ quản lý và giáo viên suy
giảm về phẩm chất đạo đức.
Quan điểm "giáo dục là quốc
sách hàng đầu" của Đảng và Nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thực sự
chỉ đạo hành động trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Giáo dục
vẫn được xem như là công việc riêng của ngành giáo dục; chưa tạo ra được sự
liên kết, phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp, các lực lượng xã hội và ngành
giáo dục để phát triển sự nghiệp giáo dục; việc kết hợp giáo dục nhà trường với
giáo dục gia đình và giáo dục ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng mức.
Về mặt khách quan, trong những
năm qua giáo dục nước ta chịu một sức ép rất lớn về nhu cầu học tập ngày càng
tăng do dân số và trình độ dân trí tăng, song lao động dư thừa nhiều, khả năng
sử dụng lao động của nền kinh tế còn hạn chế, khả năng đầu tư cho giáo dục còn
hạn hẹp. Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở
cửa đang làm thay đổi thang giá trị xã hội, phẩm chất của người lao động...
Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng phát triển nhân cách người học. Giáo
dục nước ta chưa có những biện pháp hiệu quả để tác động tích cực đến những
thay đổi đó.
Những chậm trễ trong việc cải
cách hành chính nhà nước, trong việc đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử
dụng lao động, chính sách tiền lương... cũng là những yếu tố cản trở việc giải
quyết có hiệu quả những vướng mắc của ngành giáo dục trong việc huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội vì sự nghiệp phát triển giáo dục để tạo một sự
tăng trưởng nhanh chóng, đáp ứng những nhu cầu rất cao của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nước ta còn nghèo, thu nhập quốc
dân trên đầu người thấp, nguồn tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị và đầu tư cho
giáo dục còn nhiều thiếu thốn, trong lúc nhu cầu của xã hội đối với giáo dục
tăng nhanh. Trong bối cảnh đó, dù còn những yếu kém và bất cập nêu trên, những
thành tựu giáo dục đã đạt trong những năm vừa qua là rất đáng trân trọng.
2. BỐI
CẢNH VÀ THỜI CƠ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC NƯỚC TA TRONG VÀI THẬP KỶ TỚI:
2.1. Bối cảnh
quốc tế:
a) Cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt trong thế kỷ 21,
đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát
triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến
đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Khoảng
cách giữa các phát minh khoa học- công nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng
thu hẹp lại; kho tàng kiến thức của nhân loại ngày càng đa dạng, phong phú và
tăng theo cấp số nhân.
b) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa
là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia sẽ ngày càng quyết liệt hơn đòi hỏi
phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá và đổi mới công nghệ
một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, Internet
tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, đồng thời cũng đang diễn ra
cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ, sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội
nhập và toàn cầu hoá đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ
trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền
tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức
dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau.
c) Đổi mới giáo dục đang diễn ra
trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong
giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến
cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển
sang mở cửa rộng rãi, đối thoại với xã hội và gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu
khoa học - công nghệ và ứng dụng; nhà giáo thay vì chỉ truyền đạt tri thức,
chuyển sang cung cấp cho người học phương pháp thu nhận thông tin một cách hệ
thống, có tư duy phân tích và tổng hợp. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là
phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho phát triển.
Vì vậy, các quốc gia, từ những
nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức được vai trò và vị
trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách
năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất
nước.
2.2. Bối cảnh
trong nước:
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục
khẳng định rằng trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc; trong thời gian từ nay đến năm 2010 đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước
tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
Để đi tắt đón đầu từ một đất
nước kém phát triển thì vai trò của giáo dục và khoa học công nghệ lại càng có
tính quyết định. Giáo dục phải đi trước một bước, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội.
Ở nước ta, quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá phát triển làm cho thị trường lao động được mở
rộng, nhu cầu học tập tăng lên; mặt khác, cũng làm thay đổi quan niệm về giá
trị, ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề, động cơ học tập, các quan hệ trong
nhà trường và ngoài xã hội. Tự do cạnh tranh làm phân hoá giàu nghèo, làm tăng
thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư.
Xã hội tạo điều kiện cho giáo
dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi giáo dục phải phục vụ đắc lực cho xã
hội; kịp thời điều chỉnh cơ cấu và quy mô, nâng cao trình độ đào tạo đáp ứng
các nhu cầu đa dạng của thực tiễn, tăng hiệu quả giáo dục, nhạy bén và thích
ứng nhanh với những biến động của nhu cầu nhân lực. Giáo dục cần phải định
hướng lại quan niệm về các giá trị; bồi dưỡng phẩm chất nhân cách mới, năng lực
mới và đảm bảo công bằng về cơ hội học tập ở mọi cấp bậc học và trình độ đào
tạo cho mọi tầng lớp nhân dân.
2.3. Thời cơ
và thách thức:
Bối cảnh quốc tế và trong nước
vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục nước ta.
Sự đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt
để giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới,
những cơ sở lý luận, phương thức tổ chức, nội dung giảng dạy hiện đại và tận
dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo
dục phải đổi mới và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp
nhân dân về học tập và tiếp thu những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện
những phẩm chất, năng lực cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Giáo dục nước ta phải vượt qua
không chỉ những thách thức riêng của giáo dục Việt Nam mà cả những thách thức
chung của giáo dục thế giới. Một mặt phải khắc phục những yếu kém bất cập, phát
triển mạnh mẽ để thu hẹp khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang
đổi mới và phát triển. Mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối giữa yêu cầu
phát triển nhanh quy mô và nguồn lực còn hạn chế, giữa yêu cầu phát triển nhanh
quy mô và đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng; giữa yêu cầu vừa tạo được chuyển
biến cơ bản, toàn diện vừa giữ được sự ổn định tương đối của hệ thống giáo dục.
Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và
phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới,
phải luôn phát triển và đi trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội. Dân
tộc ta có truyền thống yêu nước, lao động cần cù, tinh thần hiếu học, năng lực
tiếp thu, vận dụng tri thức và kỹ năng mới. Cần phát huy những lợi thế đó để vượt
qua thách thức, tranh thủ thời cơ xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện
đại, hướng tới một xã hội học tập, nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới, thúc
đẩy tiến bộ xã hội.
3. CÁC
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC:
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục (1998), Báo cáo chính trị tại Đại hội
IX của Đảng (2001) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã chỉ
rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục nước ta. Đó là:
3.1. Giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
3.2. Xây dựng nền giáo dục có
tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công
bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học hành. Nhà
nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học tập, khuyến khích
những người học giỏi phát triển tài năng.
Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển được
năng lực của cá nhân, đào tạo những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng
động, sáng tạo, trung thành với lý tuởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho
dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.3. Phát triển giáo dục phải
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ, củng
cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu
quả ; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo
dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
3.4. Giáo dục là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi
người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội
hoá; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển
giáo dục.
Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược
phát triển giáo dục trong giai đoạn 2001 - 2010 là khắc phục tình trạng bất cập
trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và đồng bộ; tạo cơ
sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục; phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chấn hưng đất nước, đưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững, chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực
và trên thế giới.
4. MỤC
TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẾN NĂM 2010:
4.1. Mục tiêu
chung:
Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2001 - 2010 đã nêu rõ: để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục. Vì vậy, mục tiêu
của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 là:
a) Tạo bước chuyển biến cơ bản
về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; của từng vùng, từng địa phương; hướng tới một xã hội học
tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một
số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
b) Ưu tiên nâng cao chất lượng
đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ
cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện
phổ cập trung học cơ sở.
c) Đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát
triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất
lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy - học; đổi mới quản lý giáo dục tạo
cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
4.2. Mục tiêu
phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục:
Đồng thời với việc tăng cường
chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng qui mô các cấp bậc học và trình độ đào
tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân
lực. Nâng tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình độ vào năm 2010 đạt 40%,
trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp 8%, công nhân kỹ thuật
26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước.
Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.
a) Giáo dục mầm non: Nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn
diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và
trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng
khó khăn; tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ
cho các gia đình.
Đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều
được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp. Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3
tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và 18% năm 2010. Đối với trẻ
3- 5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 58% vào năm
2005 và 67% vào năm 2010 ; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy động đến mẫu giáo
để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và 95% vào năm 2010.
Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống dưới
20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
b) Giáo dục phổ thông: Thực hiện
giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ
thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong khu
vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực,
sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến
thức vào cuộc sống.
Tiểu học: Phát triển những đặc
tính tự nhiên tốt đẹp của trẻ em, hình thành ở học sinh lòng ham hiểu biết và
những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu tiên để tạo hứng thú học tập và học tập tốt.
Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước.
Tăng tỷ lệ huy động học sinh
trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010.
Trung học cơ sở: Cung cấp cho
học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở, tạo điều kiện để học
sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ
sở ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, trong cả nước
vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000
lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
Trung học phổ thông: Thực hiện
chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ
bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực
của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng
nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông,
để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp.
Tăng tỷ lệ học sinh trong độ
tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào
năm 2010.
c) Giáo dục nghề nghiệp: Đặc
biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao
động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc
làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu
cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành kinh tế
mũi nhọn và xuất khẩu lao dộng. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp
vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học
vấn trung học cơ sở.
Hình thành hệ thống đào tạo kỹ
thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng
phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên,
nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao dựa trên nền học vấn trung học phổ thông
hoặc trung học chuyên nghiệp.
Trung học chuyên nghiệp: Thu hút
học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005,
15% năm 2010.
Dạy nghề: Thu hút học sinh sau
trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005,
15% năm 2010.
Dạy nghề bậc cao: Thu hút học
sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình
này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010.
d) Giáo dục cao đẳng, đại học và
sau đại học: Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu
kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao năng lực
cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng
hoá chương trình đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù hợp
với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực và năng
lực của các cơ sở đào tạo. Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã
hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác.
Nâng tỷ lệ sinh viên trên một
vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200 vào năm 2010. Tăng quy mô đào tạo
thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000, nghiên cứu sinh từ 3.870 năm
2000 lên 15.000 vào năm 2010.
e) Giáo dục không chính quy:
Phát triển giáo dục không chính quy như là một hình thức huy động tiềm năng của
cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi trình độ,
mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
Củng cố và nâng cao kết quả xoá
mù chữ cho người lớn, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu
quả các chương trình sau xoá mù chữ, bổ túc trên tiểu học để góp phần thực hiện
chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; tạo điều kiện để thực
hiện phổ cập bậc trung học trong những năm tiếp theo.
Tạo cơ hội cho đông đảo người
lao động được tiếp tục học tập, được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn, định
kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, các chương trình kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập hoặc
chuyển đổi nghề nghiệp. Chú trọng phát triển các chương trình chuẩn hoá đội ngũ
giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức nhà nước từ Trung ương đến địa
phương.
g) Giáo dục trẻ khuyết tật: Tạo
cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hoà nhập,
bán hoà nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm 2010.
5. CÁC
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC:
Để đạt được các mục tiêu trên,
cần tập trung thực hiện 7 nhóm giải pháp lớn: 1) Đổi mới mục tiêu, nội dung,
chương trình giáo dục; 2) Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo
dục; 3) Đổi mới quản lý giáo dục; 4) Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp và các cơ sở giáo dục; 5) Tăng
cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục; 6) Đẩy mạnh xã hội hoá giáo
dục; 7) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục. Trong đó, đổi mới chương trình
giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là các giải pháp trọng tâm; đổi mới quản
lý giáo dục là khâu đột phá.
