THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
146-TTg
|
Hà
Nội, ngày 20 tháng 05 năm 1972
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC CẢI TIẾN CÔNG TÁC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở
CÁC XÍ NGHIỆP THÍ ĐIỂM CẢI TIẾN QUẢN LÝ
Để phù hợp với yêu cầu cải tiến
quản lý xí nghiệp, phải cải tiến công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Nội
dung cải tiến công tác thanh toán trong chỉ thị này áp dụng đối với các xí nghiệp
thí điểm cải tiến quản lý của trung ương và của các Bộ, Tổng cục, và các đơn vị
mua, bán có liên quan với các xí nghiệp cải tiến quản lý.
Việc cải tiến công tác thanh
toán nhằm đạt các yêu cầu sau đây:
- Vận dụng đúng đắn các thể thức
thanh toán bằng chuyển khoản để giải quyết nhanh chóng các quá trình thanh toán
với hao phí ít nhất cho nền kinh tế quốc dân, phục vụ tốt quá trình sản xuất
liên tục của xí nghiệp và toàn xã hội, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tăng cường
kỷ luật hợp đồng kinh tế và củng cố chế độ hạch toán kinh tế, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các tổ chức kinh tế, cả bên mua và bên bán.
- Nâng cao trách nhiệm và tinh
thần hợp tác xã hội chủ nghĩa của các thủ trưởng xí nghiệp, đề cao tinh thần tự
chủ kinh doanh và sự quan tâm đầy đủ của các xí nghiệp đối với việc thực hiện kế
hoạch Nhà nước, nhất là chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hóa thực hiện, đối với
việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế, kỷ luật thanh toán, chế độ hạch toán
kinh tế và xóa bỏ tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, gây khó khăn dây chuyền về
tài chính trong nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trách nhiệm và quyền
hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện công tác thanh toán và
trong việc kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế, thông qua công tác
thanh toán; phát huy đầy đủ vai trò trung tâm thanh toán của Ngân hàng Nhà nước
trong nền kinh tế quốc dân.
I. NGUYÊN TẮC THANH TOÁN
1. Tất cả các tổ chức
kinh tế, các đơn vị thuộc Ngân sách Nhà nước cấp phát và các tổ chức khác phải
mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, thực hiện các quan hệ thanh toán với nhau
qua Ngân hàng Nhà nước bằng chuyển khoản, trừ những khoản được thanh toán bằng
tiền mặt theo chế độ quản lý tiền mặt của Nhà nước.
2. Việc thanh toán là
trách nhiệm của bên mua và bên bán. Hai bên mua, bán phải ký kết hợp đồng kinh
tế cụ thể, hợp lệ và phải thanh toán theo đúng các điều đã ký kết trong hợp đồng
kinh tế, dùng các nguyên tắc và thể thức thanh toán đã được Nhà nước quy định.
Bên bán, sau khi chuyển giao hàng hóa hay hoàn thành cung ứng lao vụ, phải đòi
tiền kịp thời. Bên mua phải trả tiền sòng phẳng và đúng thời hạn quy định theo
các thể thức thanh toán. Mọi trường hợp chậm đòi tiền, hoặc chậm trả tiền đều
là vi phạm kỷ luật thanh toán.
3. Cấm chi việc ứng trước,
nhận tiền ứng trước (trừ trường hợp đặc biệt được Ngân hàng đồng ý), mua chịu,
bán chịu, cho thuê mượn tài khoản giữa các đơn vị kinh tế, cơ quan Nhà nước,
đơn vị bộ đội. Ngân hàng Nhà nước phải kiểm tra để ngăn ngừa và áp dụng kỷ luật
nghiêm ngặt đối với những vi phạm trên.
