BỘ
NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------
|
Số:
1842/QĐ-BNN-LN
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2008
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “NGHIÊN CỨU, PHÁT TRIỂN VÀ SỬ DỤNG SẢN
PHẨM CÂY CỌC RÀO (JATROPHA CURCAS L.) Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2015 VÀ TẦM
NHÌN ĐẾN 2025”
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Căn cứ Nghị định số 01/2008/NĐ-CP
ngày 03 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Căn cứ Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2025”;
Căn cứ văn bản góp ý của các Bộ và ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, về Đề án
“Nghiên cứu, phát triển và sử dụng sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) ở
Việt Nam giai đoạn 2008-2015 và tầm nhìn đến 2025”;
Căn cứ văn bản số 3226/VPCP-KTN ngày 20 tháng 5 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ
thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải về việc giao Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt Đề án “Nghiên cứu, phát triển và
sử dụng sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) ở Việt Nam giai đoạn
2008-2015 và tầm nhìn đến 2025”;
Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Lâm nghiệp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt Đề án “Nghiên cứu, phát triển và sử dụng sản phẩm
cây Cọc rào (Jatropha curcas L.) ở Việt Nam giai đoạn 2008-2015 và tầm nhìn đến
2025” (sau đây gọi tắt là Đề án) với những nội dung chủ yếu sau đây:
I. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Tạo ra một ngành sản xuất nông
nghiệp mới thông qua việc hình thành vùng nguyên liệu gắn với phát triển công
nghiệp chế biến dầu diesel sinh học có hiệu quả cao, quy mô ngày càng lớn trên
cơ sở sử dụng hiệu quả đất đai ở các vùng hoang hóa, khô cằn, đất trống đồi núi
trọc và những nơi canh tác nông nghiệp năng suất thấp, góp phần cải thiện đời sống
của người dân ở các vùng khó khăn, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Mục tiêu cụ thể cho từng giai
đoạn
a) Giai đoạn 2008-2010:
- Triển khai thực hiện có kết quả
chương trình nghiên cứu toàn diện từ giống, biện pháp kỹ thuật gây trồng đến chế
biến và sử dụng dầu diesel sinh học từ hạt Jatropha.
- Trồng thử nghiệm, khảo nghiệm
và sản xuất thử ở các vùng sinh thái khác nhau đạt quy mô diện tích khoảng
30.000 ha. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các dây chuyền chế biến
công suất nhỏ 3.000 – 5.000 tấn dầu thô/năm.
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế
chính sách đồng bộ và thông thoáng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia
đầu tư vào trồng và chế biến, kinh doanh các sản phẩm diesel sinh học.
- Từng bước đáp ứng đủ nhân lực
cho quản lý, sản xuất và nghiên cứu trong lĩnh vực diesel sinh học.
b) Giai đoạn 2011 – 2015 và tầm
nhìn đến 2025:
- Từng bước mở rộng sản xuất quy
mô lớn theo nhu cầu thị trường, đến năm 2015 có thể đạt diện tích gây trồng
trong cả nước khoảng 300.000 ha và định hướng tiềm năng đến 2025 có thể đạt diện
tích 500.000 ha.
- Mở rộng quy mô chế biến dầu
diesel sinh học và các sản phẩm phụ của cây Cọc rào phù hợp với phát triển vùng
nguyên liệu, đến năm 2015 tổng công suất chế biến đạt khoảng 300.000 tấn dầu
thô/năm và định hướng tiềm năng đến 2025 tổng công suất chế biến có thể đạt 1
triệu tấn dầu thô/năm, đảm bảo thay thế khoảng 10-15% lượng dầu diesel nhập khẩu.
- Góp phần vào kim ngạch xuất khẩu
và tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, ổn
định đời sống cho người dân và giảm sức ép vào rừng tự nhiên.
- Góp phần phòng hộ đất đai và bảo
vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu ô nhiễm.
II. CÁC NHIỆM
VỤ CHỦ YẾU
1. Trồng khảo nghiệm và sản xuất
thử các giống sẵn có
Các đơn vị nghiên cứu thu thập
các xuất xứ của giống nội địa, nhập khẩu các giống ngoại tốt nhất sẵn có, tiến
hành khảo nghiệm giống ở các vùng sinh thái khác nhau để xác định các giống phù
hợp cho từng vùng. Các doanh nghiệp triển khai sản xuất thử quy mô nhỏ đến 2010
đạt diện tích khoảng 30.000 ha.
2. Nghiên cứu ứng dụng về gây trồng,
chế biến diesel sinh học và các sản phẩm từ cây Cọc rào
Xây dựng và triển khai
Chương trình nghiên cứu tổng thể, dài hạn và toàn diện các vấn đề kinh tế -kỹ
thuật nhằm đảm bảo đưa sản phẩm dầu diesel sinh học của cây Cọc rào trở thành một
ngành hàng mới có hiệu quả. Trong nghiên cứu kỹ thuật chú trọng lai tạo giống mới
có năng suất quả và hàm lượng dầu cao.
3. Mở rộng sản xuất, tạo vùng
nguyên liệu gắn với chế biến theo nhu cầu thị trường
Trên cơ sở những kết quả nghiên
cứu được khẳng định và nhu cầu của các nhà đầu tư sẽ tiến hành quy hoạch chi tiết
các vùng trồng tập trung gắn với các nhà máy chế biến dầu diesel sinh học. Đến
năm 2010 có thể chế biến được khoảng 30.000 tấn dầu thô/năm. Dần từng bước đến
2015 mở rộng diện tích trồng khoảng 300.000 ha, khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư chế biến dầu diesel sinh học đạt tổng công suất khoảng 300.000 tấn dầu
thô/năm.
Định hướng từ sau 2015 đến 2025
trồng đại trà để đạt diện tích 500.000 ha trên toàn quốc và nâng công suất chế
biến dầu diesel sinh học lên đến 1 triệu tấn dầu thô/năm, sử dụng diesel sinh học
với tỷ lệ bắt buộc pha trong diesel dầu mỏ.
4. Xây dựng, hoàn thiện thể chế
chính sách
Xây dựng các thể chế chính sách
để đảm bảo quản lý và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực
nghiên cứu và đầu tư vào sản xuất, chế biến diesel sinh học.