5.1. Đổi mới
mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục:
Mục tiêu, nội dung, chương trình
được đổi mới theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tiếp cận với trình độ tiên
tiến của khu vực và thế giới; đồng thời, thích ứng với nhu cầu nguồn nhân lực
cho các lĩnh vực kinh tế-xã hội của đất nước, của từng vùng và từng địa phương;
thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội. Chú trọng giáo dục thể chất và bồi dưỡng nhân cách
người học. Hiện đại hoá trang thiết bị giảng dạy và học tập, phòng thí nghiệm,
cơ sở thực hành. Nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào giáo dục để đổi
mới phương pháp giáo dục và quản lý.
a) Giáo dục phổ thông: Nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện; thực hiện giảm tải, có cơ cấu chương trình hợp
lý vừa đảm bảo được chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, vừa tạo điều kiện để
phát triển năng lực của mỗi học sinh, nâng cao năng lực tư duy, kỹ năng thực
hành, tăng tính thực tiễn, coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ
sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp
thu của học sinh và tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển
trong khu vực; quan tâm đầy đủ đến giáo dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công
dân, giáo dục sức khoẻ và thẩm mỹ cho học sinh.
Các dân tộc ít người được tạo
điều kiện để học tập và nắm vững tiếng phổ thông, đồng thời tổ chức học chữ
viết riêng của dân tộc.
Chú trọng trang bị và nâng cao
kiến thức tin học, ngoại ngữ cho học sinh. Dạy ngoại ngữ trên diện rộng từ lớp
6; học sinh được học ổn định và liên tục ít nhất một ngoại ngữ để khi tốt
nghiệp trung học phổ thông có thể sử dụng được. Phổ cập kiến thức tin học cơ sở
trong nhà trường, đặc biệt chú trọng khả năng truy cập và xử lý thông tin trên
mạng.
Thực hiện chương trình và sử
dụng sách giáo khoa mới ở lớp đầu tiểu học và lớp đầu trung học cơ sở từ năm
học 2002 - 2003, lớp đầu trung học phổ thông từ năm học 2004 - 2005. Đến năm
học 2006 - 2007 hoàn thành triển khai chương trình, sách giáo khoa mới trong
giáo dục phổ thông.
b) Giáo dục nghề nghiệp: Xây
dựng và ban hành danh mục ngành nghề đào tạo, đổi mới và chuẩn hoá nội dung,
chương trình đào tạo theo hướng mềm dẻo, nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực
tự tạo việc làm, năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của công nghệ
và thực tế sản xuất kinh doanh, gắn kết chặt chẽ với việc làm trong xã hội,
liên thông với các trình độ đào tạo khác.
Kết hợp chặt chẽ việc đào tạo về
kiến thức và kỹ năng cơ bản tại trường với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp tại cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Huy động các chuyên gia làm việc tại các cơ sở sản
xuất, kinh doanh tham gia xây dựng chương trình, nội dung, tham gia giảng dạy
và đánh giá kết quả đào tạo.
Xây dựng nội dung, chuơng trình
đào tạo nghề bậc cao theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực
và trên thế giới, ưu tiên các lĩnh vực công nghệ: thông tin, sinh học, vật liệu
mới, chế tạo máy, tự động hóa và một số ngành phục vụ nông nghiệp và phát triển
nông thôn.
c) Giáo dục đại học, cao đẳng và
sau đại học: Tiến hành đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng đa dạng
hóa, chuẩn hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện để mau chóng tiếp thu có chọn lọc
những chương trình đào tạo của các nước phát triển về khoa học tự nhiên, kỹ
thuật và công nghệ ..., phù hợp với yêu cầu của đất nước, phục vụ thiết thực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cuả từng ngành, từng lĩnh vực,
từng vùng, từng địa phương nói riêng.
Các đại học quốc gia, các trường
đại học trọng điểm, các ngành đào tạo thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của khoa học
- công nghệ phải đi đầu trong việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và
phương pháp giáo dục.
Thiết kế các chương trình chuyển
tiếp, các chương trình đa giai đoạn và áp dụng các quy trình đào tạo mềm dẻo
nhằm tăng cơ hội học đại học cho mọi người, nhất là những người ở nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Ban hành chương trình khung cho
đại học trong năm học 2001 - 2002 và cho đào tạo thạc sĩ trong năm học 2002 -
2003.
Đổi mới chế độ thi cử, chế độ
tuyển sinh, xây dựng phương pháp, quy trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào
tạo, chất lượng giảng viên, chất lượng sinh viên một cách khách quan, chính
xác; xem đây là một biện pháp cơ bản khắc phục tính chất đối phó với thi cử của
nền giáo dục hiện nay, thúc đẩy việc lành mạnh hoá quá trình giáo dục không chỉ
ở trình độ đại học, cao đẳng mà cả ở các cấp bậc giáo dục phổ thông. Đặc biệt
quan tâm đổi mới phương pháp đào tạo trong các trường sư phạm, trước hết là hai
trường đại học sư phạm trọng điểm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở các trường phổ thông.
Phấn đấu bảo đảm các trường đều
có thư viện tốt, thường xuyên được cập nhật, có đủ giáo trình, tài liệu tham
khảo cho sinh viên và cho giảng viên. Hiện đại hoá trang thiết bị giảng dạy và
học tập, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành. Theo nhu cầu, các trường đại học có
thể tổ chức giảng dạy trực tiếp bằng tiếng nước ngoài cho một số môn học. Đảm
bảo cho sinh viên sau khi tốt nghiệp sử dụng tốt máy tính để thu thập và xử lý
thông tin, một ngoại ngữ để làm việc và giao tiếp, nâng cao năng lực hội nhập
quốc tế.
5.2. Phát
triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục:
Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm
bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa
tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Đổi mới và hiện đại hoá phương
pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi
sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy
cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có
tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng
cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học
tập, hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội.
Đổi mới chương trình đào tạo và
bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, chú trọng việc rèn luyện, giữ gìn và nâng cao
phẩm chất đạo đức nhà giáo.
a) Giáo viên mầm non: Đào tạo
giáo viên mầm non đáp ứng nhu cầu giáo viên cho các cơ sở giáo dục mầm non công
lập và ngoài công lập, tiến tới chuẩn hoá đội ngũ giáo viên mầm non. Xây dựng
chính sách đối với giáo viên mầm non, đặc biệt là giáo viên ở nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa.
b) Giáo viên phổ thông: Điều
chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông, tăng cường giáo viên nhạc hoạ, thể
dục thể thao, nữ công gia chánh, giáo viên hướng nghiệp và dạy nghề để đa dạng
hoá việc học và hoạt động của học sinh trong quá trình tiến tới học 2
buổi/ngày. Nâng dần tỷ lệ giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng. Phấn đấu đến
2005 tất cả giáo viên trung học cơ sở đều có trình độ cao đẳng trở lên, trong
đó những giáo viên trưởng, phó các bộ môn có trình độ đại học. Nâng tỷ lệ giáo
viên trung học phổ thông có trình độ thạc sĩ lên 10% vào năm 2010. Đặc biệt chú
trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa, cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Giáo viên được thường xuyên
tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ.
c) Giáo viên các trường dạy nghề
và trung học chuyên nghiệp: Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các trường
dạy nghề và trung học chuyên nghiệp theo chuẩn, bổ sung giáo viên cho một số
lĩnh vực ngành nghề mới, thực hiện luân phiên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
theo chu kỳ 5 năm/lần. Nâng tỷ lệ giáo viên trung học chuyên nghiệp có trình độ
sau đại học lên 10% vào năm 2010. Phát triển đội ngũ giáo viên thỉnh giảng bao
gồm các công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ trình độ cao trong các doanh
nghiệp, các giảng viên của các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu
công nghệ.
d) Giảng viên đại học, cao đẳng:
Khẩn trương đào tạo, bổ sung và nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên đại học,
cao đẳng để một mặt giảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên trung bình đang quá cao
hiện nay (30) xuống khoảng 20, trong đó 10 - 15 đối với các ngành khoa học tự
nhiên, kỹ thuật và công nghệ, 20 - 25 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân
văn, các ngành kinh tế, mặt khác, đón đầu sự phát triển giáo dục đại học những
năm sắp tới. Tăng chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ bổ sung nhân lực trình độ
cao cho các trường đại học, cao đẳng. Tăng tỷ lệ giảng viên đại học có trình độ
thạc sĩ lên 40%, có trình độ tiến sĩ lên 25% vào năm 2010. Chú trọng đào tạo
giảng viên nữ có trình độ cao. Giảng viên được tạo điều kiện để tiếp cận với
tri thức và các thành tựu khoa học - công nghệ mới của thế giới.
Lựa chọn các sinh viên giỏi bổ
sung nguồn giáo viên cho các trường đại học, cao đẳng và tiếp tục đào tạo trong
và ngoài nước. Ưu tiên gửi giảng viên đại học, cao đẳng đi đào tạo, bồi dưỡng ở
nước ngoài bằng ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí khác. Mời và tạo điều
kiện thuận lợi cho các cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao, có kinh
nghiệm thực tiễn đang làm việc tại các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý,
các doanh nghiệp và các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy ở
các trường đại học, cao đẳng.
e) Hoàn thiện định mức lao động,
chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với nhà giáo: Từng bước xây dựng chế độ
trả lương theo số lượng và chất lượng dạy học. Thực hiện tốt các chính sách ưu
đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở các vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn, giáo dục các đối tượng đặc biệt. Nhà nước có chế độ, chính
sách ưu đãi về lương đối với nhà giáo. Mở rộng diện tuyển giáo viên, giảng viên
theo chế độ hợp đồng dài hạn.
g) Tăng cường năng lực đào tạo
và đổi mới chương trình đào tạo của các trường sư phạm và các khoa sư phạm:
Thành lập mới các khoa sư phạm, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
trong một số trường đại học và cao đẳng khác. Tập trung xây dựng 2 trường đại
học sư phạm trọng điểm vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao, vừa nghiên cứu
khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến. Ưu tiên đào tạo giáo viên người dân
tộc và giáo viên biết tiếng dân tộc cho các cơ sở giáo dục ở vùng có nhiều
người thuộc các dân tộc thiểu số.
5.3. Đổi mới
quản lý giáo dục:
Đổi mới về cơ bản tư duy và
phương thức quản lý giáo dục theo hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước,
phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các địa
phương, của các cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu qủa các vấn đề bức
xúc, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực hiện nay.
a) Nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập
trung của Chính phủ trong việc thực hiện Chiến lược giáo dục. Đổi mới chức năng
và phương thức hoạt động của Hội đồng Quốc gia giáo dục do Thủ tướng làm Chủ
tịch theo hướng giúp Thủ tướng chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển giáo
dục. Hội đồng Quốc gia Giáo dục có bộ phận giúp việc, huy động đông đảo lực lượng
các nhà khoa học, giáo dục, hoạt động kinh tế - xã hội... có uy tín thuộc các
lĩnh vực khác nhau tham gia vào quá trình xây dựng, thẩm định các chủ trương
chính sách, kế hoạch phát triển, đánh giá chất lượng, hiệu quả các hoạt động
giáo dục và tiến độ thực hiện Chiến lược.
b) Đổi mới cơ chế và phương thức
quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát
huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của
mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập
của toàn hệ thống trong quá trình phát triển. Cụ thể là:
- Bộ Giáo dục và đào tạo cùng
với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước
theo sự phân công của Chính phủ, tập trung làm tốt ba nhiệm vụ chủ yếu: xây
dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế
chính sách và quy chế quản lý nội dung và chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra
và thanh tra. Đặc biệt chú trọng công tác thanh tra giáo dục và đảm bảo chất
lượng giáo dục thông qua việc tổ chức và chỉ đạo hệ thống kiểm định chất lượng;
xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa nhà trường, gia đình và xã hội, cơ chế
gắn kết giáo dục -đào tạo với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng qua
các hình thức tổ chức, liên kết, các chính sách vĩ mô và vi mô.
- Tăng cường chất lượng của công
tác lập kế hoạch; tiến hành dự báo thường xuyên và tăng cường cung cấp thông
tin về nhu cầu nhân lực của xã hội cho các ngành các cấp, các cơ sở giáo dục để
điều tiết quy mô, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp với nhu cầu
sử dụng.
- Thực hiện phân cấp quản lý
mạnh mẽ cho các Bộ, ngành, các địa phương, giao quyền quản lý về tổ chức, cán
bộ và tài chính cho các cơ quan quản lý giáo dục địa phương. Hoàn thiện quy chế
quản lý hoạt động của các loại hình trường. Giao quyền chủ động cao hơn cho các
trường đại học, cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường chủ động, sáng tạo
trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, đồng thời cũng phải
chịu trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội và nhân dân.