4. Ngân hàng Nhà nước làm
nhiệm vụ trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân phải tổ chức tốt việc
thực hiện công tác thanh toán giữa các xí nghiệp, cơ quan, đơn vị bộ đội, hợp
tác xã, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán chính xác, kịp thời. Mọi sai sót, chậm
trễ của cơ quan Ngân hàng Nhà nước gây thiệt hại về tài chính cho các đơn vị
mua, bán đều phải chịu phạt để trả cho các đơn vị thiệt hại. Đồng thời Ngân
hàng Nhà nước được quyền áp dụng các hình thức phạt đối với các đơn vị mua, bán
vi phạm, kỷ luật thanh toán.
5. Việc trích tài khoản
phải có sự đồng ý của chủ tài khoản; trong trường hợp chủ tài khoản vi phạm kỷ
luật hợp đồng kinh tế, có quyết định xử lý của Hội đồng trọng tài, và vi phạm kỷ
luật thanh toán thì Ngân hàng Nhà nước được quyền trích tài khoản để trả cho
bên được hưởng.
Đơn vị trả có trách nhiệm chuẩn
bị đủ tiền trên tài khoản tiền gửi để trả cho đơn vị bán đúng kỳ hạn; nếu tài
khoản tiền gửi không có đủ tiền thì phải xin vay Ngân hàng để trả (nếu thuộc đối
tượng cho vay của Ngân hàng). Khi trên tài khoản tiền gửi không đủ để thỏa mãn
cùng một lúc các yêu cầu chi trả, Ngân hàng sẽ giải quyết theo trật tự trước,
sau, sau đây:
Thứ nhất: Trả lương và phụ cấp
hoặc trợ cấp khác cho công nhân viên chức;
Thứ hai: Nộp thu quốc doanh, thuế,
lợi nhuận;
Thứ ba: Các khoản chi trả tiền
hàng và lao vụ;
Thứ tư: Trả nợ vay Ngân hàng;
Thứ năm: Nộp khấu hao cơ bản, khấu
hao sửa chữa lớn và các khoản khác.
II. CÁC THỂ THỨC THANH TOÁN
Có bốn thể thức thanh toán bằng
chuyển khoản: ủy nhiệm chi, giấy nhờ thu (thể thức thanh toán chấp nhận), séc
và thư tín dụng.
Việc lựa chọn thể thức thanh
toán do hai bên mua, bán thỏa thuận ghi trong hợp đồng kinh tế, phù hợp với đặc
điểm hoạt động kinh tế và điều kiện giao nhận vật tư hàng hóa.
Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm
hướng dẫn các đơn vị mua, bán, vận dụng tốt nhất các thể thức thanh toán. Trường
hợp các đơn vị mua, bán vi phạm các nguyên tắc, thể lệ thanh toán của Nhà nước,
hoặc có sự tranh chấp không thể thỏa thuận được về việc sử dụng thể thức thanh
toán giữa hai bên mua, bán thì do Ngân hàng xác định thể thức thanh toán thích
hợp để hai bên mua và bán áp dụng.
Để nâng cao tính tự chủ kinh
doanh của xí nghiệp, đơn giản thủ tục thanh toán giữa các xí nghiệp, tiết kiệm
phí lưu thông xã hội, tác động tốt đến việc cung cấp hàng hóa và cung ứng lao vụ
đúng chất lượng, đúng mặt hàng và đúng thời hạn, giảm bớt tình trạng mắc mứu,
khiếu nại trong quá trình thanh toán, cần tích cực mở rộng dần việc thanh toán
bằng thể thức ủy nhiệm chi, bảo đảm cho bên mua được kiểm tra hàng hóa, lao vụ
đúng số lượng, chất lượng trước khi trả tiền. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần
cải tiến thể thức thanh toán bằng giấy nhờ thu cho chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi cả
bên mua và bên bán; cải tiến thể thức thanh toán bằng séc; áp dụng đúng đắn thể
thức thanh toán bằng thư tín dụng; mở rộng cách thanh toán theo kế hoạch; từng
bước áp dụng cách thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế; áp dụng cách thanh
toán theo tài khoản đặc biệt trong những trường hợp cần thiết.