5. Đào tạo nguồn nhân lực cho
công tác quản lý, nghiên cứu và sản xuất trong lĩnh vực diesel sinh học
Xây dựng chương trình và kế hoạch
đào tạo ngắn hạn và dài hạn ở các cấp đại học, trung học và dạy nghề đối với
chuyên ngành năng lượng sinh học nói chung trong đó có nhiên liệu diesel sinh học.
III. MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CHÍNH
1. Giải pháp về đất đai
- Hoàn thành giao đất trống đồi
trọc cho hộ gia đình, cá nhân;
- Những nơi còn quỹ đất trống lớn
tập trung chưa giao thì chính quyền lập các dự án cho thuê đất;
- Khuyến khích liên doanh, liên
kết giữa nhà đầu tư và nông dân có đất, hai bên cùng có lợi;
- Thông thoáng về thủ tục chuyển
nhượng đất, khuyến khích tích tụ đất, không hạn chế với diện tích đất trống đồi
trọc.
- Đối với các doanh nghiệp đầu
tư xây dựng nhà máy chế biến dầu diesel sinh học được ưu tiên bố trí đất trong
các khu công nghiệp hoặc khu vực do doanh nghiệp đề nghị phù hợp với quy hoạch
của tỉnh.
2. Giải pháp về chính sách
- Chính sách hỗ trợ đầu tư:
Hỗ trợ hạt giống hoặc cây con
cho các hộ dân có đất đai phù hợp và tự nguyện tham gia trồng cây Cọc rào trong
giai đoạn đầu tiên đến năm 2010.
Ưu đãi trong vốn vay cho mọi tổ
chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động gây trồng và chế biến các sản phẩm sinh học
từ cây Cọc rào.
- Chính sách thuế:
Đề nghị Nhà nước miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp sản xuất diesel sinh học trong thời gian đầu khi giá thành
diesel sinh học còn cao hơn giá thành diesel dầu mỏ.
3. Giải pháp về khoa học công
nghệ và khuyến nông
Nhà nước đầu tư một Chương trình
nghiên cứu phát triển sản phẩm diesel sinh học mang tính lâu dài. Đẩy mạnh
nghiên cứu áp dụng công nghệ sinh học, nhất là công nghệ gen để tạo ra giống
Jatropha đột biến có năng suất quả và hàm lượng dầu cao hơn hẳn những giống hiện
có.
Tùy theo sự phát triển của khoa
học và yêu cầu của sản xuất có thể hình thành một Trung tâm (hoặc Viện) nghiên
cứu chuyên đề về cây Jatropha và diesel sinh học, đơn vị này có thể do Nhà nước
thành lập, cũng có thể do doanh nghiệp thành lập.
Nhà nước có chính sách khuyến
khích các nhà khoa học, các tổ chức khoa học và các doanh nghiệp tư nhân trong
và ngoài nước bỏ vốn nghiên cứu khoa học về nhiên liệu sinh học.
Xây dựng một chương trình khuyến
nông về cây Jatropha thực hiện trong giai đoạn 2009 – 2015.
Nhà nước đầu tư cho việc đào tạo
nâng cao năng lực cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu về lĩnh vực cây trồng các sản
phẩm sinh học.
4. Giải pháp về thị trường
Nhà nước có quy định về tỷ lệ bắt
buộc diesel sinh học pha trong diesel dầu mỏ được tiêu thụ trên thị trường,
theo lộ trình phải sử dụng từ B1 đến B5 (từ 1-5% diesel sinh học pha với 99-95%
diesel dầu mỏ), tùy theo tình hình phát triển của sản xuất trong nước và sức ép
về năng lượng dầu mỏ trên trường quốc tế.
IV. NHU CẦU VỀ
VỐN ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
Tổng nhu cầu vốn cho thực hiện đề
án ước tính khoảng 2.320 tỷ đồng Việt Nam, trong đó: Nguồn vốn ngân sách nhà nước
khoảng 220 tỷ đồng Việt Nam và vốn đầu tư của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp,
cá nhân trong và ngoài nước là khoảng 2.100 tỷ đồng Việt Nam.
1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
Nhà nước đầu tư cho các công việc:
nghiên cứu khoa học, khuyến lâm, đào tạo và hỗ trợ giống cho hộ dân trồng trong
giai đoạn đầu.
Nguồn vốn được lấy từ vốn sự
nghiệp khoa học, vốn sự nghiệp đào tạo, vốn khuyến lâm và hàng năm bố trí một
khoản vốn ngân sách cho riêng chương trình này.
2. Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà
nước
- Các doanh nghiệp, cá nhân đầu
tư cho các dự án gây trồng, chế biến và phát triển các sản phẩm sinh học.
- Nguồn vốn lấy từ vốn tự có của
các doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng thương mại và vốn tài trợ của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
- Bộ Nông nghiệp và PTNT là cơ
quan đầu mối chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát, phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan và UBND các tỉnh trong quá trình thực hiện Đề án về nghiên cứu, gây
trồng, chế biến, thử nghiệm và công bố tiêu chuẩn kỹ thuật của cây Cọc rào thuộc
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn và phát triển vùng nguyên liệu.
Giao các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ thực hiện các công việc cụ thể từ năm 2008
như sau:
+ Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường xây dựng chương trình nghiên cứu tổng thể về cây Jatropha và các đề tài
chi tiết phục vụ chương trình này.
+ Cục Lâm nghiệp phối hợp với Sở
Nông nghiệp và PTNT các tỉnh giải quyết vấn đề đất đai cho trồng nguyên liệu và
xây dựng các chính sách phát triển trồng cây Jatropha. Đồng thời xây dựng một số
mô hình trồng cây Cọc rào ở các vùng sinh thái trọng điểm, bao gồm cả mô hình
trồng băng cản lửa bảo vệ rừng trồng.
+ Cục Chế biến, Thương mại nông
lâm thuỷ sản và nghề muối phối hợp với các đơn vị và Bộ ngành liên quan trong
việc xây dựng quy hoạch công nghiệp chế biến và tìm hiểu thông số về công nghệ
chế biến dầu diesel sinh học.
+ Trung tâm Khuyến nông - Khuyến
ngư Quốc gia xây dựng chương trình khuyến lâm phát triển cây Cọc rào trên vùng
đất dốc, đất xấu.
Phối hợp với các Bộ, Ngành khác:
- Với Bộ Công Thương: quy hoạch
và chỉ đạo xây dựng cơ sở tiêu thụ dầu diesel sinh học và tổ chức thử nghiệm,
công bố tiêu chuẩn về dầu diesel sinh học và các sản phẩm từ cây Cọc rào thuộc
lĩnh vực quản lý của Bộ Công Thương.