- Thực hiện cải cách hành chính
trong ngành giáo dục và đổi mới phương thức quản lý giáo dục. Thể chế hoá vai
trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục các cấp; ban
hành và tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật về giáo dục.
c) Xây dựng và thực hiện chuẩn
hoá đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm
chất đạo đức; đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp
với năng lực và phẩm chất của từng người.
Sử dụng các phương tiện, thiết
bị kỹ thuật thích hợp để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý. Xây dựng hệ
thống thông tin quản lý giáo dục, khai thác nguồn thông tin quốc tế về giáo dục
hỗ trợ việc đánh giá tình hình và ra quyết định.
Tiếp tục xây dựng và phát triển
lý luận về nền giáo dục Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu bổ
sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà
nước, đổi mới quản lý và nội dung, phương pháp giáo dục, phổ biến tri thức khoa
học giáo dục thường thức trong xã hội. Thường xuyên đánh giá tác động của các
chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới giáo dục.
d) Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với giáo dục. Các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương thường
xuyên lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách giáo dục,
đặc biệt là công tác xã hội hoá giáo dục, công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, xây dựng nề nếp, kỷ cương; coi việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục là một chỉ tiêu phấn đấu xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Phát triển
Đảng, tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức Đảng để thực sự trở thành hạt nhân
lãnh đạo trong nhà trường.
5.4. Tiếp tục
hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường,
lớp, cơ sở giáo dục:
Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân theo hướng đa dạng hoá, chuẩn hoá, liên thông liên kết từ giáo dục
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến cao đẳng, đại học và sau đại học. Tổ chức
phân luồng sau trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Phát triển mạng lưới trường,
lớp, cơ sở giáo dục theo hướng khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu trình độ,
ngành nghề và cơ cấu vùng miền, gắn nhà trường với xã hội, gắn đào tạo với
nghiên cứu khoa học và ứng dụng. Ưu tiên phát triển các trường cao đẳng kỹ
thuật, công nghệ. Ưu tiên phát triển các cơ sở giáo dục ở các vùng dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
a) Cơ cấu lại hệ thống giáo dục
đáp ứng nhu cầu của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức hệ thống giáo dục tiên tiến trên
thế giới phù hợp với điều kiện Việt nam. Cơ cấu lại các trình độ đào tạo theo
chuẩn quốc tế. Cải tiến học chế, đổi mới tuyển sinh, đa dạng hoá phương thức
đào tạo, xây dựng các quy chuẩn về liên thông, chuyển tiếp giữa các cấp bậc
học, trình độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và thực hiện các giải pháp khác
hỗ trợ việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục.
b) Mở thêm các các cơ sở giáo
dục mầm non, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn. Khuyến khích phát
triển các trường mầm non ngoài công lập, các trường mầm non ở các đơn vị sản
xuất - kinh doanh.
c) Phát triển mạng lưới trường
phổ thông rộng khắp trên toàn quốc. Xây dựng trên mỗi địa bàn xã, phường hoặc ở
nơi thưa dân thì cụm xã, phường ít nhất 1 trường tiểu học và 1 trường trung học
cơ sở đạt chuẩn quốc gia. Mỗi tỉnh xây dựng ít nhất một trường trung học phổ
thông trọng điểm. Củng cố và mở thêm các trường phổ thông dân tộc nội trú. Liên
kết các trường trung học phổ thông với các trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng
nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề ở các địa bàn để tăng thời lượng hoạt động của
học sinh tại đó trong quá trình tiến tới học và hoạt động cả ngày tại trường.
d) Thực hiện phân ban ở cấp
trung học phổ thông trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn
diện và hướng nghiệp cho mọi học sinh, có nội dung nâng cao ở một số môn học để
phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh. Hoàn thiện mô hình
trường trung học phổ thông chuyên ở các địa phương hoặc ở các trường đại học để
bồi dưỡng học sinh có năng khiếu trong các lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ
thuật, thể dục, thể thao. Nghiên cứu thí điểm và từng bước hình thành các
trường trung học phổ thông kỹ thuật công nghiệp hoặc nông, lâm, ngư nghiệp và
dịch vụ phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng vùng dân cư.
e) Củng cố và mở thêm các cơ sở
dạy nghề, đặc biệt là các cơ sở gắn với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành
nghề phù hợp với nhu cầu lao động ở địa phương. Đến năm 2005 mỗi tỉnh (thành
phố) có ít nhất một trường dạy nghề địa phương, mỗi huyện (quận) có một trung
tâm đào tạo nghề ngắn hạn, tư vấn đào tạo và việc làm. Phát triển đào tạo nghề
tại doanh nghiệp, kèm cặp, truyền nghề tại làng nghề, đào tạo nghề tư nhân.
Củng cố các trường đào tạo nghề dài hạn; phấn đấu xây dựng 25 trường đào tạo
nghề trọng điểm vào năm 2005, 40 trường vào năm 2010. Xây dựng quy hoạch mạng
lưới các trường trung học chuyên nghiệp.
g) Triển khai thực hiện quy
hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng. Tập trung đầu tư xây dựng và phát
triển các trường trọng điểm bao gồm: Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, 2 trường Đại học Sư phạm trọng điểm và một số trường
trọng điểm khác. Theo nhu cầu phát triển sẽ nghiên cứu thành lập mới một số
trường đại học phù hợp với quy hoạch khi có đầy đủ các điều kiện. Hoàn chỉnh mô
hình trường cao đẳng cộng đồng đang thí điểm và phát triển loại hình trường này
ở các địa phương khi đủ điều kiện.
Xây dựng các trường đại học, cao
đẳng thành các trung tâm vừa đào tạo vừa nghiên cứu khoa học, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ.
Xây dựng các viện, trung tâm, bộ
môn nghiên cứu khoa học, công nghệ mạnh ở các trường đại học. Đưa một số viện
nghiên cứu khoa học, trước hết là các viện nghiên cứu khoa học cơ bản vào các
trường đại học.
Chủ động nghiên cứu tìm ra các
hình thức, cơ chế kết hợp hữu cơ giữa đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực
tiễn, lấy hiệu quả ứng dụng thực tiễn làm đích để định hướng và gắn kết đào tạo
với nghiên cứu, làm cho công tác đào tạo và nghiên cứu thích ứng với cơ chế thị
trường, trực tiếp góp phần làm tăng sức cạnh tranh của hàng
hoá Việt Nam.
h) Củng cố và mở thêm các cơ sở
giáo dục thường xuyên như trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục
cộng đồng, trường bổ túc văn hoá đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi
người, ở mọi lứa tuổi và trình độ. Tăng cường cho 2 viện đại học mở về phương
tiện, thiết bị, tài liệu để mở rộng hình thức giáo dục từ xa.
5.5. Tăng cường
nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục:
Tăng đầu tư từ ngân sách nhà
nước, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục; đổi mới cơ
chế quản lý tài chính. Chuẩn hoá và hiện đại hoá trường sở, trang thiết bị
giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
a) Ngân sách nhà nước là nguồn
tài chính chủ yếu của giáo dục. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong
tương quan với các ngành khác. Nâng tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách nhà
nước từ 15% năm 2000 lên ít nhất 18% năm 2005 và 20% năm 2010; tranh thủ nguồn
tài chính vay với lãi suất ưu đãi cho giáo dục từ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB), các tổ chức quốc tế và các nước.
Ngân sách nhà nước tập trung
nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào
tạo trình độ cao, cho những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước.
Có chính sách đảm bảo điều kiện học tập cho con em người có công và diện chính
sách, cơ hội học tập cho con em gia đình nghèo. Trong thời gian 2001 - 2005,
hàng năm Nhà nước dành kinh phí từ ngân sách và sử dụng các nguồn khác để đưa
400 - 500 cán bộ khoa học đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền khoa học và
công nghệ tiên tiến.
Huy động nhiều nguồn tài chính
khác, kết hợp tốt các nguồn vốn trong và ngoài nước và sự đóng góp của xã hội
cho phát triển giáo dục.
b) Đổi mới cơ chế quản lý tài
chính theo hướng song song với việc trao quyền chủ động về tài chính cần thực
hiện chế độ tài chính công khai và chế độ kiểm toán nhằm tăng hiệu quả sử dụng
các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng
cho giáo dục.
c) Các địa phương có kế hoạch cụ
thể xây dựng thêm trường sở để đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ
sở, tăng số lượng học sinh phổ thông học và hoạt động cả ngày tại trường lên
tới 70%, nâng tỷ lệ các trường được xây dựng theo chuẩn quốc gia lên tới 50%
vào năm 2010. Đặc biệt quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên cố cho các
vùng thường xẩy ra thiên tai.
Thực hiện chế độ ưu đãi về sử
dụng đất đai, vay vốn ưu đãi để đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục.
d) Tăng cường và hiện đại hoá
trang thiết bị phục vụ đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục.
Phấn đấu đến năm 2010 có 60% trường phổ thông và 100% trường đại học, cao đẳng
được nối mạng Internet. Mở cổng kết nối Internet trực tiếp cho hệ thống đại học.
e) Xây dựng thư viện trường học.
Đến năm 2010 tất cả các trường phổ thông đều có thư viện nhà trường. Xây dựng
hệ thống thư viện điện tử kết nối giữa các trường đại học trong từng vùng tiến
tới kết nối với các thư viện trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.
g) Xây dựng một số phòng thí
nghiệm quốc gia trong các đại học quốc gia, các trường đại học trọng điểm, đầu
ngành. Xây dựng các cơ sở thực nghiệm về công nghệ ở một số trường cao đẳng.
5.6. Đẩy mạnh
xã hội hoá giáo dục:
Khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi
người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời; tiến
tới một xã hội học tập.
a) Hoàn thiện cơ sở lý luận,
thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã hội hoá giáo dục, nhằm tạo sự
nhất trí cao trong xã hội về nhận thức và tổ chức thực hiện; bổ sung và hoàn
thiện những văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách vĩ mô khuyến khích mạnh
mẽ các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân đầu tư cho phát triển giáo dục;
tạo điều kiện để vừa phát triển vừa nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống
các trường ngoài công lập, các hình thức giáo dục ngoài nhà trường và các trung
tâm giáo dục cộng đồng.
b) Phát triển các trường ngoài
công lập. Chuyển một số trường công lập thành trường ngoài công lập khi có đủ
điều kiện thích hợp. Củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục của các trường
ngoài công lập. Nâng tỷ lệ học sinh học nghề (ngắn hạn và dài hạn) ngoài công
lập đến năm 2010 lên khoảng 70%, tỷ lệ sinh viên ngoài công lập đến năm 2010
lên khoảng 30%. Các trường ngoài công lập được ưu tiên thuê đất và vay vốn tín
dụng xây trường. Nhà trường, nhà giáo và học sinh, sinh viên các trường ngoài
công lập được bình đẳng như các trường công lập. Hoàn thiện và ban hành các cơ
chế chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập.
c) Mở rộng các quỹ khuyến học,
quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích cá nhân và tập thể đầu tư phát triển giáo
dục; đổi mới chế độ học phí của các trường đại học, cao đẳng công lập và ngoài
công lập theo hướng đảm bảo tương xứng với chất lượng các dịch vụ giáo dục mà
nhà trường có thể cung cấp, phù hợp với khả năng của người học, đồng thời miễn
giảm cho các đối tượng chính sách, gia đình có công và người nghèo.
d) Mở rộng và tăng cường các mối
quan hệ của nhà trường với các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội... tạo điều kiện để xã hội có thể đóng góp
xây dựng cơ sở vật chất, góp ý kiến cho quy hoạch phát triển nhà trường, điều
chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho người học
và tiếp nhận người tốt nghiệp, giám sát các hoạt động giáo dục và tạo lập môi
trường giáo dục lành mạnh.
e) Xây dựng nhà trường thực sự
trở thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh, giáo dục toàn diện
về đức, trí, thể, mỹ. Phát huy truyền thống ²tôn sư trọng đạo² nêu cao phẩm
chất của nhà giáo, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phấn đấu để
các thầy cô giáo thực sự là những nhà giáo mẫu mực về mọi mặt, là tấm gương
sáng cho học sinh, sinh viên noi theo. Làm tốt công tác Đảng, Đoàn Thanh niên,
Hội Học sinh - Sinh viên trong nhà trường, kiên quyết loại trừ các tệ nạn xã
hội, các tiêu cực trong giảng dạy và học tập.
g) Nâng cao nhận thức, tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự giám sát của Hội đồng nhân dân, sự
quản lý của Ủy ban nhân dân các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức Công
đoàn, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên tiền phong, Hội Học sinh -
Sinh viên, Hội Cha mẹ học sinh, Hội Khuyến học và các đoàn thể, tổ chức xã hội
khác trong việc huy động nguồn lực xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục.