1. Thanh
toán bằng ủy nhiệm chi:
Thể thức ủy nhiệm chi được dùng
trong việc thanh toán giữa 2 đơn vị mua, bán cùng địa phương hoặc khác địa
phương để trả tiền hàng và lao vụ sau khi bên mua kiểm tra số lượng, chất lượng
hàng hóa hoặc lao vụ. Thể thức ủy nhiệm chi cũng được dùng để thanh toán tiền
hàng và lao vụ theo kế hoạch, nộp các khoản cho ngân sách, trả nợ Ngân hàng, trả
tiền phạt và các khoản chi trả khác.
Trong thanh toán tiền hàng và
lao vụ, sau khi kiểm tra hàng đã nhận và lao vụ đã cung ứng, bên mua phải lập ủy
nhiệm chi kịp thời để trả tiền theo đúng kỳ hạn quy định. Thể thức ủy nhiệm chi
không áp dụng đối với bên mua thường xuyên vi phạm kỷ luật chi trả, không được
dùng để ứng trước tiền hàng và trả trước tiền mua lao vụ chưa được cung ứng.
Khi áp dụng thể thức ủy nhiệm
chi, bên bán sẽ được Ngân hàng xét cho vay về hàng hóa đã gửi đi và lao vụ đã
cung ứng trong thời hạn chờ thu tiền. Thời hạn chuyển chứng từ sẽ do các cơ
quan liên quan có trách nhiệm quy định. Sau khi đã gửi hàng đi, người bán phải
đưa chứng từ đến Ngân hàng xin vay. Nếu quá hạn quy định mà người bán không đưa
chứng từ đến thì Ngân hàng không cho vay. Trường hợp xí nghiệp thiếu vốn để hoạt
động thì Ngân hàng sẽ cho vay ngoài kế hoạch.
2. Thể thức
thanh toán chấp nhận:
Thể thức thanh toán chấp nhận được
áp dụng trong việc thanh toán tiền hàng người bán đã gửi đi cho người mua, và
đòi người mua phải trả, trong điều kiện các đơn vị kinh tế sản xuất ổn định,
giao dịch với nhau thường xuyên, tín nhiệm lẫn nhau, có hợp đồng kinh tế.
Không được áp dụng thể thức chấp
nhận đối với các khoản chi trả không phải là vật tư hàng hóa, lao vụ, các khoản
trả tiền vật tư hàng hóa giữa bên bán là tổ chức kinh tế với bên mua là tổ chức
hành chính sự nghiệp, các khoản thanh toán tiền vật tư hàng hóa, lao vụ giữa
bên bán là tổ chức kinh tế với bên mua là các đơn vị xây dựng cơ bản có tài khoản
tại Ngân hàng kiến thiết, nếu hợp đồng kinh tế mua bán không được Ngân hàng kiến
thiết đăng ký và bảo đảm vốn thanh toán.
Bên bán phải lập và nộp giấy nhờ
thu (trong đó có ghi rõ số hợp đồng kinh tế), kèm theo hóa đơn, vận đơn và các
chứng từ cần thiết khác vào Ngân hàng trong thời hạn quy định.
Bên mua phải chấp nhận thanh
toán theo chứng từ, không chờ nhận được hàng hóa rồi mới thanh toán. Trường hợp
bên bán nhiều lần vi phạm hợp đồng kinh tế như gửi hàng không đúng số lượng, chất
lượng mặt hàng thì bên mua (sau khi báo cho bên bán và ngân hàng) có quyền yêu
cầu chuyển sang thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
Có hai cách chấp nhận: chấp nhận
trước khi trả tiền và chấp nhận sau khi trả tiền. Ngoài ra còn có giấy nhờ thu
không cần chấp nhận, áp dụng trong trường hợp đã tín nhiệm nhau không cần kiểm
tra hoặc chưa có điều kiện kiểm tra số lượng, chất lượng hàng hóa, lao vụ, như
trong việc trả tiền điện, nước, điện thoại v.v…
Trong điều kiện hiện nay, để đề
cao trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi của hai bên mua, bán, hạn chế việc khiếu nại
qua lại giữa hai bên mua, bán, cần phải áp dụng chủ yếu cách chấp nhận trước
khi trả tiền.