- Với Bộ Khoa học và Công nghệ:
Xây dựng chương trình nghiên cứu tổng thể về cây trồng cho diesel sinh học để
thực hiện.
- Với Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Xây dựng chương trình và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực các cấp phục vụ cho quản
lý, nghiên cứu và sản xuất trong lĩnh vực diesel sinh học.
- Các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài
chính, Tài nguyên và Môi trường phối hợp, hỗ trợ thực hiện Đề án trong các lĩnh
vực liên quan thuộc Bộ, Ngành phụ trách.
2. UBND các tỉnh
Chủ động kêu gọi và tạo điều kiện
để các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến dầu
diesel sinh học trên địa bàn tỉnh, giải quyết nhanh chóng các thủ tục về đất
đai phù hợp quy hoạch.
Chỉ đạo thực hiện hiệu quả dự án
trên địa bàn tỉnh. Phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình tổ chức thực hiện tại địa phương, kiến nghị với Chính phủ và các Bộ,
ngành liên quan về biện pháp giải quyết.
Điều 2.
Chánh Văn phòng Bộ, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm
lâm, Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thuỷ
sản và nghề muối, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học, Công nghệ
và Môi trường, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc gia; Giám đốc Sở Nông
nghiệp và PTNT các tỉnh và Thủ trưởng các đơn vị, các tổ chức, cá nhân liên
quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như điều 2;
- Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải (b/c);
- Văn phòng Chính phủ (b/c);
- Các Bộ: Công thương, Tài chính, KH-ĐT, TN-MT, KH-CN, GD-ĐT,
- UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Lưu: VT, LN.
|
BỘ
TRƯỞNG
Cao Đức Phát
|
SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN
Hàng năm nước ta phải nhập một số
lượng lớn xăng, dầu từ nguồn gốc dầu mỏ phục vụ cho giao thông, vận tải và các
nhu cầu khác trong nước. Theo Tổng cục thống kê (2006) thì lượng nhập khẩu
nhiên liệu của nước ta từ 1995 đến 2005 đều tăng dần theo các năm, tổng lượng
xăng dầu năm 1995 là 5.003,2 nghìn tấn đến 2005 tăng lên 11.477,7 nghìn tấn,
trong đó riêng dầu diesel từ năm 1995 nhập khẩu là 2.271,0 nghìn tấn đến năm
2005 tăng lên 5.891,1 nghìn tấn. Nếu tính tổng lượng dầu diesel nhập từ 1995 đến
2005 là 43.840,8 nghìn tấn, lấy giá trung bình trong toàn thời gian trên là
4.000đ/lít (4 triệu đồng 1tấn) thì số tiền nhập dầu diesel khoảng 175,363 tỷ đồng
VN, tương ứng với 12,5 tỷ USD (lấy tỷ giá trung bình toàn đợt là 14 tỷ đồng VN
=1 triệu USD), chưa kể số ngoại tệ nhập các loại xăng và các loại dầu mỡ khác.
Như vậy, hàng năm chúng ta phải dùng hàng tỷ đô la Mỹ để nhập nhiên liệu. Do đó
nếu tìm được nguồn nhiên liệu thay thế trong nước thì hàng năm sẽ tiết kiệm được
một số ngoại tệ rất lớn. Vì vậy, trồng các cây nhiên liệu sinh học và nghiên cứu
công nghệ chế biến chúng là việc làm có ý nghĩa kinh tế to lớn.
Việc sử dụng nguồn năng lượng
hóa thạch là dầu diesel cho các động cơ đã thải khí độc ra làm ô nhiễm môi trường,
là tác nhân gây ra một số bệnh cho con người, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống
của các loại động vật và tăng hiệu ứng nhà kính.
Việt Nam đã ký kết tham gia Nghị
định thư Kyoto và Công ước chống sa mạc hóa nên việc tìm kiếm sử dụng những sảm
phẩm có nguồn gốc sinh học là đóng góp thiết thực vào việc thực hiện những cam
kết quốc tế đó.
Theo đề án Phát triển nhiên liệu
sinh học đến năm 2015 và tầm nhìn 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định 177/2007/QĐ-TTg ngày 20/11/2007, trong giai đoạn 2006-2010 Việt Nam
sẽ tiếp cận công nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học, xây dựng mạng lưới thí điểm
phân phối nhiên liệu sinh học tại một số tỉnh, quy hoạch vùng trồng cây nguyên
liệu cho năng suất cao, đào tạo cán bộ chuyên sâu về kỹ thuật, giai đoạn
2011-2015 sẽ phát triển mạnh sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học thay thế một
phần nhiên liệu truyền thống, mở rộng mạng lưới phân phối phục vụ giao thông và
các sản xuất công nghiệp khác, đảm bảo cung cấp đủ và đa dạng hoá nguồn nguyên
liệu cho quá trình chuyển hoá sinh khối thành nhiên liệu sinh học.
Theo các tài liệu nghiên cứu và
thực tế sử dụng ở nhiều nước trên thế giới, nhiên liệu sinh học chủ yếu gồm:
ethanol sinh học và diesel sinh học. Ethanol sinh học có thể sản xuất từ nhiều
nguồn nguyên liệu khác nhau như sắn, mía, ngô, đậu tương, mỡ cá..., còn diesel
sinh học có thể sản xuất từ các cây Cọc rào, Cọ dầu, Hoàng liên mộc, Văn quan,
Bánh dầy, Dừa,….
Đối với nước ta, việc sản xuất
ethanol có thể có những hạn chế nhất định, đó là diện tích đất nông nghiệp hạn
hẹp nên khả năng mở rộng diện tích trồng cây nguyên liệu có nhiều khó khăn, các
cây nguyên liệu cho sản xuất ethanol sinh học đều là những cây lương thực chủ yếu,
cây làm thức ăn chăn nuôi có liên quan đến an ninh lương thực cần phải xem xét
cẩn trọng. Hơn nữa phát triển mạnh việc trồng cây sắn, ngô trên đất dốc sẽ gây
ra xói mòn đất (bồi lấp cửa sông, lòng hồ đập...). Cho nên việc định hướng phát
triển diesel sinh học sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Trong số những loài cây có khả
năng sản xuất diesel sinh học thì cây Cọc rào được chú ý hơn cả do dễ trồng,
biên độ sinh thái rộng, khả năng chống chịu tốt và hàm lượng dầu trong hạt khá
cao.
