ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
|
Số:
23/CT-UB
|
TP.
Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 5 năm 1978
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG TÙY TIỆN VÀ BUÔNG LỎNG QUẢN LÝ KỸ THUẬT, TĂNG CƯỜNG
MỘT BƯỚC CÔNG TÁC NÀY TRONG GIAI ĐOẠN TRƯỚC MẮT, GÓP PHẦN ĐƯA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
KINH TẾ - TÀI CHÁNH CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀO NỀN NẾP
A. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ KỸ THUẬT
TRONG CÁC NGÀNH CỦA THÀNH PHỐ HIỆN NAY
Hiện nay, công tác quản lý kỹ
thuật ở các cơ sở sản xuất trong các ngành của thành phố đang vừa tùy tiện, vừa
buông lỏng nghiêm trọng. Tình trạng sản xuất sản phẩm không có thiết kế, không
có định mức vật tư kỹ thuật, không có những quy định về kỹ thuật hoặc có nhưng
không được chấp hành nghiêm chỉnh rất phổ biến; hiện tượng làm ẩu, làm dối, bất
chấp kỹ thuật, coi nhẹ chất lượng đã gây nhiều thiệt hại cho sản xuất; chất
lượng sản phẩm trong sản xuất và xây dựng đều kém; giá thành sản phẩm cao; máy
móc thiết bị hư hỏng nhiều; vật tư kỹ thuật bị tiêu hao lãng phí và mất mát
lớn; năng suất lao động thấp.
Sở dĩ có tình trạng trên, ngoài
những nguyên nhân khách quan, còn do những nguyên nhân chủ quan chủ yếu sau
đây:
1. Sau ngày thành phố hoàn toàn
giải phóng, do nhu cầu tiếp quản, nhiều cán bộ được giao trách nhiệm tiếp nhận
các cơ sở để tổ chức khôi phục lại sản xuất, nhưng số khá đông trong đội ngũ
cán bộ này trên thực tế chưa kinh qua công tác quản lý, chưa có đủ năng lực và
trình độ về tổ chức và lãnh đạo sản xuất; làm việc tùy tiện theo kinh nghiệm
sẵn có của bản thân, thiếu sự hiểu biết cơ bản tối thiểu về tổ chức quản lý
kinh tế - kỹ thuật và chỉ đạo sản xuất.
2. Trong các ngành, từ cấp sở,
ban, quận, huyện đến cơ sở sản xuất còn có nhiều cán bộ chưa có nhận thức sâu
sắc về vai trò của kỹ thuật và quản lý kỹ thuật trong sản xuất và xây dựng. Mặt
khác, trong một số cán bộ, ý thức làm chủ, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ
chức kỷ luật chưa đầy đủ; trong lãnh đạo và chỉ đạo thiếu quan tâm đến việc tổ
chức và kiểm tra thực hiện những quy định về kỹ thuật đã ban hành. Các cơ sở
thì tùy tiện, không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định kỹ thuật, nhiều khi
biết sai kỹ thuật, chất lượng sản phẩm sẽ sút kém nhưng vẫn cứ làm.
3. Trong việc lập kế hoạch sản
xuất, thiếu sự tính toán toàn kỹ thuật không được quandiện về các yếu tố kỹ thuật; các định mức kinh tế tâm đến. Chỉ tiêu chất lượng không được coi
trọng đúng mức. Chưa có sự suy nghĩ gắn liền việc lập kế hoạch sản xuất với
việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật.
4. Trong tổ chức sản xuất chưa
coi trọng công tác quản lý kỹ thuật; không hiểu rằng quản lý kỹ thuật là chỗ
dựa, là cơ sở của quản lý sản tài chánhxuất,
là nội dung không thể tách rời trong công tác quản lý kinh tế của mỗi cơ sở sản xuất.
5. Tổ chức bộ máy của các cơ
quan có chức năng quản lý kỹ thuật từ trên xuống dưới chưa được xây dựng đầy
đủ, một số đã được hình thành thì hoạt động còn rời rạc, yếu ớt, kém hiệu lực.
Chế độ trách nhiệm kỹ thuật không được quy định rõ ràng ở các cấp. Những vi
phạm về kỹ thuật không được xử lý nghiêm túc kịp thời.