5.7. Đẩy mạnh
hợp tác quốc tế về giáo dục:
Khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh
các quan hệ hợp tác về đào tạo, nghiên cứu với các trường, các cơ quan nghiên
cứu khoa học có uy tín và chất lượng cao trên thế giới nhằm trao đổi những kinh
nghiệm tốt, phù hợp với điều kiện Việt Nam và tăng thêm nguồn lực phát triển
giáo dục.
a) Huy động nguồn lực từ hợp tác
quốc tế để tăng cường trang thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục phổ
thông, đặc biệt ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
b) Tăng số dự án viện trợ, vốn
vay để đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu về chuyển dịch cơ
cấu lao động và xuất khẩu lao động.
c) Hợp tác đầu tư xây dựng một
số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo đại học; nhập thiết bị thí
nghiệm khoa học tiên tiến để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
d) Phát triển các dự án hợp tác
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu giáo dục nói riêng
của cơ sở đào tạo đại học, các viện, các trung tâm chuyên nghiên cứu về giáo
dục; trao đổi thông tin, tổ chức các hội thảo, hội nghị quốc tế; tham gia hoạt
động của các cơ quan thuộc Liên hiệp quốc, tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp,
các tổ chức thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức Á - Âu và các tổ
chức khác.
e) Khuyến khích các chủ đầu tư
nước ngoài có kinh nghiệm, tiềm lực, truyền thống và trình độ tiên tiến thành
lập các cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với các đối tác Việt
Nam để đào tạo đại học, dạy nghề, giáo dục từ xa, mở các khoá bồi dưỡng ngắn
hạn có trình độ khu vực và quốc tế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
g) Xây dựng cơ chế chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý tốt việc du học tự túc.
6. TỔ CHỨC
THỰC HIỆqN CHIẾN LƯỢC:
Việc thực hiện chiến lược giáo
dục 2001-2010 được chia làm 2 giai đoạn tương ứng với 2 kế hoạch 5 năm.
Giai đoạn
một: từ năm 2001 đến 2005
Trọng tâm của giai đoạn này là
tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đổi mới nội dung, phương
pháp, chương trình giáo dục, xây dựng đội ngũ nhà giáo, đổi mới quản lý giáo
dục, đẩy mạnh xã hội hoá, tạo cơ sở chắc chắn cho việc đạt tới các mục tiêu
chiến lược trong giai đoạn hai. Thực hiện các giải pháp cấp bách chấn chỉnh và
đổi mới công tác quản lý giáo dục, ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng tiêu
cực, lập lại kỷ cương nề nếp, tạo môi trường giáo dục lành mạnh.
a) Triển khai thực hiện một số
nhiệm vụ cấp bách sau đây để tạo cơ sở và động lực cho việc thực hiện Chiến
lược:
- Xây dựng đề án đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục; đặc biệt là chấn chỉnh công tác quản lý ở cấp vĩ mô và vi mô,
cơ chế quản lý đối với các trường công lập và ngoài công lập, các hệ đào tạo
tại chức, các hệ B trong các trường công lập; hướng trọng tâm vào chất lượng
giáo dục - đào tạo.
- Khẩn trương xây dựng và triển
khai hệ thống kiểm định chất lượng ở mọi cấp học, bậc học và hình thức đào tạo.
- Đổi mới về quan niệm, quy
trình và phương pháp thi cử, kiểm tra đánh giá (bao gồm cả công tác tuyển
sinh), hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh, tạo động lực cho việc thay đổi
phương pháp dạy và học.
- Chấn chỉnh và khắc phục các
tiêu cực trong việc dạy thêm, học thêm tràn lan bằng cách kết hợp các biện pháp
hành chính với những biện pháp cơ bản thúc đẩy việc lành mạnh hóa quá trình
giáo dục và tổ chức phân luồng sau trung học cơ sở và trung học phổ thông.
- Chấn chỉnh công tác quản lý và
cấp phát văn bằng chứng chỉ.
- Chấn chỉnh việc in và phát
hành sách giáo khoa. Giảm tối đa việc in lại sách giáo khoa hàng năm, tăng hệ
số sử dụng sách giáo khoa và tỷ lệ học sinh được mượn sách giáo khoa.
- Chuẩn hoá các điều kiện về
chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm
và các điều kiện khác phục vụ giảng dạy, học tập khi thành lập trường mới và
nâng cấp lên cao đẳng hoặc đại học.
b) Thực hiện các chương trình
trọng điểm quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong giai đoạn 5 năm
2001 - 2005 bao gồm các dự án:
- Đổi mới chương trình, nội dung
sách giáo khoa;
- Củng cố và phát huy kết quả
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; thực hiện phổ cập giáo dục trung học
cơ sở;
- Đào tạo cán bộ tin học và đưa
tin học vào nhà trường;
- Đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên, tăng cường cơ sở vật chất cho các trường sư phạm;
- Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng
dân tộc ít người và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;
- Tăng cường cơ sở vật chất các
trưòng học, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, xây dựng một số
trường đại học, trung học chuyên nghiệp trọng điểm;
- Tăng cường năng lực đào tạo
nghề.
Ngoài ra, thực hiện dự án đưa
người đi học tập, nghiên cứu ở những nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến
bằng ngân sách nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt.
c) Xây dựng và triển khai các dự
án về:
- Đổi mới quản lý giáo dục;
- Hoàn thiện các cơ chế, chính
sách về xã hội hoá giáo dục;
- Bồi dưỡng nhân tài trong hệ
thống giáo dục quốc dân;
- Cơ cấu lại hệ thống đào tạo
nhân lực;
- Dạy ngoại ngữ trong nhà trường.
d) Thực hiện giai đoạn một và
một phần giai đoạn hai của quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng:
- Xây dựng và triển khai đề án
đổi mới giáo dục đại học;
- Xây dựng và triển khai đề án
đổi mới đào tạo giáo viên, giảng viên;
- Tổng kết, chấn chỉnh việc quản
lý và tổ chức đào tạo ở các trường đại học ngoài công lập, đại học mở, hệ đào
tạo tại chức;
- Thực thi việc phân cấp quản lý
cho các trường;
- Tập trung xây dựng 2 Đại học
quốc gia và một số trường đại học trọng điểm khác; mở thêm các trường đại học,
cao đẳng theo quy hoạch khi có đủ các điều kiện đảm bảo chất lượng và quy trình
mở trường.
e) Nâng tỷ lệ chi cho giáo dục
trong ngân sách nhà nước lên ít nhất là 18% vào năm 2005;
g) Tổng kết, rút kinh nghiệm và
đề xuất các điều chỉnh cần thiết về các mục tiêu cụ thể, giải pháp và chương
trình hành động qua thực tiễn triển khai giai đoạn một.
Giai đoạn
hai: Từ năm 2006 đến 2010
Trọng tâm của giai đoạn này là
đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục để đạt được các mục tiêu
chiến lược và các chỉ tiêu cụ thể; hoàn thành các chương trình dài hạn 10 năm
về phổ cập trung học cơ sở, quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng,
chương trình dạy nghề, chương trình đào tạo nhân lực, chương trình bồi dưỡng
nhân tài; thực hiện phát triển nền giáo dục dân tộc, hiện đại và đại chúng;
bước đầu xây dựng một xã hội học tập; đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các
nước phát triển trong khu vực.
Nâng tỷ lệ chi cho giáo dục
trong ngân sách nhà nước lên ít nhất là 20% vào năm 2010.
Quyết định 201/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
THE
PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-----
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
-----------
|
No:
201/2001/QD-TTg
|
Hanoi,
December 28, 2001
|
DECISION APPROVING THE "2001-2010 EDUCATIONAL DEVELOPMENT
STRATEGY" THE PRIME MINISTER Pursuant to the September 30,1992 Law on
Organization of the Government;
Pursuant to the Education Law of December 2, 1998;
Considering the report of the Minister of Education and Training, DECIDES: Article 1.- To approve
the "2001-2010 educational development strategy" promulgated together
with this Decision. Article 2.- To assign
the tasks of implementing the strategy: a) The National Council for Education shall
assist the Prime Minister in directing the implementation of the 2001-2010 educational
development strategy. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. c) The Ministry of Labor, War Invalids and
Social Affairs shall assume the prime responsibility and coordinate with the
Ministry of Education and Training, concerned ministries, branches and
localities in working out and implementing the job-training development plans
compatible with the 2001-2010 educational development strategy; formulate
policies to support policy pupils and students. d) The Ministry of Planning and Investment shall
direct branches and localities to incorporate educational development and
personnel training plans into the periodical plans of their respective branches
and localities; assume the prime responsibility and coordinate with the
Ministry of Finance and the Ministry of Education and Training in mobilizing
financial support from various sources inside and outside the country for
educational development; assume the prime responsibility and coordinate with
ministries and branches in organizing the work of information on manpower demands
and labor market fluctuation. e) The Ministry of Finance shall assume the
prime responsibility and coordinate with the Ministry of Planning and
Investment, the Ministry of Education and Training, the Ministry of Labor, War
Invalids and Social Affairs in determining the proportion of annual budget to
be spent on education, ensuring the implementation of the 2001-2010 educational
development strategy; perfect the financial policy and financial management
regime in the educational field so as to efficiently use various sources of
investment in education; work out policies on financial autonomy in educational
establishments and financial policies to encourage the association of training
with scientific research and application and encourage various socio-economic
sectors to invest in education. f) The Government’s Commission for Organization
and Personnel shall coordinate with the Ministry of Education and Training as
well as the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs in carrying out
the administrative reform in the educational service; determine the payroll,
work out regimes and policies towards educational workers, collectives and
individuals participating in the educational socialization. g) The Ministry of Science, Technology and
Environment shall assume the prime responsibility and coordinate with the
Ministry of Education and Training as well as other ministries, branches and
localities in working out mechanisms, policies and plans for utilizing the
potentials of the educational service in scientific and technological research
and application, environmental protection; assume the prime responsibility to
organize the coordination of scientific- technological research activities
between research institutes and universities as well as colleges. h) The ministries and branches shall, according
to their respective functions and tasks, organize and direct the implementation
of the 2001-2010 educational development strategy within the ambit of their
jurisdiction; coordinate with the Ministry of Education and Training and other
ministries and branches in performing the tasks of educational development
nationwide. i) The provincial/municipal People’s Committees
shall have to develop education in their localities according to competence;
draw up and direct the implementation of five-year and annual educational plans
in conformity with the 2001-2010 educational development strategy and their
local socio-economic development plans in the same period. Article 3.- This
Decision takes implementation effect after its signing. Article 4.- The
ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the
agencies attached to the Government, the presidents of the provincial/municipal
People�s Committees and members of the National Council for
Education shall have to implement this Decision. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. PRIME MINISTER
Phan Van Khai 2001-2010
EDUCATIONAL DEVELOPMENT STRATEGY
(Promulgated together with the Prime Minister’s Decision No. 201/2001/QD-TTg
of December 28, 2001) FOREWORDS The IXth National Congress of the Communist
Party of Vietnam set the overall objectives of the 2001-2010 socio-economic
development strategy, being: "To take the country out of the state of
underdevelopment, to markedly raise the material, cultural and spiritual life
of the people, laying foundations for ours to become a basically industrial
country along the direction of industrialization by the year 2020" and
"The path of our country’s industrialization and modernization is
necessary and may be shorter than that of other countries which have already
been industrialized and modernized, with both usual steps and big leaps
forward" In order to attain the above-mentioned
objectives, education, science and technology play the decisive role and the
demand for educational development is very urgent. After nearly 15 years of renewal, Vietnam’s
education has obtained important achievements though weaknesses and
shortcomings still exist. The 2001-2010 educational development strategy
determines the objectives, solutions and steps under the guiding principles of
diversifying, standardizing, modernizing, socializing and building an education
of practical and efficient nature, creating a great qualitative improvement,
taking our country’s education to the level of developed countries in the
region, raising the people’s intellectual level, training human resources and
fostering talents, actively contributing to the achievement of the objectives
of the 2001-2010 socio-economic development strategy. 1. THE PRESENT EDUCATIONAL
SITUATION IN VIETNAM ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Entering the 21st century, Vietnam’s education
has gone through 15 years of renewal and recorded important achievements in
terms of scope expansion, educational form diversification and upgrading of
material foundations for schools. The people’s intellectual level has been
heightened. The educational quality has witnessed initial improvement. a) A fairly comprehensive, unified and
diversified system of national education has been formulated with all schooling
grades and training levels from pre-school education to postgraduate education.