Cho nên việc xây dựng và triển
khai đề án “Nghiên cứu, phát triển và sử dụng sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha
curcas L.) ở Việt Nam giai đoạn 2008-2015, tầm nhìn đến 2025” là cần thiết và
phù hợp với Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
Gây trồng cây Cọc rào là một giải
pháp thiết thực vừa bổ sung nguồn nhiên liệu sinh học nâng cao sự ổn định an
ninh năng lượng quốc gia, vừa góp phần xoá đói giảm nghèo và tăng độ che phủ, cải
tạo môi trường trên những vùng đất trống, hoang hóa.
Phần Thứ
Nhất
THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
PHÁT TRIỂN CÂY CỌC RÀO (JATROPHA CURCAS L.)
I. ĐẶC ĐIỂM
SINH THÁI, PHÂN BỐ VÀ CÔNG DỤNG CỦA CÂY CỌC RÀO
Cây
Cọc rào hay còn gọi là cây Dầu mè, Cây Bã đậu, cây Diesel, tên khoa học là
Jatropha curcas.L, tên tiếng Anh: Physic nut, thuộc họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae), là một loại cây bụi lưu niên cao từ 2 – 3m, có thể cao tới 5m,
sinh trưởng và phát triển tốt trên các vùng có độ cao so với mặt nước biển từ 30
- 1.400 m, nhiệt độ bình quân năm từ 18 -28 oC, lượng mưa trung bình năm từ 480
mm - 2.380mm. Cây có đặc tính chịu hạn rất khỏe, có thể mọc ở nơi khô hạn lượng
mưa bình quân năm chỉ có 250 mm và cho hiệu quả kinh tế ở những vùng mà lượng
mưa trên 800 mm/năm, trong điều kiện hạn hán 8-9 tháng cây vẫn không bị chết.
Cây thích hợp trên đất cát pha và có thể sinh trưởng phát triển trên nhiều loại
đất khác nhau kể cả đất sỏi đá và nhiễm mặn, trừ đất bị ngập úng. Thân cây mọng
nước, lá dày rất khó cháy, trong thân, lá có nhựa và trong hạt có chất độc nên
trâu bò, gia súc, chuột không phá hại và ít bị sâu bệnh.
Cọc rào là một loài thực vật nguồn
gốc Trung Mỹ, nhưng hiện nay được trồng nhiều nơi trên thế giới như Ấn Độ,
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Indonexia, Myanma, Malaixia, Châu Phi...
Ở Việt Nam theo kết quả nghiên cứu
của Tiến sỹ Lê Võ Định Tường (2005) cây Cọc rào được phát hiện ở nhiều vùng
sinh thái khác nhau như:
- Vùng Trung du miền núi phía Bắc :
Tỉnh Lào Cai (Sa Pa). Tỉnh Lai Châu (Tam Đường, Sìn Hồ, TX Lai Châu). Tỉnh Điện
Biên (Thành Phố Điện Biên). Tỉnh Sơn La (Thuận Châu, Yên Châu, Thị xã Sơn La).
Tỉnh Hòa Bình (Lạc Thủy, Hương Sơn, Lương Sơn). Tỉnh Lạng Sơn (Chi Lăng, Lộc
Bình, Mẫu Sơn, Tân Thanh).
- Vùng Bắc Trung Bộ: Tỉnh Thanh
Hóa (Cẩm Thủy, Sao Vàng, Bá Thước, Thạch Thành). Tỉnh Quảng Trị (Hưng Hóa).
- Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: Tỉnh
Ninh Thuận (Ninh Sơn, Ninh Hòa). Tỉnh Bình Thuận (Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc,
Bắc Bình). Tỉnh Khánh Hòa (Cam Ranh, Diên Khánh, Khánh Sơn).
- Vùng Đông Nam Bộ: TP Hồ Chí
Minh (Hoóc Môn). Tỉnh Đồng Nai (Định Quán ); Tỉnh Lâm Đồng (Đức Trọng).
Như vậy, có thể nói cây Cọc rào
là cây có biên độ sinh thái rộng, phân bố ở cả phía Bắc, Trung và phía Nam Việt
Nam và ở độ cao khác nhau từ 1.400m trở xuống so với mực nước biển, có phân bố
cả ở những vùng đất khô hạn mùa mưa chỉ có 500-700mm/năm như Ninh Thuận, Bình
Thuận.
Cây Cọc rào có thể trồng bằng hạt
hay bằng hom thân, cần ít phân bón. Cây sinh trưởng rất nhanh, sau khi trồng 6
tháng đến 1 năm đã cho quả, đến 5 năm cho năng suất ổn định. Chu kỳ sống là
30-40 năm. Cây có thể cho quả quanh năm (2 - 4 vụ quả) nếu được chăm sóc đầy đủ.
Năng suất quả phụ thuộc vào giống và kỹ thuật canh tác, năng suất biến động từ
3 -10 tấn hạt/ha với tỷ lệ dầu trong hạt cũng rất khác nhau từ 25 - 38%, sản lượng
ép thành dầu diesel sinh học từ 1- 3 tấn dầu thô/ha không cần chế biến phức tạp,
có thể dùng cho động cơ diesel mà không cần có thay đổi gì về máy móc.
Ngoài ra cây Cọc rào còn chế biến
ra một số sản phẩm có giá trị khác nữa như từ dầu ép thô làm nguyên liệu sản xuất
xà phòng, thắp sáng, vecni, dầu bóng trong sản xuất sơn; từ bã khô dầu có thể
làm phân hữu cơ chất lượng cao, nếu khử được độc tố (Phytotoxin, Phorbolester)
trong bã sẽ chế biến thành thức ăn gia súc; từ nhựa cây có thể chế biến thuốc
nhuận tràng, sổ tẩy, cầm máu; lá cây có thể dùng làm thức ăn nuôi tằm...; ở Việt
Nam hiện nay chủ yếu trồng làm hàng rào vì dễ trồng và không bị gia súc phá hại.
II. THỰC TRẠNG
NGHIÊN CỨU, PHÁT TRIỂN VÀ CHÍNH SÁCH SỬ DỤNG SẢN PHẨM NHIÊN LIỆU SINH HỌC NÓI
CHUNG VÀ DIESEL SINH HỌC NÓI RIÊNG
1. Trên thế giới
- Nghiên cứu về nhiên liệu sinh
học (biofuels) được bắt đầu thực hiện từ những năm 90 của thế kỷ XX. Hiện nay
đã có khoảng 50 nước trên thế giới đã và đang khai thác sử dụng nhiên liệu sinh
học với các mức độ khác nhau.