Bên bán sau khi nộp giấy nhờ thu
vào cơ quan Ngân hàng theo thời hạn quy định, có thể được Ngân hàng cho vay căn
cứ vào giấy tờ thanh toán trên đường đi.
3. Thanh
toán bằng séc:
Bên mua được dùng séc thanh toán
để trả tiền ngay sau khi nhận hàng hóa hay khi được cung ứng lao vụ cho bên bán
và bên cung ứng có tài khoản ở Ngân hàng.
Séc thanh toán không dùng để rút
tiền mặt.
Chủ tài khoản chỉ được phát hành
séc trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi của mình tại Ngân hàng hay trong trường
hợp được Ngân hàng cho vay. Chủ tài khoản phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc
sử dụng séc không đúng quy định, về những hậu quả do mất séc, do bị lợi dụng,
tham ô hoặc do sự lạm dụng của những người được ủy quyền ký séc.
Séc thanh toán chỉ có hiệu lực
trong thời hạn quy định.
4. Thanh
toán bằng thư tín dụng:
Thư tín dụng được áp dụng trong
việc thanh toán giữa các đơn vị ở khác địa phương trong trường hợp hai bên mua,
bán không thường xuyên, thường mua từng lần một, không có hợp đồng kinh tế hoặc
tuy có mua bán thường xuyên, có hợp đồng kinh tế nhưng bên mua thường vi phạm kỷ
luật thanh toán.
Bên mua phải trích từ tài khoản
tiền gửi thanh toán của mình tại Ngân hàng (hoặc xin vay Ngân hàng) để mở tài
khoản tiền gửi thư tín dụng.
Bên bán sau khi chuyển hàng hóa
cho bên mua, xuất trình các chứng từ hợp lệ chứng minh đã thực hiện đầy đủ các
điều kiện của thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ mình để kiểm soát trước khi nhận
tiền.
Trong quá trình vận dụng các thể
thức thanh toán nói trên, tùy đặc điểm giao dịch và tính chất các khoản thanh
toán, có thể tổ chức thực hiện thanh toán theo kế hoạch, thanh toán theo lối bù
trừ hoặc thanh toán theo tài khoản đặc biệt.
III. CÁC HÌNH THỨC PHẠT VỀ VI
PHẠM THỂ LỆ THANH TOÁN.
Đối với các đơn vị mua, bán:
1. Ngân hàng Nhà nước được quyền
từ chối cho vay và không chịu trách nhiệm về việc chậm trả tiền của bên mua, nếu
các đơn vị kinh tế giao dịch mua bán không có hợp đồng kinh tế cụ thể hợp lệ.
Trường hợp xí nghiệp yêu cầu vay vốn thì Ngân hàng xét cho vay ngoài kế hoạch.
2. Các đơn vị mua, bán chiếm dụng
vốn bất hợp pháp hoặc ứng trước tiền hàng trái nguyên tắc quy định của thể lệ
thanh toán khi phát hiện được đều bị phạt 1% trên số tiền chiếm dụng bất hợp
pháp và ứng trước tiền hàng. Khoản tiền phạt này sẽ nộp vào ngân sách Nhà nước.
Đơn vị chiếm dụng phải hoàn trả kịp thời số tiền chiếm dụng cho đơn vị bị chiếm
dụng; trong thời gian chưa hoàn trả được thì Ngân hàng phải tạm giữ số tiền đó
lại, không cho đơn vị chiếm dụng sử dụng. Quá thời hạn 3 tháng mà hai bên vẫn
không thanh toán được với nhau, thì Ngân hàng trích nộp vào ngân sách Nhà nước
(nếu là nguồn tiền của cơ quan hành chính sự nghiệp), hoặc trích chuyển lại
cho Ngân hàng nơi có đơn vị bị chiếm dụng hoặc ứng trước để thu hồi nợ vay Ngân
hàng hoặc hoàn lại tài khoản tiền gửi của họ (nếu là nguồn vốn của đơn vị kinh
tế).