The networks of general education schools have been built nationwide. There
have been in various mountainous provinces and districts boarding and/or
semi-boarding schools for ethnic minority pupils. Vocational education schools
and centers have developed in various forms, short-term job-training courses
have strongly developed. Universities and colleges have been founded in almost
all big population areas, regions and localities throughout the country. The
schools’ material and technical foundations have been upgraded and bettered.
The numbers of schools and classrooms built under the national standards have
been on the constant rise. The educational system has been initially
diversified in form, mode and resources, step by step integrating itself into
the general trend of world education. From a system of only public schools
mainly with formal education, now it witnesses non-public schools, various
forms of non-formal education, open schools as well as various modes such as
correspondence education, training cooperation with foreign countries. The
regime of school fee collection from all post-universalization education grades
and training levels has been implemented. The percentages of non-public school
pupils and students against the total numbers of pupils and students have risen
constantly, accounting for 66% of the total crech children, over 50% of the
total kindergarteners, more than 34% of the total senior high-school pupils and
over 11% of the university students in the 2000-2001 academic year. b) Education has quantitatively developed very
fast, initially meeting the schooling demand of the society. It was recorded in
the 2000-2001 school-year with nearly 18 million general education pupils,
820,000 vocational trainees (130,000 on long-term courses), 1 million
university and college students. The number of students on every 10,000 people
has reached 118, surpassing the oriented target set for 2000 in the Resolution
of the second plenum of the Party Central Committee of the VIIIth Congress.
Vocational training in 2000 rose by 1.8 time over 1997. The number of laborers going through training in
various forms and at various levels has accounted for 20% of the total national
work-force, achieving the oriented target set in the Resolution of the second
plenum of the Party Central Committee of the VIIIth Congress. c) Social justice in junior secondary education
has been basically ensured; education in regions inhabited by ethnic minority people
has seen positive changes, with the setting up of nearly 250 boarding schools
and more than 100 semi-boarding schools for ethnic minority pupils. Illiteracy
has been eliminated, the universalization of primary education has been
completed and the junior secondary education is being universalized throughout
the country. Nearly 94% of the people aged 15 upward have become literate; the
number of schooling years has reached 7.3 on average. Basically, our country
has achieved the gender equality in junior secondary education. d) The work of socialization of education has
brought about initial results. Various social forces have more and more
actively participated in mobilizing children to go to school, building material
foundations of schools, investing in school opening, contributing educational
fund in various forms. The proportion of social funding contributed to
education has increasingly risen, making up some 25% of the total educational
fund in 2000. e) The educational quality has been improved in
some aspects. The knowledge and capability to approach new knowledge of part of
pupils and students have been heightened; the specialized senior high education
has reached a high level in the region and the world, the number of
general-education pupils winning national and international prizes for a number
of study subjects is on the rise. A large number of university and college
graduates have great ambitions to establish their own social positions, to earn
their own living, have the sense of self-reliance and are dynamic. The training
quality of a number of fundamental and technological sciences has been raised
one step. Tertiary education has developed step by step, training out a large
contingent of science workers and technicians of bachelor, master or doctor
degree, who have been working in almost all social and economic domains and
made important contributions. Thanks to achievements in the field of education
and other social domains, our country’s human development index (HDI) in the
past 10 years has seen marked progress according to the ranking table of the
United Nations Development Program (UNDP): from the rank of 121 with 0.456
index to the rank of 101/174 countries with 0.682. As compared with the
economic development index (GDP per capita), the HDI has jumped 19 ranks. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Investment in education from the State budget
and other sources has increased. The State budget investment in education rose
from 8% in 1990 to 15% in 2000. Many big programs and schemes on diversified
mobilization of resources for the development of education, particularly
general education, have been deployed. The educational service has made some changes in
educational objectives; diversified educational forms and funding sources,
mobilizing the society to take part in educational development, creating
schooling opportunities for many people and intensifying international exchange
and cooperation. Mass organizations and social organizations have carried out
many activities in support of educational development. The political stability, the fruits of economic
development and the better living conditions of people in the period of renewal
have further created favorable conditions and environment for the education to
develop. 1.2. Weaknesses: In spite of the above-mentioned achievements,
panoramically our country’s education remains qualitatively weak and
structurally imbalanced; the educational efficiency is not so high; education
is not closely associated with reality; training is not closely linked to
utility; the teachers contingent remains weak and the material foundations are
inadequate; the educational programs, textbooks and methods as well as
managerial work are slow to be renovated; some negative phenomena and the lack
of discipline are slow to be redressed. a) The educational quality is generally low,
failing to approach the advanced levels in the region and the world on the one
hand, and to satisfy the requirements of various production and business lines and
trades in the society on the other hand. The graduate pupils and students are
still limited in the capability of creative thinking, practicing skills and
occupational adaptability; their sense of labor discipline, cooperation and
healthy competition is not so high; their capabilities to work independently
are limited. b) The educational efficiency is not high. The
percentage of graduates from each educational level as compared to the total
enrollment at the beginning of the corresponding level, especially in
mountainous, deep-lying and remote regions is low (approximately 70% for
primary and junior secondary education and 78% for senior secondary education
in the 1999-2000 school-year). The percentage of trained laborers remains low;
a large number of graduate pupils and students are unable to find jobs. c) The level-based structure, the
occupation-based structure and the region-based structure, though having been
improved one step, remain imbalanced. The work of direction as well as social
psychology focus heavily on tertiary education, while proper attention has not
yet been paid to vocational training, particularly in jobs requiring high
skills. The educational scope has in recent years been expanded, but largely at
the university level; the number of students enrolled in technical or
technological colleges, intermediate vocational schools or job-training courses
is still low and slow to rise. The work of vocational- training forecast,
planning and orientation has not been well carried out. Pupils and students
have not yet been provided by their schools with adequate professional guidance
as well as capabilities to make their own careers. Educational establishments, particularly
tertiary education and vocational education establishments, are too concentrated
in big cities and big industrial zones. Education in deep-lying, remote areas
as well as regions inhabited by ethnic minority people still meets with
difficulties. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. d) The teachers contingent is inadequate in
quantity and generally low in quality, failing to meet the requirements of both
expanding the scope and raising the quality and efficiency of education.
Particularly, the contingent of university lecturers have had few conditions to
regularly update their knowledge and approach new scientific and technological
achievements in the world. e) The schools material foundations remain
inadequate. Three-shift classrooms have not yet been completely done away with;
there still remain palm-leaf roofed and bamboo-walled classrooms in
mountainous, deep-lying and remote regions. Libraries, equipment and facilities
in service of teaching and learning are in serious shortage and obsolete. f) Educational programs, textbooks and
methodology are slow to be renovated and modernized. The educational programs
are heavily academic, scholastic and examinations-loaded, without attaching
importance to creativeness, practicing capabilities and vocational guidance and
without being closely linked to the practical requirements of socio-economic
development; the educational efficiency has not yet been linked to scientific
and technological research and application. The intellectual education has not
yet been organically combined with education in ethical quality, civic
personality, social responsibility, the sense of national dignity The
examination regime remains backward. The way of enrolling university students
is cumbersome and costly. g) The educational administration is less
effective. A number of negative phenomena in education have not yet been
redressed in time. The phenomena of "commercialization of education"
such as diploma buying, point selling, enrolling students beyond prescribed quotas,
unprincipled collection and spending have harmed the prestige of schools and
teachers. Cheating in tests and examinations committed by pupils and students
will badly affect the learners personality and working attitude in the future.
Drug addiction and social evils have found their way into schools. Generally speaking, the quality and efficiency
of raising the people’s intellectual levels, human resource training and talent
fostering remain low, failing to meet the country’s requirements in the new
period of development. Those weaknesses and shortcomings are attributed
first of all to subjective factors; the educational administration level has
failed to keep pace with the reality and development requirements when the
planned and centralized economy has been transformed into the
socialist-oriented market economy; the resources of the State and the society
have not yet been well combined and efficiently used; the managerial thinking
and mode are slow to be renovated; correct strategic orientations and
macro-policies are slow to be drawn up for handling the important
interrelationship between the scope, quality and efficiency in education. The
legal documents on education have not yet been promulgated in time. The work of
educational inspection is still weak and not given proper attention. The
theoretical matters on educational development in the new period have not yet
been properly studied in order to orient the practical activities. Due
attention has not yet been paid to the raising of the qualifications of educational
administrators at all levels. A number of administrators and teachers have
ethically degenerated. The Party’s and State’s viewpoint that
"education is a top national policy" has not yet been fully perceived
nor become the action guideline among a section of leading officials and
administrators at all levels. Education is still regarded as the own affairs of
the educational service; the close cooperation and synchronous coordination
between branches, levels as well as social forces and the educational service
have not yet been created for the development of the educational cause; due
attention has not yet been paid to the combination between education at school
and education in families as well as in the society. Regarding objective causes, over the recent
years, our country’s education has been put under a strong pressure exerted by
the increasingly high demand for learning due to population growth and people’s
higher intellectual levels, the economy’s limited capability to employ a large
redundant labor as well as the limited investment in education. The country’s
shift to the market economy and adoption of the open-door policy have changed
the norms of social values and quality of laborers... This has directly
affected the orientations to develop the learners personality. Meanwhile, no
effective measures have been worked out for our country’s education to exert
positive impacts on those changes. The delay in the State administrative reform and
the renovation of economic and financial manage-ment, labor employment, wage
policies has also constituted factors hindering the effective settlement of
existing problems in the educational service in mobilizing the combined
strength of the entire society for the cause of educational development in
order to create a rapid growth, satisfying the extremely high demands of the
process of national industrialization and modernization. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. 2. CIRCUMSTANCES AND
OPPORTUNITIES AS WELL AS CHALLENGES TO OUR COUNTRY�S
EDUCATION IN SEVERAL DECADES AHEAD 2.1. International context: a) The scientific and technological revolution
continues to develop with big leaps forwards in the 21st century, taking the
world from the era of industry to the era of information and development of
knowledge-based economy and at the same time exerting impacts on all fields and
causing fast and profound changes in the material and spiritual life of the
society. The gap between scientific and technological inventions and their
application to reality has been further and further narrowed; the treasury of
mankind’s knowledge has been more and more diversified, rich and increasing by
geometric progression. b) Globalization and international economic
integration has become an objective trend, being, on the one hand, the process
of cooperation for development and, on the other hand, the process of struggle
of the developing countries to protect their national interests. The economic
competition among nations has become fiercer and fiercer, requiring higher
labor productivity, higher quality of goods and rapid technological renewal.
The media, telecommunications networks and Internet have facilitated the
cultural exchange and integration and at the same time given rise to a fierce
struggle to preserve national cultural identities. The vigorous scientific and technological
development, the dynamic development of various economies and the process of
integration and globalization have made the narrowing of development gap
between nations more realistic and faster. Sciences and technologies have
become the basic driving forces for socio-economic development. Education
constitutes the foundation of scientific and technological development as well
as human resource development to satisfy the demands of the modern society and
plays key role in raising the national pride, the sense of responsibility and
the capabilities of the present and future generations. c) Educational renovation is taking place on a
global scale. Such a circumstance has given rise to profound changes in
education, from the perception of educational quality and building of learners
personality to the way of organizing the educational process and system.