- Năm 2005 Mỹ có Luật chính sách
năng lượng đề ra tiêu chuẩn bắt buộc trong xăng tiêu dùng phải pha nhiên liệu
sinh học với tỷ lệ tăng dần hàng năm. Trong giai đoạn 2001-2007, năng lực sản
xuất ethanol của Mỹ tăng trưởng 220% từ 1,9 tỷ lên đến 6,1 tỷ gallon và dự báo
đến 2009 sẽ đạt 10 tỷ gallon, còn diesel sinh học 2 năm gần đây cũng đạt đến
500 triệu gallon/năm. Trong luật chính sách năng lượng của Mỹ có 10 chương
trình lớn huy động trên 4,2 tỷ đô la hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển nhiên
liệu sinh học. Theo luật, tín thuế (là việc khấu trừ thuế đã nộp trước, khoản
thuế này được trừ vào nghĩa vụ thuế phải nộp sau này) cho những người pha trộn
ethanol là 51 cent/1 gallon và 1 đôla/1 gallon đối với pha trộn diesel sinh học.
- Braxin là quốc gia hàng đầu về
sản xuất và sử dụng ethanol với mức năng lượng cồn chiếm 40% tổng mức tiêu thụ
nhiên liệu của ô tô ở nước này, còn diesel sinh học mới được chú ý gần đây. Từ
tháng 12/2004 Chính phủ bắt đầu thực hiện Chương trình quốc gia về sản xuất và
sử dụng diesel sinh học (PNPB), theo đó thành lập Ủy ban điều hành quốc gia có
14 Bộ tham gia. Braxin đã ban hành luật 11.097 ngày 13/1/2005 quy định tỷ lệ
pha trộn bắt buộc tối thiểu 5% diesel sinh học vào nhiên liệu hóa thạch, với tỷ
lệ này nhu cầu diesel sinh học là khoảng 800 triệu lít/năm. Mức thuế ưu đãi là
giảm 68% đối với diesel sinh học sản xuất từ nguyên liệu thô bởi các hộ gia
đình, các trang trại quy mô nhỏ, mục đích của chế độ ưu đãi thuế là tăng cường
sự tham gia của các hộ nông dân vào việc cung cấp nguồn nguyên liệu thô.
- Trong khối EU nhiên liệu sinh
học là một ưu tiên trong chính sách môi trường. Nghị viện châu Âu đã ban hành
Nghị quyết số 2003/30/EC về việc khuyến khích sử dụng nhiên liệu sinh học trong
giao thông. Các nước thành viên trong khối đều đầu tư mạnh cho phát triển
nghiên cứu và công nghệ nhiên liệu sinh học, đều đã xử lý được thế hệ nhiên liệu
sinh học đầu tiên và chuẩn bị cho ra đời thế hệ thứ hai. Mức độ phát triển loại
hình nhiên liệu sinh học có khác nhau, trong khi diesel sinh học chiếm khoảng
1,6% thị trường diesel thì ethanol mới chỉ đạt 0,4% thị trường xăng. Tất cả các
nước đều miễn thuế đối với nhiên liệu sinh học và không đặt ra mức không chế được
miễn thuế.
- Trong tầm nhìn 2020 về năng lượng,
Ấn Độ quyết định đầu tư trồng 5 - 10 triệu hecta cây Cọc rào (Jatropha) để sản
xuất 7,5 triệu tấn diesel sinh học/năm, tạo thêm công ăn việc làm cho 5 triệu
người. Nước này là nước tiêu thụ diesel lớn (40 triệu tấn hàng năm) và đã có kế
hoạch phát triển trồng cây Cọc rào ở những vùng đất khô cằn chỉ để cung cấp
nguyên liệu sản xuất BDF. Ngoài ra các công ty như Công ty liên doanh Bio - Oil
Ltd (50% của Ấn Độ và 50% của Anh) đầu tư 30 triệu USD trồng cây Cọc rào ở bang
Tamil Nadu Ấn Độ. Công ty BP đầu tư 9,4 triệu USD cho Viện nghiên cứu và Tài
nguyên Ấn Độ nghiên cứu trồng 8.000 ha cây Cọc rào. Theo Uỷ ban kế hoạch Ấn Độ,
nước này phấn đấu đến 2011-2012 dầu sinh học sẽ thay thế 20% lượng dầu mỏ. Năm
2007 Ấn Độ dự kiến sản xuất 1,5 triệu tấn hạt cây Cọc rào để sản xuất 480.000 tấn
dầu.
- Indonesia đã phải trợ cấp khoảng
7 tỷ USD cho năng lượng. Nước này đặt mục tiêu đến năn 2010 nhiên liệu sinh học
đáp ứng 10% nhu cầu cho ngành điện và giao thông. Hiện nay ở đây phần lớn xe buýt
và xe tải chạy bằng dầu diesel sinh học- một hỗn hợp dầu cọ với nhiên liệu hoá
thạch - do Công ty dầu khí quốc doanh Pertamina cung cấp. Công ty điện lực PLN
đang sử dụng dầu cọ trong dự án thí điểm nhằm hướng tới chuyển tất cả các nhà
máy điện trong nước dùng dầu diesel sinh học vào năm 2010.
Chính phủ nước này cũng dự kiến
đưa diện tích cây có dầu như Jatropha, Cọ dầu lên 5,25 triệu ha vào năm 2010. Đầu
năm 2007 Công ty Năng lượng sinh học Thụy Điển đã ký kết đầu tư 103 triệu EU để
trồng 100.000ha cây Jatropha tại tỉnh Đông Nusa Tenggara của Inđônêsia.
- Trung Quốc đã lên kế hoạch đến
năm 2010 sản xuất được 2 triệu tấn dầu diesel sinh học. Chính phủ Trung quốc có
chính sách hỗ trợ tài chính mạnh mẽ như miễn 5% thuế tiêu thụ, chính phủ chịu tất
cả các khoản thua lỗ do quá trình sản xuất, vận chuyển và bán nhiên liệu sinh học
(Bộ tài chính cung cấp một khoản bù lỗ đặc biệt). Đối với các hộ gia đình trồng
cây Jatropha trên đất lâm nghiệp, Chính phủ hỗ trợ 1 khoản 200 tệ/mẫu trung quốc
(tương đương khoảng 6,5 triệu đồng/ha).