3. Khi áp dụng thể thức ủy nhiệm
chi để thanh toán tiền hàng hóa đã nhận và lao vụ đã cung ứng, nếu quá thời hạn
quy định trả tiền, bên mua bị phạt 0,025% (hai phần rưỡi vạn) một ngày trên số
tiền chậm trả để trả cho bên bán. Nếu bên mua thường vi phạm kỷ luật chi trả
thì bên bán có quyền bắt buộc bên mua phải thanh toán theo hình thức séc hoặc
thư tín dụng.
4. Khi áp dụng thể thức thanh
toán chấp nhận, Ngân hàng Nhà nước được quyền thực hiện các hình thức kỷ luật đối
với các bên mua, bán vi phạm nguyên tắc và thủ tục thanh toán như sau:
a) Không cho đơn vị bán
vay căn cứ vào giấy tờ thanh toán trên đường đi, nếu giấy nhờ thu lập và nộp
vào Ngân hàng quá thời hạn quy định. Nếu xí nghiệp không được vay về giấy tờ
thanh toán trên đường đi mà thiếu vốn hoạt động, Ngân hàng xét cho vay ngoài kế
hoạch.
b) Phạt bên bán bằng 5% (năm phần
trăm) trên số tiền của giấy nhờ thu không có hàng hóa (giấy nhờ thu đòi tiền khống);
số tiền phạt này sẽ nộp vào ngân sách Nhà nước. Trường hợp tái phạm nhiều lần
thì Ngân hàng truy tố trước tòa án.
c) Nếu người bán thường xuyên vị
phạm các điều khoản trong hợp đồng về số lượng, chất lượng và mặt hàng gửi cho
người mua thì người mua có quyền đòi thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
d) Nếu bên mua đã trả tiền cho
bên bán nhưng khi kiểm tra lại giấy tờ hoặc hàng hóa thấy sai sót, có lập biên
bản hợp lệ gửi đến Ngân hàng bên bán thì Ngân hàng có quyền trích ngay tài khoản
của bên bán để trả lại cho bên mua.
e) Phạt bên mua chậm trả theo tỷ
lệ 0,025% (hai phần rưỡi vạn) một ngày trên số tiền chậm trả để trả cho bên
bán.
g) Nếu bên mua dùng hóa đơn khống
để vay hoặc rút tiền trả cho bên bán hoặc sử dụng vào mục đích khác thì phải chịu
phạt 5% (năm phần trăm) số tiền trên hóa đơn để nộp vào ngân sách Nhà nước. Nếu
tái phạm nhiều lần sẽ bị truy tố trước tòa án.
h) Nếu bên mua thanh toán chậm
trễ nhiều lần thì bên bán có quyền bắt bên mua thanh toán bằng thư tín dụng hoặc
bằng séc.
i) Khi từ chối thanh toán, bên
mua có trách nhiệm bảo quản hàng hóa, không được sử dụng. Nếu bên mua sử dụng
hàng hóa đó thì phải trả tiền hàng. Trong trường hợp bên mua từ chối sai hoặc
khiếu nại không đúng về việc đòi lại tiền đã trả cho bên bán thì bị phạt 5% (năm
phần trăm) trên số tiền đó để trả cho bên bán. Ngoài ra nếu chậm trễ sẽ bị phạt
chậm trả.
5. Khi áp dụng thể thức thanh
toán bằng séc, đơn vị phát hành séc quá số dư tài khoản tiền gửi bị phạt 2%
(hai phần trăm) trên số tiền của tờ séc phát hành quá số dư và mức phạt tối thiểu
là 10đ đối với mỗi lần vi phạm. Khoản tiền phạt này sẽ trả cho bên bán. Tùy
theo tính chất và mức độ vi phạm, Ngân hàng có thể đình chỉ sử dụng séc, chuyển
sang thể thức thanh toán khác hoặc có thể truy tố trước tòa án.