Schools have shifted from the enclosed state to the open-door state, dialoguing
with the society and being closely associated with scientific and technological
research and application; teachers have provided learners with ways of
receiving information in a systematic manner and with analytical and synthetic
thinking instead of only having passed knowledge to them. Investment in
education has been considered the investment in development but not the social
welfare as in the past. Therefore, nations, from the developing
countries to the developed countries, are all fully conscious of the foremost
role and position of education and have to renovate education in order to be
able to satisfy in a more dynamic, more efficient and more direct manner the
requirements of national development. 2.2. Domestic circumstance: The IXth National Party Congress has continued
to confirm that on the basis of firmly grasping two strategic tasks of
socialist construction and defense of the Fatherland, from now to the year
2010, to take our country out of the state of underdevelopment, to markedly
raise the people�s
material and spiritual life, laying foundations for our country to basically
become an industrialized country along the direction of modernization by the
year 2020. The path of national industrialization and modernization of our
country should and can be shortened as compared to the countries which have
embarked on that path, with orderly steps and big leaps forward too. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. In our country, the process of industrialization
and modernization has been carried out in a circumstance where exist various
forms of ownership, various economic sectors operating under the
socialist-oriented market mechanism. Commodity production has developed, thus
broadening the labor market and increasing the demand for learning; on the
other hand, it has also changed the perception of value and affected the
selection of occupation, the learning motives, the relations at school as well
as in the society. Free competition has differentiated the rich from the poor
and widened the gap in learning opportunities between various strata of
population. The society has created conditions for education
to develop and at the same time demanded that education must actively serve the
society, timely adjust its structure and scale, raise the training levels so as
to satisfy the diversified demands of the reality, raise the efficiency of
education, quickly adapt to evolution of the human resource demand. Education
should re-orient the perception of values, foster new personal quality, new
capability and ensure equality in learning opportunities at all study levels
and all training levels for people of all strata. 2.3. Opportunities and
challenges: The international and domestic circumstances
have, on the one hand, created big opportunities and, on the other hand, posed
no small challenges to our education. The educational renovation and
development which are taking place on the global scale have created good
opportunities for Vietnam’s education to quickly approach the new trends, new
knowledge, modern theoretical bases, organizational methods as well as teaching
contents and to make full use of international experiences for renovation and
development. Our Party, State and people have more and more
treasured the role of education, paying more and more attention to education
and demand that education be renovated and developed in order to satisfy the increasingly
great demand of the people of all strata for learning and absorbing knowledge,
professional skills, being training in necessary qualifications and
capabilities in the period of national industrialization and modernization as
well as international economic integration. Our education has to surmount challenges not
only of its own but also of world education. On the one hand, it has to redress
its own weaknesses and shortcomings and develop vigorously in order to narrow
its gap with advanced educations which are also embarking into renovation and
development. On the other hand, it has to overcome the imbalance between the
fast and extensive development requirements and the limited resources, between
the fast and extensive development requirements and the urgent demand to raise
its quality; between the requirements of creating fundamental and comprehensive
changes and the requirements of maintaining the relative stability of the
educational system. The shifting of mechanism and economic
development require that education must approach and adapt itself to the new
mechanism, constantly develop and take one step ahead of the social
development. Our nation is endowed with the tradition of patriotism,
industriousness, eagerness for learning, good capability to absorb and apply
new knowledge and skills. Those advantages should be brought into full play so
as to overcome the challenges, and opportunities must be seized in order to
build an advanced and modern education, directing toward a learning society, with
a view to satisfying the demands of training human resources, raising the
comprehensive quality of the Vietnamese people in the new time and promoting
the social progress. 3. GUIDING VIEWPOINTS ON
EDUCATIONAL DEVELOPMENT The (1992) Constitution of the Socialist
Republic of Vietnam, the (1998) Law on Education, the Political Report
presented at the IXth Congress of the Party (2001) and the 2001-2010
socio-economic development strategy have clearly pointed to the guiding
viewpoints on development of our country’s education. They are: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. 3.2. Building a popular, national, scientific
and modern education along the socialist orientation, taking Marxism-Leninism
and Ho Chi Minh�s
thought as foundation. Achieving social justice in education, creating equal
opportunity for everyone to have schooling. The State and the society shall
work out mechanisms and policies to help poor people study, encourage smart
students to develop their talents. Educating and comprehensively developing
Vietnamese people with good morals, knowledge, good health and aesthetics,
developing capability of individuals, training out laborers with professional
skills, dynamism, creativeness, loyalty to the ideal of national independence
and socialism, determination to advance forward, earning their own living ,
with high sense of citizen, contributions to making the people rich, the
country strong and the society equitable, democratic, civilized, servicing the
cause of national construction and defense. 3.3. Educational development must be closely
linked with the socio-economic development requirements, scientific and
technological advance, defense and security consolidation, ensuring the
rationality in level-based structure, occupation-based structure and
region-based structure; expanding scale on the basis of ensuring the quality
and efficiency; combining training with employment. Realizing the principle of
combining learning with practice, education at school with education in
families and the society. 3.4. Education is the cause of the Party, the
State and the entire population. Building a learning society, creating
conditions for people in all age groups and at all levels to learn constantly
and to learn in their whole life. The State shall play the leading role in the
cause of educational development; stepping up the socialization of education;
encouraging, mobilizing and creating conditions for the entire society to
participate in educational development. The guiding idea of the strategy for educational
development in the 2001-2010 period is to overcome the shortcomings in many
domains; continuing with the systematic and synchronous renovation; creating
basis for markedly raising the quality and efficiency of education; actively
servicing the cause of national industrialization, modernization and
construction, taking the country on the path of fast and sustainable
development and quickly catching up with developed countries in the region and
the world. 4. EDUCATIONAL DEVELOPMENT
OBJECTIVES TILL 2010 4.1. General objectives: The 2010-2010 socio-economic development
strategy has clearly stated: To satisfy the demands for human resources which
constitute a decisive factor for national development in the period of
industrialization and modernization, fundamental and comprehensive improvement
in education must be created. Hence, the objectives of the 2001-2010
educational development strategy are: a) To create fundamental improvement in
educational quality along the direction of approaching the world’s advanced
level, suiting the Vietnamese reality, practically servicing the socio-economic
development of the country, of each region, each locality, directing towards a
learning society. To strive to take our country’s education out of the state of
lagging behind in some fields as compared with developed countries in the
region. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. c) To renew the educational objectives, contents,
methods and programs for all study grades and levels as well as training
levels; develop the contingent of teachers, meeting the requirements of both
development in scale and raising of quality and efficiency as well as renewing
the learning and teaching methods; renew the educational administration,
creating legal basis and promoting internal resources for educational
development. 4.2. Objectives of developing
educational grades, levels and forms: Alongside the raising of educational quality and
efficiency, the scope of educational grades and levels as well as training
levels shall be expanded in conformity with the level-, occupation- and region-
based structures of human resources. To raise the percentage of laborers
trained at different levels to 40% by 2010, including 6% of laborers of
collegial or higher level, 8% of intermediate vocational training level and 26%
of technical workers. To universalize junior secondary education throughout the
country. To achieve social justice in education and
create better and better schooling opportunities for people of all strata,
particularly those in regions meeting with numerous difficulties. a) Pre-school education: To raise the quality of
care for and education of children of under 6 years old, laying foundations for
children to develop all-sidedly in term of physical strength, sentiment,
intellect, aesthetics; to expand the system of creches and kindergartens in all
population regions, especially the countryside and areas meeting with
difficulties; step up the activities of disseminating child care and education
knowledge and advises to families. By 2010, almost all children shall be given care
and education in proper forms. To raise the percentage of under-3 children sent
to creches from 12% in 2000 to 15% by 2005 and 18% by 2010. For children aged
from 3 to 5 years, to raise the percentage of kindergarteners from 50% in 2000
to 58% by 2005 and 67% by 2010; particularly for 5-year old children, such
percentage shall increase from 81% in 2000 to 85% by 2005 and 95% by 2010 in
order to ready them for enrollment in the first grade of the general education.
To reduce the percentage of malnourished children in pre-school education
institutions to under 20% by 2005 and under 15% by 2010. b) General education: To effect all-sided
education in term of morals, intellect, physical strength and aesthetics. To
provide basic, systematic and vocationally guided knowledge of general
education; to approach the level of regional countries. To build a correct
attitude for study, an active, creative method of study; to foster the
eagerness for learning and knowledge, the capabilities for self-study and for
application of knowledge to life. Primary education: To develop fine natural
characteristics of children, to form in pupils the thirst for knowledge, good
qualities and primary basic skills in order to help them find interest in study
and study well. To consolidate and promote the gains of primary education
universalization throughout the country. To raise the percentage of school-goers among
the school-age children from 95% in 2000 to 97% by 2005 and 99% by 2010. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. To reach the standards of junior secondary
education universalization in cities, urban areas, economically developed regions
by 2005 and in the whole country by 2010. To raise the percentage of
junior-secondary school goers among the pupils of eligible age group from 74%
in 2000 to 80% by 2005 and 90% by 2010. Senior secondary education: To effect the
program on rational study subject- based specialization so as to provide pupils
with fundamental general education knowledge according to uniform standards and
at the same time to create conditions for every pupil to promote his/her
capabilities and to acquire technical know-how, paying attention to vocational
guidance in order to facilitate the post-senior secondary education
ramification thereby graduate pupils may start their life or select occupations
to further their study. To increase the percentage of senior secondary school
goers among the pupils of the eligible age group from 38% in 2000 to 45% by
2005 and 50% by 2010. c) Vocational education: To attach particular
importance to raising the quality of job teaching in association with raising the
sense of labor discipline and modern working style. To link training with use
demand and with employment in the process of economic and labor restructuring,
satisfying the demands of industrial parks, export processing zones, rural
areas, spearhead economic branches and labor export. To broaden the training of
technicians and professionals with knowledge and skills of intermediate level,
based on the junior secondary education knowledge. To formulate applied technique- training system
to meet the requirements of socio-economic development, with importance being
attached to short-term job-training and the training of technical workers,
technicians, professionals of high level based on the senior secondary
education or intermediate vocational education knowledge. Intermediate vocational education: To attract
pupils in the eligible age groups into intermediate vocational training
schools, achieving 10% thereof by 2005 and 15% by 2010. Job-training: To attract junior secondary school
graduates into job-training schools, raising the percentage thereof from 6% in
2000 to 10% by 2005 and 15% by 2010. High-level job-training: To attract senior
secondary school graduates and intermediate vocational school graduates into
this program, achieving 5% by 2005 and 10% by 2010. d) Graduate and post-graduate education: To
satisfy the demands for human resources of high levels suitable to the
socio-economic structure of the period of industrialization and modernization,
raising the competitiveness and equal cooperation in the process of
international economic integration. To create favorable conditions for
expansion of post-senior secondary school education through the diversification
of training programs on the basis of building a system suitable to the
level-based structure, occupation- based structure and region-based structure
of human resources and the capabilities of training establishments. To increase
the capability to adapt oneself to jobs in the society, the capability to
create jobs for oneself and for other people. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. e) Non-formal education: To develop non-formal
education as a form of mobilizing potentials of the community in order to build
a learning society, create opportunity for all people of all level, all age
groups and in all localities to be able to further their study throughout their
lives in ways suitable to their own circumstances and conditions, contributing
to raising the people�s
intellectual level and the quality of human resources. To consolidate and promote the gains in
eradicating illiteracy for adults, particularly in mountainous, deep-lying and
remote regions. To efficiently carry out post-literacy programs on follow-up
education in order to contribute to achieving the junior secondary education
universalization by 2010; create conditions for universalization of senior
secondary education in the subsequent years. To create opportunities for majority of laborers
to further their schooling, to have re-training, short-term, periodical and
regular fostering according to educational programs, professional skill
programs, suitable to the requirements of raising labor productivity,
increasing income or changing occupations. To attach importance to developing
programs on standardization of the contingent of teachers, leading officials,
administrators, State officials and employees from central to local levels. f) Education of handicapped children: To create
opportunities for handicapped children to study in integrated, semi-integrated
or special classes, achieving 50% by 2005 and 70% by 2010. 5. SOLUTIONS TO EDUCATIONAL
DEVELOPMENT To achieve the above objective, efforts should
be concentrated on effecting 7 groups of major solutions: 1) To renew the
educational objectives, contents and programs; 2) To develop teachers
contingent, renew the educational methods; 3) To renew the educational
administration; 4) To continue perfecting the structure of national education
system and develop networks of classes, schools and educational establishments;
5) To increase financial sources and material foundations for education; 6) To
step up the educational socialization; 7) To step up international cooperation
on education. Of these solutions, to renew educational programs and develop the
teachers contingent are central solutions; to renew the educational
administration is the field to start with. 5.1. To renew educational
objectives, contents and programs: The educational objectives, contents and
programs shall be renewed along the direction of standardization and
modernization, approaching the advanced levels of the region and the world; at
the same time meeting the demands for human resources for socio-economic
domains of the country, each region and of each locality; following the
principle of combining study with practice, education with productive labor,
theory with reality, education at school with education in families and the
society. To attach importance to physical education and personality fostering
for learners. To modernize teaching and learning equipment and facilities,
laboratories, practicing establishments. To apply as soon as possible
information technology to education in order to renew the educational methods
and administration. a) General education: To raise the quality of
all-sided education; to reduce study load, draw up rational program structure in
order to ensure the basic standard general education knowledge on the one hand
and to create conditions for developing the capability of each pupil, raising
the thinking capacity, practicing skills, increasing the practicality,
treasuring knowledge about social sciences and humanity on the other hand; to
supplement the achievements of sciences and modern technologies, which are
suitable to the pupils capability to absorb them and approach the general
education level of developed countries in the region; to pay due attention to
education in qualities, morals, civic sense, physical strength and aesthetics
for pupils. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. To attach importance to equipping pupils with
and raising their knowledge on informatics and foreign languages. To teach
foreign languages on a large scale, from grade 6 upwards; pupils may learn in a
stable and continuous manner at least one foreign language so that they can use
it after their graduation from senior secondary schools. To universalize the
base informatics knowledge in schools, paying particular attention to the
capability to access and process information on internets. To realize the new educational programs and use
new textbooks at the first year of the primary education and the first year of
the junior secondary education as from the 2002-2003 school-year, then the
first year of the senior secondary education as from the 2004-2005 school-year.