- Malaysia hiện có 3 nhà máy sản
xuất nhiên liệu sinh học với công suất 276.000 tấn /năm. Chính phủ nước này đặt
chỉ tiêu sản xuất 1 triệu tấn dầu diesel sinh học xuất khẩu vào năm 2007-2008.
Hiện nay Malaysia đã trồng được 10 ngàn ha cây Jatropha. Tuy nhiên, một khó
khăn lớn đối với nước này là quỹ đất đã được dùng để trồng cây Dầu cọ chiếm gần
hết, nên diện tích đất cho phát triển cây Jatropha không nhiều, các công ty
đang có kế hoạch nhập hạt về chế biến dầu.
- Thái Lan đã xây dựng chương
trình phát triển năng lượng thay thế các nguồn nhiên liệu hoá thạch. Bộ Năng lượng
Thái Lan năm 2004 đã thiết lập một dự án đầu tiên tại San Sai - Chiang Mai để
trồng và xây dựng Trạm sản xuất diesel sinh học từ cây Cọc rào công suất 2.000
lít, tiến hành thử nghiệm trên một số loại xe taxi bán tải, cơ sở này cho đến
nay mỗi tháng tiêu thụ được khoảng 1.700 lít diesel sinh học. Bộ Nông nghiệp và
Hợp tác xã Thái Lan và Liên đoàn công nghiệp Thái Lan phối hợp đang khuyến
khích nông dân mở rộng diện tích trồng cây Jatropha, dự kiến diện tích sẽ lên tới
2 triệu Rai (320 nghìn ha) trong những năm tới.
2. Ở Việt Nam
Đối với nước ta việc nghiên cứu,
sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học cho đến nay còn là vấn đề hoàn toàn mới
mẻ. Nhằm thúc đẩy các hoạt động về lĩnh vực này, ngày 20 tháng 11 năm 2007 Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015,
tầm nhìn 2025 tại Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg.
Về mặt nghiên cứu, Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã giao một đề tài nghiên cứu khoa học về cây Cọc rào do Trung tâm công
nghệ sinh học lâm nghiệp thuộc Viện khoa học lâm nghiệp thực hiện với thời hạn
4 năm (2007-2010). Nội dung của đề tài bao gồm xây dựng 5 ha mô hình thử nghiệm
về các biện pháp kỹ thuật thâm canh, mật độ trồng và kỹ thuật tạo tán cho cây Cọc
rào; đã khảo nghiệm 8 xuất xứ giống (4 xuất xứ nội và 4 xuất xứ ngoại) tại 3 địa
điểm là Vĩnh Phúc, Ninh Thuận và Phú Thọ; tiến hành chọn cây trội được 30 cây mẹ
tốt nhất trong đó có cây mẹ đạt đến 5 kg hạt khô/cây và có cây mẹ đạt hàm lượng
dầu trong hạt đến 38%, như vậy bước đầu đã có triển vọng tốt, nhưng đáng tiếc
là cây mẹ có năng suất cao lại không trùng với cây mẹ có hàm lượng dầu cao, cần
phải tiếp tục giải quyết vấn đề này thông qua lai tạo giống hoặc chuyển đổi
gen. Đề tài cũng đang hợp tác với Công ty GreenEnergy nghiên cứu công nghệ chế
biến dầu diesel sinh học quy mô nhỏ.
Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm
của Trường Đại học Thành Tây đã xây dựng được 1 ha vườn sưu tập giống bao gồm
16 xuất xứ của Việt Nam và 5 giống được tuyển chọn của Trung Quốc, Thái Lan,
Indonexia, Ấn Độ, Malaixia và thiết lập một vườn ươm diện tích 4 ha tại khu vực
Lương Sơn – Hòa Bình để sản xuất cây con từ hạt giống nhập của Trung quốc.
Ngoài ra Trường Đại học Thành Tây còn tiến hành phân tích chất lượng dầu trong
hạt Cọc rào ở 2 mẫu hạt, đối với mẫu hạt nguồn gốc Việt Nam (giống xô bồ chưa
được tuyển chọn) thì hàm lượng dầu chỉ có 29%, trong khi mẫu hạt của giống được
tuyển chọn nguồn gốc Trung Quốc hàm lượng dầu đạt đến 37,53%. Điều này cho thấy
tầm quan trọng của việc sử dụng giống chất lượng cao trong sản xuất nguyên liệu
với quy mô lớn.
Về mặt sản xuất, hiện nay có khoảng
10 Công ty trong nước và 5 Công ty nước ngoài đang tiến hành trồng quy mô nhỏ để
thăm dò hoặc đang xúc tiến xây dựng các dự án đầu tư lớn. Công ty TNHH Núi Đầu
đã trồng được 150 ha tại Lạng Sơn, Công ty GreenEnergy trồng được 10 ha tại Sơn
La và 5 ha ở Ninh Thuận, Công ty TNHH Thành Bưởi trồng 2 ha ở Bình Thuận,...Công
ty VM-AGROTECH của Malaixia đang làm các thủ tục với tỉnh Bình Thuận và Ninh
Thuận để đầu tư trồng 60.000 ha và xây dựng nhà máy chế biến dầu. Tập đoàn
nhiên liệu sinh học Pan Asia của Canada có kế hoạch đầu tư vào trồng và chế biến
ở Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, trong đó riêng Việt Nam đề xuất trồng
200.000 ha. Công ty Jatro của Đức đã đến chào Phó Chủ tịch nước ta và gặp Lãnh
đạo Bộ Nông nghiệp và PTNT trình bày kế hoạch dự án đầu tư trồng 200.000 ha và
xây dựng nhà máy tinh lọc dầu diesel sinh học từ cây Jatropha. Công ty Han Hwa
của Hàn Quốc đã ký bản ghi nhớ hợp tác với Trường Đại học Thành Tây để trồng
25.000 ha và xây dựng nhà máy chế biến công suất 100.000 tấn/năm ở Lạng Sơn và
Sơn La trong 3 năm 2008-2010. Công ty cổ phần IGC của Nhật Bản cũng đã ký biên
bản ghi nhớ với Trường Đại học Thành Tây về trồng 200.000 ha đến năm 2010 và
mua toàn bộ hạt Jatropha theo giá thị trường, ngoài ra đã ký hợp đồng tài trợ 1
triệu USD ngay trong năm 2008 để sản xuất cây con chuẩn bị cho trồng diện tích
lớn. Tập đoàn Basown của Hồng Kông có ý tưởng về một dự án lớn tại Việt Nam trong
đó hợp phần về cây Jatropha đề xuất trồng đến 5 triệu ha. Công ty liên doanh
D1-BP Fuel Crops của Anh đã đầu tư trồng 175.000 ha tại Châu Phi, Ấn Độ và Đông
nam á, hiện nay đang đặt vấn đề với Cục Lâm nghiệp giúp đỡ để đầu tư trồng
Jatropha ở các tỉnh ven biển nước ta.