Ngân hàng quyết định đình chỉ sử
dụng séc đối với các đơn vị phát hành séc để ứng trước, trả trước tiền đặt hàng
hoặc ký khống chi trên các tờ séc.
6. Khi áp dụng cách thanh toán
theo kế hoạch hoặc theo lối bù trừ, đến cuối kỳ điều chỉnh, hai bên phải thanh
toán sòng phẳng hoặc thỏa thuận chuyển số chênh lệch đó vào định kỳ sau. Nếu
bên nào thanh toán chậm thì Ngân hàng phạt 0,025% (hai phần vạn rưỡi) một ngày
trên số tiền chậm trả để trả cho bên bị thiệt.
7. Đối với các khoản nợ nần cũ từ
trước để lại thì các đơn vị kinh tế phải xác nhận chậm nhất trong 3 tháng.
Trong phạm vi 10 ngày, kể từ ngày xác nhận xong, đơn vị mắc nợ phải trả tiền, nếu
chậm trả sẽ bị phạt 0,025% (hai phần rưỡi vạn) mỗi ngày trên số tiền chậm trả để
trả cho bên chủ nợ.
Tất cả các khoản tiền phạt nói
trên đều phải trừ vào lợi nhuận để lại cho xí nghiệp.
Đối với Ngân hàng Nhà nước:
Mọi sai sót, chậm trễ trong nghiệp
vụ thanh toán do Ngân hàng gây ra, Ngân hàng phải chịu phạt 0,2% (hai phần
nghìn) một tháng trên số tiền và thời gian chậm trễ để trả cho đơn vị bị thiệt
hại.
Đối với Tổng cục Bưu điện:
Mọi sai sót, chậm trễ trong việc
chuyển chứng từ thanh toán do cơ quan bưu điện gây ra, cơ quan bưu điện phải
hoàn lại cước phí cho cơ quan gửi, đồng thời phải thi hành kỷ luật thích đáng đối
với nhân viên phạm lỗi kể cả cán bộ phụ trách trực tiếp.
IV. VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA
CÁC XÍ NGHIỆP, TỔ CHỨC KINH TẾ VÀ CỦA MỘT SỐ NGÀNH TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG
TÁC THANH TOÁN
Các xí nghiệp và tổ chức kinh tế phải:
- Ký kết hợp đồng kinh tế với nội
dung thật cụ thể, xác định rõ thể thức thanh toán, và phải chấp hành nghiêm chỉnh
hợp đồng kinh tế đã ký kết. Trường hợp không ký được hợp đồng kinh tế, phải báo
cáo lên cơ quan chủ quản giải quyết và thông báo cho Ngân hàng biết.
- Cải tiến tổ chức giao nhận
hàng hóa, bảo đảm giao nhận nhanh, đúng, đủ. Cần bảo đảm các phương tiện cân,
đo, đong, đếm, tổ chức đóng gói, tạo thuận lợi cho việc giao nhận. Ở những nơi
có giao nhận thường xuyên với khối lượng hàng nhiều, phải tổ chức tốt việc bốc
xếp.
- Cải tiến khâu hạch toán, lập
hóa đơn và chứng từ thanh toán chính xác, kịp thời. Hóa đơn phải lập cùng một
lúc với việc giao nhận hàng, phản ánh đúng thực tế hàng hóa giao chuyển. Chấm dứt
mọi trường hợp bên bán buộc bên mua ký nhận hàng trước khi thực sự giao nhận
hàng. Chấm dứt mọi tình trạng chiếm dụng vốn bất hợp pháp và ứng trước tiền
hàng.
- Gấp rút thanh toán xong nợ nần
dây dưa cũ, ngăn ngừa nợ nần mới phát sinh. Phải tổ chức đối chiếu xác nhận các
khoản nợ lâu ngày chưa rõ ràng, lập biên bản xác nhận được nợ hoặc đơn vị mắc nợ
không có khả năng trả thì báo cáo lên cơ quan chủ quan giải quyết.