By the 2006-2007 school-year, the deployment of the new programs and new
textbooks in the senior secondary education shall be completed. b) Vocational education: To make and issue lists
of training occupations, renew and standardize the training contents and
programs along the direction of flexibility, raising the practicing skills, the
capability to create jobs by oneself, the capability to adapt oneself to fast
changes in technologies as well as production and business realities, closely
combining with employment in the society, succeeding to other training levels. To closely combine the training in basic
knowledge and skills at schools with the training in professional skills at
production and business establishments. To mobilize experts working at various
production and/or business establishments to participate in the elaboration of
training programs and contents, in teaching and evaluating the training
results. To draw up high-level vocational training
contents and programs along the direction of approaching the advanced levels in
the region and the world, giving priority to the fields of information,
biological, new-materials, machine-building and automation technologies as well
as a number of branches in service of agriculture and rural development. c) Graduate and post-graduate education: To
renew vigorously the training programs along the direction of diversification,
standardization and modernization, creating conditions to quickly absorb
selectively training programs of developed countries in natural sciences, techniques
and technologies, compatible with the country’s demands and rendering practical
service to the socio-economic development in general, to each branch, each
domain, each region and each locality in particular. The national universities, key universities and
training establishments of spearhead scientific and technological domains must
take the lead in renewing the educational objectives, contents, programs and
methods. To design transitional programs, multi-stage
programs and apply flexible training processes in order to increase the
opportunity for all people to take the tertiary education, particularly people
in rural, mountainous, deep-lying and remote regions. To promulgate framework programs for university
education in the 2001-2002 academic year and for master training in the
2002-2003 academic year. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. To strive to ensure that all schools have good
libraries which are constantly updated and adequately equipped with textbooks,
reference documents for students and lecturers. To modernize teaching and
learning equipment, laboratories and practicing establishments. Upon requests, universities
may organize the teaching of some study subjects in foreign languages. To
ensure that after their graduation, students can well use computers to gather
and process information and use one foreign language for working and
communication, raising capability for international integration. 5.2. To develop the
contingent of teachers, renew the educational methodology: To develop the contingent of teachers enough in
quantity, rational in structure and standardized in quality, meeting the requirements
of expansion of scope and improvement of educational quality and efficiency. To renew and modernize the educational
methodology, shifting from the passive passage of knowledge with teachers doing
the teaching and learners taking notes to guiding learners in their active
thinking in the process of approaching knowledge; teaching learners ways for
self-study, self-reception of information in a systematic way with analytical
and synthetic thinking, developing the capability of each individual; enhancing
the activeness and initiative of pupils and students in the process of their
study and self-governed activities at schools and to participate in social
activities. To renew the programs on training and fostering
teachers and lecturers, paying attention to their self-training, preservation
and enhancement of teachers ethical qualities. a) Pre-school teachers: To train pre-school
teachers to satisfy the demands for teachers of public and non-public
pre-school education institutions, proceed to standardize the contingent of
pre-school teachers. To work out policies towards pre-school teachers,
particularly those in rural, mountainous, deep-lying and remote regions. b) General education school teachers: To adjust
the structure of general education school teachers contingent, increasing the
number of teachers of music, painting, physical training and sports, housework
and household affairs, vocational guidance and job training in order to
diversify the pupils study and activities in the course of proceeding to
two-session study a day. To gradually increase the percentage of primary school
teachers with collegial level. To strive to achieve by 2005 the target that all
junior secondary school teachers are of collegial or higher level, of whom the
head- and deputy-head teachers of study subjects shall have the university
degree. To increase the percentage of senior secondary school teachers with
master degree to 10% by 2010. To attach particular importance to investment in
building the contingent of teachers for mountainous, deep-lying and remote
provinces for ethnic minority people. Teachers shall regularly attend refresher
courses to foster and raise their levels. c) Teachers of job-training schools and
intermediate vocational schools: To train and foster the contingent of teachers
of job-training schools and intermediate vocational schools according to set
standards, to supplement teachers for a number of new training fields and
trades, realize the rotation of teachers for professional fostering in a cycle
of once every five years. To raise the percentage of intermediate vocational
school teachers having the post-graduate degree to 10% by 2010. To develop the
contingent of guest teachers, including technical workers, high-level
professionals in enterprises, lecturers of universities, colleges and
technological research institutes. d) University and college lecturers: To quickly
train out, supplement and raise the level of the contingent of university and
college lecturers in order to reduce the too high current average
student/lecturer ratio (of 30) to 20, of which 10-15 for the natural science,
technical and technological branches, 20-25 for social science and humanity
branches, economic branches, and at the same time to anticipate the development
of university education in years to come. To raise the master and doctor-
training norms in order to supplement high-level human resources for
universities and colleges. To increase the percentage of university lecturers
with master degree to 40% and with doctoral degree to 25% by 2010. To attach
importance to training out female lecturers of high level. Lecturers shall be
given conditions to approach new knowledge and scientific as well as
technological achievements of the world. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. e) To perfect the labor norms, working
regulations, regimes and policies for teachers: To step by step build the
regime of wages paid according to the teaching volume and quality. To well
implement the preference policies towards teachers, educational administrators
who work in areas meeting with socio-economic difficulties or educate special
subjects. The State works out regimes and policies of wage preference for
teachers. To expand the recruitment of teachers and lecturers according to the
regime of long-term contracts, f) To enhance the training capacity and renew
the training programs of pedagogical schools and pedagogical departments: To
set up new pedagogical departments, teachers- training or fostering centers in
a number of other universities and colleges. To focus on building two key
pedagogical universities which train out high-quality teachers on the one hand
and conduct research into educational science at the advanced level on the
other hand. To prioritize the training of teachers who are ethnic minority
people and teachers who know ethnic minority languages for educational
establishments in regions where large numbers of ethnic minority people reside. 5.3. To renew the educational
administration: To basically renew the educational
administration thinking and mode along the direction of raising the
effectiveness of State management and the substantial decentralization with a
view to promoting the activeness and the sense of self-responsibility of
localities and educational establishments, efficiently settling urgent issues,
preventing and repelling current negative phenomena. a) To raise the effectiveness of the Government’s concentrated direction in
materialization of the educational strategy. To renew the functions and
operating mode of the National Council for Education headed by the Prime
Minister along the direction of assisting the Prime Minister in directing the
implementation of the educational development strategy. The National Council
for Education is composed of an assisting body, mobilizing the majority of
scientists, educators, socio-economic activists, who have prestige in various
domains to participate in the process of elaborating and evaluating policies,
development plans, evaluating the quality and efficiency of educational
activities and the tempo of strategy implementation. b) To renew the educational administration
mechanism and mode along the direction of rational decentralization with a view
to releasing and strongly promoting the potentials, creativeness, initiative
and sense of self-responsibility of each level and each educational
establishment, efficiently settling the irrationalities of the entire system in
the development process. Specifically: - The Ministry of Education and Training shall
join the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs in performing the
State management function as assigned by the Government, focussing on well
fulfilling the three major tasks: working out educational development strategy,
planning and plans; mapping out policy mechanism and regulations on management
of training contents and quality; organizing examinations and inspections. To
attach particular importance to the work of educational inspection and
assurance of educational quality through organizing and directing the
quality-inspecting system; work out mechanism for management coordination
between the school, family and society, the mechanism for associating education
and training with scientific and technological research and application through
various organizational forms, associations, macro- and micro-policies. - Raising the quality of the work of elaborating
plans; making regular forecasts and stepping up the provision of information on
human resource demands of the society for various branches, levels as well as
educational establishments in order to regulate scale, occupation-based
structure and level of training to suit the use demand. - Substantially decentralizing management for
ministries, branches and localities, delegating the right to organizational,
personnel and financial management to local educational authorities. Perfecting
the regulations on management of activities of schools of various types.