Về khách quan:
Chúng ta gặp nhiều khó khăn do
lối quản lý cũ để lại. Chế độ quản lý cũ chưa coi trọng quản lý kỹ thuật; cơ sở
vật chất kỹ thuật để làm việc này chưa có hoặc bị lệ thuộc.
Mặt khác, ta đang trong bước cải
tạo quan hệ sản xuất, việc tổ chức lại nền sản xuất cần phải có thời gian, cần
đầu tư chiều sâu nhiều…
Sau đây xin điểm qua một số tình
hình thực tế để thấy rõ hơn những tồn tại trong công tác quản lý kỹ thuật của
thành phố chúng ta.
Toàn thành phố có 18 sở, ty,
ngành, trong đó 12 sở, ty có liên quan đến việc quản lý sản xuất trực tiếp,
hiện chỉ có 4 cơ quan quản lý kỹ thuật. Trong số 216 cơ sở sản xuất cấp công ty
và xí nghiệp trực thuộc của thành phố, hiện nay chỉ có 94 cơ sở có tổ chức bộ
máy quản lý kỹ thuật, với tổng số cán bộ gồm 388 người. Trong đó Sở Công nghiệp
có 307 người (1 Phó tiến sĩ, 11 kỹ sư và cử nhân, 22 trung cấp kỹ thuật, 273
công nhân); Sở Giao thông vận tải 10 người (6 kỹ sư, 4 trung cấp); Sở Nông
nghiệp 7 người (3 kỹ sư, 3 trung cấp, 1 công nhân); Sở Y tế 50 dược sĩ; Sở
Thương nghiệp 9 người (3 kỹ sư, 6 trung cấp); Sở Ngoại thương 5 người. Cần nhấn
mạnh là bộ máy tổ chức quản lý kỹ thuật ở các nơi đã hình thành, hiện hoạt động
cũng còn yếu và hiệu lực kém. Hiện nay mọi người chỉ lo chạy cho hoàn thành kế
hoạch, chưa quan tâm đến việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý kỹ thuật.
Các sở, ty, ngành đang chỉ đạo
sản xuất 672 mặt hàng chính, nhưng trong số đó chỉ có 192 mặt hàng sản xuất là
có thiết kế và có quy trình kiểm tra chất lượng; có 218 mặt hàng sản xuất theo
tiêu chuẩn (25 mặt hàng theo tiêu chuẩn Nhà nước, 1 theo tiêu chuẩn ngành, 32
theo tiêu chuẩn địa phương, 191 theo tiêu chuẩn xí nghiệp), một số tiêu chuẩn
mới chỉ được áp dụng bước đầu, chưa toàn diện, chưa triệt để.
Ngoài các sở, ty, ngành ra, các
quận, huyện cũng là nơi quản lý sản xuất nhiều mặt hàng, nhất là các mặt hàng
về tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp thuộc kinh tế tập thể hoặc tư doanh.
Việc quản lý chỉ thực hiện trên danh nghĩa dưới hình thức cấp giấy phép hành
nghề: các quận, huyện chưa có bộ máy tổ chức cũng như chưa có một số biện pháp
tối thiểu nào về tổ chức quản lý kỹ thuật trong sản xuất.
Về cơ sở vật chất phục vụ cho
công tác quản lý kỹ thuật thuộc phạm vi quản lý của thành phố, hiện nay coi như
chưa có gì. Cả thành phố chỉ có một phòng thí nghiệm phân tích cơ lý hóa, do
Ban Khoa học – kỹ thuật thành phố mới xây dựng, còn chưa có đủ người và phương
tiện để hoạt động. Thuộc Sở Y tế, có một trạm kiểm nghiệm dược phẩm; Sở Nông
nghiệp có một trạm thí nghiệm nông nghiệp thuộc phòng phân tích thổ nhưỡng; Sở
Công nghiệp có các cơ sở thí nghiệm nhỏ về kiểm nghiệm sản phẩm sơn và mỹ phẩm
ở xí nghiệp. Toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý kỹ thuật chỉ
có thế. Trong lúc thành phố đảm trách sản xuất nhiều mặt hàng với số lượng rất
lớn như dệt và nhuộm vài chục triệu mét năm, quạt điện vài vạn cái năm… và
nhiều mặt hàng về kim khí, hóa chất lớn khác đều không có cơ sở vật chất kỹ
thuật để phân tích thử nghiệm và kiểm tra chất lượng.
Tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng giữa nhu cầu của công tác quản lý kỹ thuật, và bộ máy tổ chức cũng như cơ
sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý kỹ thuật như hiện nay là không thể
chấp nhận được, cần phải có biện pháp khắc phục sớm.
Tóm lại, tình trạng vừa tùy
tiện, vừa buông lỏng công tác quản lý kỹ thuật không những đã gây ra những
thiệt hại to lớn cho sản xuất hiện tại, mà sẽ còn để lại nhiều hậu quả tai hại
cho những năm sau này; nó không những cản trở sự tiến bộ về kỹ thuật, hạn chế
sự phát triển của sản xuất và xây dựng, mà còn gây ra những thói quen xấu trong
sản xuất, trong xây dựng, tạo cơ hội cho những phần tử không tốt có thể làm hại
đến công cuộc khôi phục, xây dựng và phát triển sản xuất của thành phố chúng
ta.
B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KHẮC
PHỤC TÌNH TRẠNG BUÔNG LỎNG QUẢN LÝ KỸ THUẬT, NHANH CHÓNG ĐƯA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
KỸ THUẬT VÀO NỀN NẾP
Để khắc phục tình trạng buông
lỏng quản lý kỹ thuật hiện nay, trong năm 1978, cần thực hiện một số biện pháp
cấp bách trước mắt để tăng cường công tác quản lý kỹ thuật, làm cho công tác
này phục vụ có hiệu quả công cuộc cải tạo, khôi phục, xây dựng, và phát triển
kinh tế, thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế năm 1978 của thành phố, đồng thời
tạo điều kiện để đưa công tác quản lý kỹ thuật tiếp tục tiến lên trong những
năm sau.
Những biện pháp cấp bách trước
mắt đó là:
I. XÂY DỰNG VÀ KIỆN TOÀN HỆ
THỐNG TỔ CHỨC VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT QUẢN LÝ KỸ THUẬT
Các sở, ty, ngành phải chịu
trách nhiệm trước Thành ủy và Ủy ban Nhân dân về công tác kỹ thuật và quản lý
kỹ thuật, có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo tốt công tác này trong ngành mình.
1. Về tổ chức cán bộ
Ở các cấp sở, ty, ngành, công
ty, xí nghiệp, phải phân công một đồng chí lãnh đạo chủ chốt chỉ đạo công tác
kỹ thuật và quản lý kỹ thuật. Ở các cơ sở sản xuất, các ngành quản lý sản xuất
cần bố trí những cán bộ kỹ thuật có năng lực, có kinh nghiệm đảm nhiệm những
cương vị phụ trách về kỹ thuật.
Trong điều kiện không gây xáo
trộn lớn, các sở, ty, ngành cần kiên quyết tiến hành việc điều chỉnh cán bộ kỹ
thuật để sử dụng tốt lực lượng của đội ngũ cán bộ này vào công tác kỹ thuật và
quản lý kỹ thuật.
2. Về bộ máy quản lý kỹ thuật
Các cấp cần nhanh chóng xây dựng
và kiện toàn bộ máy quản lý kỹ thuật, bao gồm các phòng kỹ thuật và các tổ chức
(phòng, ban hoặc tổ) chịu trách nhiệm về 3 mặt công tác: tiêu chuẩn hóa – đo
lường – kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa. Bộ máy quản lý kỹ thuật phải
có hệ thống dọc trong ngành. Cố gắng đến hết quý III/1978 phải hoàn thành việc
xây dựng bộ máy quản lý kỹ thuật trong các ngành, các cấp, đặc biệt ở các cơ sở
sản xuất (công ty và xí nghiệp), cần gấp rút xây dựng và đưa nhanh bộ máy quản
lý kỹ thuật vào hoạt động càng sớm càng tốt.