III. TÍNH
KHẢ THI VÀ MỨC ĐỘ RỦI RO CỦA ĐỀ ÁN
1- Tính khả thi của đề án
Để làm rõ tính khả thi của đề án
cần phải xét đến các khía cạnh mang tính chất quan trọng nhất như sau:
a/- Về xu thế thị trường và giá
cả nguyên liệu
Theo công bố của Ủy ban châu Âu
(tháng 1/2007) tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng gấp đôi từ 10 tỷ tấn/năm
như hiện nay lên 22 tỷ tấn/năm đến năm 2050. Theo Trung tâm năng lượng ASEAN dự
báo nhu cầu tiêu thụ năng lượng của khu vực châu Á sẽ tăng từ 280 triệu tấn
(2001) lên đến 583 triệu tấn vào năm 2020. Theo tính toán của Viện Chiến lược
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì ở Việt Nam đến năm 2020 mới có khả năng cung cấp
khoảng 13,96 triệu tấn xăng dầu, còn thiếu khoảng 4,9 triệu tấn phải nhập khẩu.
Hơn nữa dầu thô tăng giá liên tục trong những năm gần đây (số liệu từ
Petrolimex năm 2001 giá 1 thùng dầu thô trên thế giới là 20 USD, đến tháng 6
năm 2007 là 70 USD/thùng và đến tháng 11/2007 đã đạt xấp xỉ 100USD/thùng, hiện
nay tháng 5 năm 2008 đã vượt mức 130USD/thùng). Tất cả những điều đó nói lên mức
độ khủng hoảng trầm trọng về nguồn năng lượng dầu mỏ trong tương lai gần và việc
cần thiết phải có nguồn bổ sung năng lượng mới đáp ứng cho nhu cầu thị trường.
Ở Việt Nam thời điểm hiện tại,
tuy thị trường còn rất sơ khai nhưng Công ty thương vụ Long Thủ Đạt tỉnh Quý
Châu-Trung Quốc đã ký hợp đồng với Công ty TNHH Núi Đầu tỉnh Lạng Sơn-Việt Nam
mua hạt Jatropha trong 10 năm liền và 3 năm đầu đảm bảo với giá 1,65 tệ/kg (khoảng
3.500 đ/kg) giao tại cửa khẩu, các năm sau sẽ theo giá thị trường tại thời điểm
đó, đồng thời yêu cầu phía công ty Việt Nam phải trồng được 70.000 ha trong
vòng 3 năm kể từ 2008. Công ty Jatro của Đức có kế hoạch thu mua tại Việt Nam với
giá 200 USD/tấn hạt (khoảng 3.200 đ/kg) và dự tính bán dầu diesel sinh học với
giá 900 USD/tấn ở thị trường EU (trung bình 3 tấn hạt chế biến được 1 tấn dầu).
Với dự kiến như vậy 1 ha cho thu
nhập tạm tính khoảng 9-10 triệu đồng VN /năm trong điều kiện bình thường, nếu
trồng bằng giống được tuyển chọn và thâm canh đúng kỹ thuật năng suất hạt và
hàm lượng tinh dầu sẽ tăng lên.
Từ những yếu tố nói trên có thể
nhận định là thị trường nhiên liệu sinh học cả trước mắt lẫn lâu dài vừa có nhu
cầu rất lớn vừa có thể được chấp nhận về giá cả.
b/- Về quỹ đất để phát triển gây
trồng cây Cọc rào:
Theo kết quả kiểm kê đất đai năm
2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007 tổng diện tích đất chưa sử dụng trên phạm vi
toàn quốc là 5.065.884 ha, bao gồm cả đất đồi núi và đất bằng chưa sử dụng. Đó
là chưa kể đến hàng triệu ha đất vườn tạp cần được cải tạo, đất nương rãy đang
canh tác kém hiệu quả và diện tích trồng sắn, ngô trên đất dốc gây xói mòn
nghiêm trọng cần phải chuyển sang để trồng cây Cọc rào nếu sản xuất có hiệu quả,
cạnh tranh được với các cây sắn, ngô.
Xét về lợi ích tổng thể, vùng
Tây Nguyên và vùng Đông Nam bộ có điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho phát
triển các cây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, cà phê, chè ...và một số
loại cây rau, hoa, cây ăn quả cao cấp có hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy cần dành
tối đa quỹ đất để phát triển các loại cây này.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho phát triển
cây lương thực và thủy sản để đảm bảo an ninh lương thực và phát huy thế mạnh
xuất khẩu.
4 vùng sinh thái có lợi thế cạnh
tranh để trồng cây Cọc rào là Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung bộ và duyên hải Nam
Trung bộ. Riêng 4 vùng này diện tích đất chưa sử dụng chiếm gần 4 triệu ha, đặc
biệt là 2 vùng Tây Bắc và Đông Bắc đang có rất nhiều khó khăn, trong nhiều năm
qua Đảng và Nhà nước đã tập trung nhiều nỗ lực tìm kiếm lối ra về kinh tế cho
vùng này, nhưng cho đến nay vẫn lúng túng chưa xác định được ngành hàng sản xuất
nông lâm nghiệp mang tính hàng hóa. Còn 2 vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Nam
Trung bộ có rất nhiều diện tích đất trống trọc ở cả phía tây và vùng cát ven biển
hiện sử dụng chưa có hiệu quả.
c/- Về nguồn lao động:
Theo số liệu thống kê hàng năm ở
nước ta có hàng triệu người lao động mới cần việc làm, đó là chưa kể đến số lao
động cũ chưa có hoặc chưa đủ việc làm, đặc biệt ở các vùng nông thôn hiện nay
thời gian nông nhàn của phần lớn người nông dân chiếm đến 1/3 quỹ thời gian lao
động cả năm. Do vậy nếu thực hiện đề án sẽ sẵn sàng có đủ lực lượng lao động ở
nông thôn cho việc phát triển vùng nguyên liệu và nhân công cho công nghiệp chế
biến dầu diesel sinh học, kể cả công việc sơ chế tại chỗ sẽ góp phần chuyển dịch
cơ cấu ngành nghề ở nông thôn nước ta.