Delegating more autonomy to universities and colleges in order to create
conditions for schools to take initiative and display their creativeness in
efficiently achieving educational objectives, and at the same time to take
higher responsibility to the society and people. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. c) To build and standardize the contingent of
educational administrators. To regularly train and foster the educational
administrators in administration knowledge and skills as well as ethical
qualities; at the same time to regulate and rearrange cadres according to new
requirements in accordance with the capability and qualities of each person. To use proper technical means and equipment in
order to raise the efficiency of the administration work. To build up the
system of information on educational administration, to exploit sources of
international information on education in order to support the situation
assessment and decision making. To continue building and developing the theories
on socialist-oriented Vietnamese education; to study the supplementation and
perfection of the Party’s
and State’s guidelines and
policies on education, renew the educational administration as well as contents
and methods, to disseminate common knowledge on educational science in the
society. To regularly assess the impacts of policies and solutions to
educational renewal. d) To enhance the Party’s leadership over
education. The Party Committees from the central to local levels regularly
direct and inspect the implementation of educational undertaking and policies,
particularly the educational socialization, political and ideological
education, building of order and discipline; to consider the development of
education and the raising of educational quality a norm for building strong,
pure and clean Party organizations. To develop the Party, building and
consolidating Party organizations to really become the leading core in schools. 5.4. To continue structurally
perfecting the national education system and develop the networks of schools,
classrooms and educational establishments: To structurally perfect the national education
system along the direction of diversification, standardization and succession
and association from general education, vocational education to graduate and
post-graduate education. To organize the post-junior secondary education and
post-senior secondary education ramification. To develop the networks of schools, classrooms
and educational establishments along the direction of overcoming
irrationalities in level-based structure, occupation-based structure and
region-based structure, linking schools with the society, linking training with
scientific research and application. To prioritize the development of technical
and technological colleges. To prioritize the development of educational
establishments in ethnic minority people, deep-lying and remote regions. a) To restructure the educational system to
satisfy the national demand in the period of industrialization and
modernization, to selectively absorb world experiences in organizing advanced
educational system, suitable to Vietnamese conditions. To restructure the
training levels according to international standards. To renew the system of
education, renew the enrollment, diversify training modes, set standards on
succession and transition between study levels and grades, training levels,
between training establishments and apply other measures in support of
restructuring the educational system. b) To open more pre-school institutions,
particularly in the countryside and areas meeting with difficulties. To
encourage the development of non-public pre-schools, and pre-schools at
production and business establishments. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. d) To effect the study subject-based
specialization at the senior secondary education level on the basis of ensuring
the basic and comprehensive standard general education knowledge as well as
vocational guidance for pupils with heightened contents in some study subjects
in order to develop their capability and satisfy their aspiration. To perfect
the senior secondary school models for aptitude students in localities or
universities in order to foster pupils with aptitudes in various fields such as
sciences, literature, arts, physical strength and sports. To experimentally
study and step by step formulate industrial, agricultural, forestrial, fishery
or service senior secondary technical schools suitable to the socio-economic
characteristics of each population regions. e) To consolidate and open more job-teaching
establishments, particularly establishments based in population areas and
providing training in occupations suitable to local labor demands. By 2005, each
province (city) shall have at least one local vocational schools, and each
rural (urban) district shall have at least one center for short-term
job-training, training and employment consultancy. To develop job-training in
enterprises, occupational apprentice and hand-down in traditional craft
villages, teaching privately practiced crafts. To consolidate schools for
long-term training; strive to build 25 key job-training schools by 2005 and 40
schools by 2010. To draw up planning on intermediate vocational training school
networks. f) To deploy the implementation of the planning
on university and college networks. To concentrate investment on building and
developing key institutions including Hanoi National University, Ho Chi Minh
city National University, two key pedagogic universities and a number of other
key schools. Depending on the development requirements, to study the
establishments of some new universities in accordance with the planning when
conditions permits. To perfect the being-experimented model of community-based
colleges and develop this form in localities when conditions permits. To build universities and colleges into
training-cum scientific research- technological application and transfer
centers. To build strong scientific and technological
research institutes, centers or faculties at universities. To incorporate a
number of scientific research institutes, first of all institutes for research
into basic sciences, into universities. To take initiative in research into forms and
mechanisms for organic combination between training, research and practical
application, taking the efficiency of practical application as target to orient
and combine training with research, making the work of training and research
adaptable to the market mechanism, directly contributing to raising the
competitiveness of Vietnamese commodities. g) To consolidate and open more regular
education establishments such as regular education centers, community-based
education centers, complementary education schools, meeting the
regular-learning demands of people in all age groups and at all levels. To
further supply two open-university education institutes with facilities,
equipment and documents for expanding the form of correspondence education. 5.5. To increase financial
sources and material foundations for education: To increase investment from State budget, from
all mobilized sources in the society so as to develop education; to renew the
financial management mechanism. To standardize and modernize schools,
facilities and equipment for teaching, research and learning. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The State budget shall concentrate largely on
general education levels, rural and mountainous regions, on high-level
trainings and/or on branches where it is difficult to attract investment
outside the State budget. To work out policies to ensure study conditions for
children of people who have rendered meritorious services to the country and
are entitled to entitlement policies, and the learning opportunity for children
of the poor families. In the 2001-2005 period, the State shall annually reserve
funding from the State budget and other sources for sending 400-500 scientific
cadres abroad for training and fostering in countries with advanced sciences
and technologies. To mobilize many other financial sources, well
combining various sources of capital inside and outside the country and
contributions in the society for educational development. b) To renew the financial management mechanism
along the direction of delegating the right to financial autonomy
simultaneously with implementing the regime of financial publicity and auditing
regime in order to raise the efficiency of the use of financial sources
invested in education. To finalize the credit mechanism and policies for
education. c) Localities shall draw up concrete plans on
building more schools to speed up the universalization of junior secondary
education, increase the percentage of general education school pupils studying
and taking up activities at school the whole day to 70% and the rate of schools
built according to the national standards to 50% by 2010. To attach particular
importance to the construction of solid and semi-solid schools for regions
frequented by natural calamities. To implement the regime of preferences in land
use, capital borrowing for investment in the construction of educational
establishments. d) To increase and modernize facilities and
equipment in service of renewal of educational programs, contents and methods.
To strive to achieve 60% of the general education schools and 100% universities
and colleges having Internet connection. To open direct Internet connection
with the university system. e) To build school libraries. By 2010, all
general education schools will have school libraries. To build the system of
electronic libraries connected among universities in each region and proceed to
connect them with national, regional and international libraries. f) To build a number of national laboratories in
national universities as well as key universities. To build establishments for
technological experiment in a number of colleges. 5.6. To step up the
socialization of education: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. a) To perfect the theoretical and practical
grounds, policy mechanism and solutions for educational socialization, aiming
to achieve high unanimity in the society in perception as well as implementation
organization; supplement and finalize legal documents and macro-policies to
strongly encourage socio-economic organizations and individuals to invest in
educational development; create conditions for developing and raising the
training quality of the non-public school system, forms of education outside
schools and community-based education centers. b) To develop non-public schools. To transform a
number of public schools into non-public schools when conditions permits. To
consolidate and raise the quality of education in non-public schools. To raise
the percentage of non-public job trainees (short term and long term) to about
70% by 2010 and the percentage of non-public university students to around 30%
by 2010. Non-public schools shall be given priority in land rent and credit
loans for school construction. Non-public schools as well as their teachers and
pupils and students are equal to public schools as well as their teachers and
pupils and students. To finalize and issue policy mechanism to support non-
public schools. c) To expand study promotion funds, education
support funds, encouraging individuals and collectives to invest in educational
development; to renew the school-fee regimes for public and non-public
universities and colleges along the direction of collecting fees corresponding
to the quality of educational services provided by schools and suitable to
learners capabilities, and at the same time exempting or reducing school fees
for social policy beneficiaries, families with meritorious services to the
country and poor people. d) To expand and enhance the schools relations
with branches, localities, agencies, units, enterprises, socio-economic
organizations, creating conditions for the society to contribute to building
material foundations, give comments on school development planning, adjust
trade structures, training-level structure, provide funds for learners and
admit graduate, supervise educational activities and create a healthy
educational environment. e) To build schools into cultural centers,
healthy educational environment for all-sided education in ethics, intellect,
physical strength and aesthetics. To bring into play the tradition of
respecting teachers and treasuring morality, raising the teachers qualities and
well carrying out the work of political and ideological education so that
teachers really become exemplary in all aspects and bright examples for pupils
and students. To well promote the activities of Party organizations, Youth
Union organizations, Pupil- Student Associations in schools and resolutely get
rid of all social evils and negative phenomena in teaching and learning. f) To heighten the awareness and enhance the
leadership of the Party committees at all levels, the supervision of the People’s Councils and the management of
the People’s Committees at
all levels; to bring into play the roles of Trade Union organizations, Women’s Association, Youth Union
organizations, Vanguard Pioneers Association, Pupils-Students Association,
Pupils Parents Association, Study Promotion Society and other mass
organizations as well as social organizations in mobilizing social resources
for the cause of educational development. 5.7. To step up international
cooperation in education: To encourage the expansion and development of
relationship of cooperation in training and research with prestigeous and
high-quality schools and scientific research agencies in the world with a view
to exchanging good experiences which are suitable to Vietnamese conditions and
increasing resources for educational development. a) To mobilize resources from international
cooperation so as to enhance facilities and equipment, build material
foundations for general education, particularly in regions meeting with
socio-economic difficulties. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. c) To cooperate on investment in the
construction of a number of hi-tech centers in tertiary training establishments;
import advanced scientific experiment equipment in order to raise the
efficiency of training and scientific research. d) To develop cooperation projects in the field
of scientific research in general and educational research in particular by
tertiary training establishments, institutes, educational research centers;
exchange information, organize seminars and international conferences;
participate in activities of United Nations agencies, francophone
organizations, Asia-Pacific organizations, Asia-Europe organizations and other
organizations. e) To encourage foreign investors who have
experiences, potentials, traditions and advanced levels to set up educational
institutions with 100% foreign capital or joint ventures with Vietnamese
partners for tertiary training, vocational training, correspondence education,
short-term refresher courses of regional and international levels in Vietnam
according to the provisions of Vietnamese laws. f) To work out policy mechanism to encourage,
facilitate and well manage self-financed overseas study. 6. ORGANIZATION OF STRATEGY
IMPLEMENTATION The implementation of the 2001-2010 educational
strategy shall be divided into two stages corresponding to two five-year plans. Stage one: From 2001-2005 This stage will focus on creating a basic upturn
in educational quality, renewing the educational contents, methods and
programs, building the contingent of teachers, renewing the educational
administration, stepping up educational socialization and laying firm grounds for
achieving of the strategic objectives in stage two. Urgent measures shall be
taken to reorganize and renew the educational administration, prevent and repel
negative phenomena, restore order and disciplines and create a healthy
educational environment. a) To deploy the implementation of some
following urgent tasks in order to create basis and motive forces for the
implementation of the strategy: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - To quickly build up and deploy the
quality-inspecting system at all educational levels, grade and in all training
forms. - To renew the perception, process and methods
regarding the examination, evaluation tests (including the work of student
enrollment), to minimize negative phenomena, create driving forces for changes
in teaching and learning methods. - To redress and overcome negative phenomena in
widespread extra-teaching and extra-learning by combining administrative
measures with basic measures to make the educational process and post-junior
secondary education and post-senior secondary education ramification healthier. - To rectify the managerial work and the
granting of diplomas and certificates. - To reorganize the printing and distribution of
textbooks. To minimize the annual re-printing of textbooks, to raise the
textbook- using coefficient and the percentage of pupils lent textbooks. - To standardize the conditions on programs,
teaching materials, lecturers contingent, material foundations, laboratories
and other conditions in service of teaching and learning when new schools are
established and old schools are upgraded into colleges or universities. b) To implement national key programs already
approved by the Prime Minister in the 2001-2005 five-year period, including the
following projects on: - Renewing programs and contents of textbooks; - Consolidating and promoting the gains in
illiteracy eradication and primary education universalization; universalizing
junior secondary education; ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - Training and fostering teachers, enhancing
material foundations for pedagogical schools; - Supporting education in mountainous regions,
areas inhabited by ethnic minority people and areas meeting with socio-economic
difficulties; - Increasing material foundations for schools,
general technical training and vocational guidance centers, building a number
of key universities and intermediate vocational schools; - Enhancing the vocational training capability. Besides, to implement the projects on sending people
abroad for study and/or research in countries with advanced sciences and
technologies with State budget money, which have already been approved by the
Government. c) To map out and implement the projects on: - Renewing educational administration; - Finalizing mechanisms and policies on
educational socialization; - Fostering talents in the national education
system; ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - Teaching foreign languages at schools d) To effect stage one and part of stage two of
the planning on university and college network: - Elaborating and deploying the scheme on
renewal of tertiary education; - Elaborating and deploying the scheme on
renewal of teachers and lecturers training; - Reviewing and reorganizing the management and
organization of training at non-public universities, open universities,
on-the-job training establishments; - Effecting the management decentralization to
schools; - Concentrating on building two national universities
and a number of other key universities; opening more universities and colleges
according to planning when all the conditions on quality assurance and
establishment of schools are met. e) To raise the percentage of State budget
expenditure on education to at least 18% by 2005. f) To review, draw experiences from and make
proposals on necessary adjustments of specific objectives, solutions and action
programs through the practical implementation of stage one. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. This stage will focus on stepping up the
development and raising the quality of education in order to attain the
strategic objectives and specific targets; to complete the long-term 10-year
program on universalization of junior secondary education, the planning on university
and college networks, vocational training programs, human resource training
programs, talent- fostering programs; develop the national, modern and mass
education; to initially build a learning society; to make our education soon
catch up with the education of developed countries in the region. To raise the percentage of State budget
expenditure on education to at least 20% by 2010.- THE PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
Phan Van Khai
Quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
14.661
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|