3. Về xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ công tác quản lý kỹ thuật
Các sở, ty, ngành cần có biện
pháp chủ động xây dựng cơ sở phân tích thí nghiệm chuyên ngành, để phục vụ cho
công tác kiểm tra kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm trong ngành mình,
bên cạnh việc tận lực tranh thủ sự hợp tác và giúp đỡ của các cơ sở phân thí
nghiệm thuộc các cơ quan trung ương tại thành phố. Ban Khoa học và kỹ thuật
thành phố, trên cơ sở phòng thí nghiệm cơ lý hóa hiện có, cần khẩn trương xây
dựng cơ sở phân tích thí nghiệm tổng hợp về cơ, lý, hóa và vi sinh, để hỗ trợ
cho các ngành trong công tác kiểm tra kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm
và hàng hóa.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHIÊM
CHỈNH CÁC CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ KỸ THUẬT
1. Trong sản xuất và xây dựng,
các ngành, các cấp phải chấp hành nghiêm chỉnh tất cả những quy định về kỹ
thuật của Nhà nước. Phải sưu tầm, phổ biến, hướng dẫn áp dụng các văn bản pháp
chế của Nhà nước về quản lý kỹ thuật (các chế độ, thể lệ, thủ tục, tiêu chuẩn,
định mức, quy trình, quy phạm, v.v…) và cụ thể hóa các văn bản đó thành các quy
định, nôi quy của mỗi ngành, mỗi cơ sở. Đồng thời soát lại những quy định đó,
chỗ nào cần điều chỉnh bổ sung nên làm gấp. Đối với những vấn đề chưa có văn
bản pháp chế quy định nhưng đã được thực hiện và có tác dụng tốt, thì phải quy
định thành văn bản và ban hành dưới các hình thức thích hợp.
2. Phải thực hiện ngay chế độ
kiểm tra kỹ thuật và tổ chức tốt 3 mặt công tác: tiêu chuẩn hóa – đo lường –
kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa trong các ngành, các cấp. Ở các cơ sở
sản xuất, phải thực hành chế độ kiểm tra kỹ thuật toàn diện, từ khâu chuẩn bị
nguyên liệu sản xuất, chuẩn bị máy móc sản xuất đến khâu kiểm tra chất lượng
sản phẩm xuất xưởng. Cần tổ chức tốt công tác “3 kiểm”, công nhân phải tự kiểm
tra sản phẩm của mình ra và không được phép nộp sản phẩm xấu; tổ trưởng sản
xuất và quản đốc phân xưởng phải kiểm tra chặt chẽ với việc thực hiện các quy
định về kỹ thuật; cán bộ kiểm tra chuyên trách phải nghiêm khắc xử lý đối với
sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Phải khen thưởng kịp thời những đơn
vị cơ sở và những công nhân sản xuất đạt và vượt mức chất lượng quy định.
3. Tổ chức việc đăng ký quy
cách, phẩm chất và nhãn hiệu sản phẩm trong các ngành, các cấp.
Theo quy định của Thủ tướng
Chính phủ, tất cả các loại sản phẩm phải được đăng ký về quy cách và phẩm chất
tại cơ quan kiểm tra chất lượng của Nhà nước. Mỗi sản phẩm phải có nhãn hiệu
của cơ sở sản xuất, phải có hồ sơ kỹ thuật cho ra xưởng. Những sản phẩm không
đúng quy cách, không đúng chất lượng quy định, không mang nhãn hiệu của cơ sở
sản xuất, nhất thiết không được xuất xưởng. Các sản phẩm mới, phải qua sản xuất
thử và giám định kỹ thuật rồi mới được tổ chức sản xuất hàng loạt. Ban Khoa học
và kỹ thuật thành phố có trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện việc đăng
ký quy cách, phẩm chất và nhãn hiệu sản phẩm trong ngành.
4. Phải tăng cường công tác quản
lý máy móc, thiết bị và phương tiện dùng trong sản xuất theo những nguyên tắc
sau đây:
a) Mỗi thiết bị phải có đủ hồ sơ
kỹ thuật và lý lịch kèm theo. Thiết bị máy móc nào thiếu hồ sơ, phải sưu tầm và
xây dựng hồ sơ cho đủ. Hồ sơ phải được bổ sung thường xuyên để người sử dụng
nắm được đầy đủ tính năng kỹ thuật và chất lượng của thiết bị.
b) Người sử dụng thiết bị phải
được huấn luyện chu đáo về kiến thức và tay nghề, phải qua sát hạch có chứng
nhận đạt yêu cầu mới cho sử dụng thiết bị và chỉ được làm những công việc trong
phạm vi được phân công.
c) Mỗi thiết bị, máy móc đưa vào
sử dụng phải có đủ quy trình vận hành, nội quy an toàn…kèm theo.
d) Việc bảo quản, bảo dưỡng, sửa
chữa thiết bị phải theo đúng chế độ lịch xích định kỳ.