Các cơ quan cung ứng vật tư
phải:
- Bảo đảm cung ứng vật tư đều đặn
tại nơi đã quy định cho các xí nghiệp và tổ chức kinh tế. Tổ chức tiếp nhận những
loại vật tư đang dự trữ quá mức mà xí nghiệp và tổ chức kinh tế cần chuyển giao
lại cho các cơ quan cung ứng vật tư dự trữ.
Các
Bộ, các ngành, cơ quan quản lý chủ quản phải:
- Cùng với cơ quan có trách nhiệm
và xí nghiệp kịp thời định mức dự trữ vật tư và định mức vốn lưu động, cùng cơ
quan tài chính giải quyết vốn lưu động cần thiết cho xí nghiệp.
- Giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất
kịp thời cho xí nghiệp đi đôi với kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch tiêu thụ;
thiết thực giúp xí nghiệp giải quyết khó khăn, mắc mứu trong việc thực hiện kế
hoạch, chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế và thanh toán.
- Cùng với Ngân hàng Nhà nước tổ
chức phổ biến, hướng dẫn thi hành thể lệ thanh toán.
- Cùng với Ngân hàng Nhà nước chủ
động tổ chức các đợt thanh toán nợ nần trong nội bộ từng ngành.
Ngân hàng Nhà nước phải:
Cải tiến thủ tục thanh toán cho
đơn giản và chặt chẽ.
- Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ
thanh toán và tác động tích cực đến các ngành, các xí nghiệp, tổ chức kinh tế,
thực hiện tốt công tác thanh toán.
- Cải tiến tổ chức bộ máy thực
hiện công tác thanh toán ở các cấp ngân hàng, cải tiến việc hạch toán và tổ chức
luân chuyển chứng từ trong nội bộ ngân hàng, bảo đảm thực hiện nghiệp vụ thanh
toán chính xác và kịp thời.
- Quy định lại thời gian luân
chuyển chứng từ và thanh toán. Trong khi chờ đợi, cần phải chấp hành thời gian
thanh toán như hiện nay và có bổ sung cần thiết.
- Cải tiến gấp công tác tín dụng
trong mối liên quan chặt chẽ với công tác thanh toán, để kết hợp và thúc đẩy
công tác thanh toán.
- Đi sâu vào hoạt động kinh tế
và tài chính của xí nghiệp, tổ chức kinh tế, nắm tình hình sử dụng vốn sai mục
đích, nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn, các vướng mắc trong thanh toán để góp phần
khắc phục; kịp thời áp dụng các hình thức phạt đối với các đơn vị vi phạm kỷ luật
thanh toán.
Căn cứ chỉ thị này, Ngân hàng
Nhà nước cần hướng dẫn chi tiết về công tác thanh toán áp dụng đối với Ngân
hàng kiến thiết.
Bộ Tài chính và các cơ quan
tài chính địa phương phải:
Bảo đảm cấp phát vốn lưu động định
mức và các loại vốn cần thiết khác kịp thời cho các ngành, các xí nghiệp và tổ
chức kinh tế.
Tổng
cục Bưu điện phải:
Bảo đảm ưu tiên việc chuyển chứng
từ thanh toán nhanh chóng; quy định việc ký giao nhận và đóng dấu ngày, giờ đi,
đến trên các phong bì; xác định biểu thời hạn chuyển chứng từ qua bưu điện giữa
các địa phương và trong từng địa phương; tổ chức điều tra kịp thời các khiếu nại
của các đơn vị về việc chậm trễ, sai lạc chứng từ để xác minh trách nhiệm.
Hội đồng trọng tài kinh tế phải:
Chỉ đạo thực hiện công tác hợp đồng
kinh tế trong ngành, các xí nghiệp và tổ chức kinh tế, phát hiện và tổ chức xử
lý kịp thời, nghiêm chỉnh các vi phạm hợp đồng kinh tế.
Chỉ thị này được thi hành kể từ
ngày ban hành.
Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước
chịu trách nhiệm giải thích chỉ thị này, quy định các chi tiết cần thiết và tổ
chức hướng dẫn việc chấp hành.
|
K.T. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|