5) Phải cố gắng trang bị thêm
các thiết bị, dụng cụ đo lường cần thiết. Tổ chức bảo quản, sử dụng tốt các máy
móc và dụng cụ đo lường hiện có. Tiến hành ngay việc sửa chữa và kiểm định các
máy móc, dụng cụ đo lường đã hư hỏng, thiếu chính xác. Phải tiến tới chế độ
kiểm định định kỳ đối với các máy móc, thiết bị, dụng cụ đo lường.
6) Để việc lập kế hoạch sản xuất
có cơ sở khoa học xác đáng, các ngành, các cấp, nhất là cơ sở sản xuất trực
tiếp, cần chỉ đạo tổ chức xây dựng ngay các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ
thuật cho từng loại sản phẩm. Mỗi sản phẩm phải có các định mức chủ yếu sau
đây;
Định mức vật tư kỹ thuật (vật tư
kỹ thuật chính và vật tư kỹ thuật hỗ trợ).
Định mức lao động.
Phải bảo đảm chậm nhất là quý IV
năm 1978, tất cả các sản phẩm sản xuất đều có định mức kinh tế - kỹ thuật.
7) Mỗi ngành, mỗi cấp phải cải
tiến công tác kế hoạch hóa làm cho kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiến bộ kỹ
thuật gắn liền với nhau. Đi đôi với kế hoạch phát triển sản xuất phải có kế
hoạch tiến bộ kỹ thuật. Các chỉ tiêu sản xuất phải được tính toán trên cơ sở
các điều kiện kỹ thuật và các định kỹ thuật hiện có. Việc chỉ đạo, thực hiện kế
hoạch sản xuất phảimức
kinh tế gắn chặt với việc chỉ đạo về kỹ
thuật và quản lý kỹ thuật. Đánh giá việc hoàn thành kế hoạch sản xuất phải coi
trọng cả số lượng và chất lượng, phải xem xét kỹ thuật và biện pháp kỹ thuật,
phải cókỹ
việc bảo đảm các chỉ tiêu kinh tế chế độ
thưởng phạt nghiêm minh.
Các ngành, các cấp cần thực hiện
tốt những điều trên đây, trên cơ sở quán triệt đầy đủ tinh thần và nội dung bản
nghị định số 93-CP ngày 8-4-1977 của Hội đồng Chính phủ về “Điều lệ xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh” và chỉ thị “Về việc tăng cường và mở rộng việc thi hành
Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh” số 213/TTg ngày 10-4-1978 của Phủ Thủ
tướng.
III. TỔ CHỨC HUẤN LUYỆN NGHIỆP
VỤ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ KỸ THUẬT CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, CÁN BỘ CHỦ CHỐT VÀ CÁN BỘ
THỪA HÀNH TRONG CÁC NGÀNH, CÁC CẤP
Hiện nay, nhiều cán bộ lãnh đạo
và cán bộ chủ chốt trong các ngành, các cấp, chưa nắm được nội dung của công
tác quản lý kỹ thuật; do đó, song song với việc xây dựng, củng cố và tăng cường
bộ máy quản lý kỹ thuật, các ngành, các cấp cần tổ chức huấn luyện nghiệp vụ về
công tác quản lý kỹ thuật và 3 mặt công tác: tiêu chuẩn hóa – đo lường – kiểm
tra chất lượng sản phẩm cho họ; làm cho họ nắm vững nội dung của công tác quản
lý kỹ thuật, đồng thời nắm được các văn bản pháp chế của Nhà nước để tổ chức
thực hiện tốt công tác này trong mỗi ngành, mỗi cấp. Đối với cán bộ lãnh đạo
việc tìm hiểu nội dung công tác quản lý kỹ thuật, 3 mặt công tác và các văn bản
pháp chế của Nhà nước về quản lý kỹ thuật, có thể tổ chức dưới hình thức học
hội chung trong vòng một hoặc hai ngày và phải hoàn thành trước tháng 9 năm
1978. Đối với cán bộ chủ chốt và cán bộ thừa hành ở các cơ sở, cần tổ chức học
tập kỹ hơn, chi tiết hơn nội dung công tác quản lý kỹ thuật và 3 mặt công tác.
Có thể tổ chức học tập chuyên đề từng vấn đề, mỗi chuyên đề tiến hành trong một
hoặc hai ngày, nhưng chậm nhất là hết quý III năm 1978 phải hoàn thành toàn bộ
việc học tập.
IV. CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TƯ TƯỞNG PHẢI BẢO ĐẢM PHỤC VỤ TỐT VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ KỸ THUẬT
Để bảo đảm thực hiện tốt những
điều trên đây nhằm tăng cường công tác quản lý kỹ thuật, mau chóng khắc phục
tình trạng buông lỏng quản lý kỹ thuật, các cơ quan lãnh đạo ở các ngành, các
cấp cần làm tốt công tác giáo dục chính trị và tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ,
mỗi công nhân viên nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mình đối với công tác
quản lý kỹ thuật. Phải làm cho mọi người thấy rõ quản lý kỹ thuật là một khâu
quan trọng trong việc quản lý sản xuất, quản lý kinh tế tài chánh. Không làm
tốt công tác quản lý kỹ thuật thì không thể quản lý sản xuất, quản lý kinh tế
tài chánh. Do vậy, một mặt phải nắm vững kỹ thuật sẵn có và làm đúng các quy
định về kỹ thuật đã ban hành, mặt khác phải tìm cách áp dụng kỹ thuật mới,
những phương pháp sản xuất và những quy trình công nghệ tiên tiến, làm cho
trình độ kỹ thuật không ngừng được nâng cao, tạo điều kiện cho sản xuất phát
triển mạnh mẽ.
Công tác giáo dục chính trị và
tư tưởng phải làm cho mọi người dần dần có thói quen làm đúng kỹ thuật, bảo đảm
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, khắc phục tình trạng làm ẩu, làm dối,
chạy theo số lượng, bất chấp kỹ thuật, coi thường chất lượng, gây thiệt hại to
lớn cho nền kinh tế quốc dân.
Các ngành, các cấp cần khẩn
trương tiến hành việc khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý kỹ thuật. Ban
Khoa học và kỹ thuật thành phố là cơ quan giúp Ủy ban Nhân dân quản lý tổng hợp
công tác khoa học và kỹ thuật, phải tăng cường việc giúp đỡ các ngành, các
quận, huyện về công tác quản lý kỹ thuật; phải cùng với các ngành sưu tầm, phổ
biến các quy định chung của Nhà nước (chế độ, tiêu chuẩn, quy phạm, v.v…) có
liên quan đến công tác quản lý kỹ thuật, soát lại các quy định đó và tiến hành
điều chỉnh, bổ sung những điểm cần thiết cho phù hợp với tình hình cụ thể của
thành phố, theo dõi kiểm tra việc thực hiện những quy định kỹ thuật đã ban
hành. Ban Khoa học và kỹ thuật thành phố có nhiệm vụ thường xuyên nắm tình hình
quản lý kỹ thuật trong các ngành, các cấp và đề xuất với Ủy ban Nhân dân những
vấn đề chung nhằm thúc đẩy công tác quản lý kỹ thuật. Các ngành, các cấp có
nhiệm vụ theo định kỳ từng thời gian báo cáo cho Ban Khoa học và kỹ thuật thành
phố biết tình hìn h quản lý kỹ thuật của mình, để Ban tổng hợp lại và làm báo
cáo trình lên Ủy ban Nhân dân thành phố. Ủy ban Nhân dân thành phố yêu cầu các
ngành, các cấp căn cứ vào bản phương án này để vạch ra kế hoạch và biện pháp
thực hiện cụ thể việc tăng cường công tác quản lý kỹ thuật ở mỗi ngành, mỗi cấp
trong giai đoạn trước mắt, để tài chánh của thành phố vào nềtạo
điều kiện đưa công tác quản lý kinh tế nếp.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
CHỦ TỊCH
Vũ Đình Liệu
|