d/. Về mặt kỹ thuật
Đối chiếu với đặc tính sinh thái
của loài cây Jatropha về cả yêu cầu khí hậu và đất đai thì hầu hết các vùng ở
Việt Nam đều thích hợp với việc gây trồng. Đặc biệt trên thực tế đã chứng minh
đây là loài cây rất dễ trồng, dễ sống. Vấn đề cần phải giải quyết trong thời
gian tới là phải chọn tạo được các giống tốt cho năng suất hạt và hàm lượng dầu
cao thích hợp với từng vùng sinh thái. Một lợi thế là cây Cọc rào nhanh ra hoa
kết quả nên việc nghiên cứu sẽ có kết quả sớm.
2- Rủi ro của đề án
Có 2 vấn đề có thể gây ra rủi ro
cho việc thực hiện đề án.
Thứ nhất thuộc về vấn đề kỹ thuật,
tất cả các kết quả tạo giống mới cây Jatropha đều mới ở quy mô thí nghiệm và
chưa có hiện trường ở mức độ sản xuất lớn với tuổi cây nhiều năm, các số liệu
năng suất 10 tấn hạt/ha/năm đều được mô tả trong các tài liệu của nước ngoài.
Duy nhất có giống G 188 của Malaixia đã có nhân chứng người Việt Nam thăm hiện
trường với quy mô sản xuất đạt được 3 tấn hạt/ha/năm với hàm lượng dầu trong hạt
đạt 40% ở tuổi trồng năm đầu tiên và theo lý thuyết năng suất hạt sẽ tăng dần
lên ở các năm sau. Như vậy chưa được biết hiện trường thực tế ở quy mô sản xuất
để khẳng định chắc chắn năng suất hạt sẽ đạt 10 tấn/ha/năm. Để phòng ngừa rủi
ro này, trong đề án cũng chỉ tính toán theo năng suất 3 tấn hạt/ha/năm và cần
thực hiện giải pháp về nghiên cứu để tạo ra các giống mới có năng suất trên 10
tấn/ha/năm giống như tài liệu mô tả để đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngành
hàng mới này.
Thứ hai thuộc về giá cả kinh
doanh của mặt hàng diesel sinh học, hiện nay giá buôn bán trên thị trường mặt
hàng này chưa thông dụng và mỗi nước một khác do còn quá mới mẻ. Để phòng ngừa
rủi ro này, trong đề án chưa đề cập đến giá cả mặt hàng diesel sinh học, mà chỉ
quan tâm đến giá mua nguyên liệu dựa trên cơ sở các hợp đồng hoặc thỏa thuận đã
có tại thời điểm này. Ngoài ra cần thực hiện chính sách ưu đãi về thuế như
trong phần các giải pháp của đề án đề cập tới để đảm bảo trong giai đoạn đầu hỗ
trợ cho việc sản xuất và kinh doanh mặt hàng diesel sinh học không bị thua lỗ.
Phần Thứ
Hai:
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. QUAN ĐIỂM,
MỤC TIÊU, CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Quan điểm
Việc nghiên cứu, phát triển và sử
dụng các sản phẩm từ cây Cọc rào ngoài các mục tiêu kinh tế còn có vai trò quan
trọng trong phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái. Do vậy, nghiên cứu, phát triển
và sử dụng phải gắn với thị trường, đa mục đích, tạo ra nhiều loại sản phẩm, gắn
với tăng thu nhập nâng cao sinh kế của người dân tham gia, góp phần xoá đói giảm
nghèo ở những vùng nông thôn, miền núi. Huy động rộng rãi nguồn lực của hộ gia
đình, cộng đồng dân cư thôn/bản, tổ chức kinh tế xã hội, các doanh nghiệp trong
và ngoài nước.
Đầu tư nghiên cứu phát triển các
mô hình công nghiệp chế biến vừa và nhỏ tại các vùng nguyên liệu trên địa bàn,
sản xuất sản phẩm trực tiếp hoặc sơ chế nguyên liệu cho các nhà máy lớn, liên
doanh với các vùng khác với quy mô phù hợp với khả năng đầu tư của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, các cá nhân, hộ gia đình… ; Đẩy mạnh ứng dụng
khoa học công nghệ tiên tiến, tập trung vào lĩnh vực giống và chế biến dầu
diesel sinh học.
2. Mục tiêu của đề án
1. Mục tiêu tổng quát
Tạo ra một ngành sản xuất nông
nghiệp mới thông qua việc hình thành vùng nguyên liệu gắn với phát triển công
nghiệp chế biến dầu diesel sinh học có hiệu quả cao, quy mô ngày càng lớn trên
cơ sở sử dụng hiệu quả đất đai ở các vùng hoang hóa, khô cằn, đất trống đồi núi
trọc và những nơi canh tác nông nghiệp năng suất thấp, góp phần cải thiện đời sống
của người dân ở các vùng khó khăn, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn
a/. Giai đoạn 2008-2010:
- Triển khai thực hiện có kết quả
chương trình nghiên cứu toàn diện từ giống, biện pháp kỹ thuật gây trồng đến chế
biến và sử dụng dầu diesel sinh học từ hạt Jatropa.
- Trồng thử nghiệm, khảo nghiệm
và sản xuất thử ở các vùng sinh thái khác nhau đạt quy mô diện tích khoảng
30.000 ha. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các dây chuyền chế biến
công suất nhỏ 3.000 – 5.000 tấn dầu thô/năm.
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế
chính sách đồng bộ và thông thoáng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia
đầu tư vào trồng và chế biến, kinh doanh các sản phẩm diesel sinh học.
- Từng bước đáp ứng đủ nhân lực
cho quản lý, sản xuất và nghiên cứu trong lĩnh vực diesel sinh học.
b/. Giai đoạn 2011 – 2015 và tầm
nhìn đến 2025:
- Từng bước mở rộng sản xuất quy
mô lớn theo nhu cầu thị trường, đến năm 2015 có thể đạt diện tích gây trồng
trong cả nước khoảng 300.000 ha và định hướng tiềm năng đến 2025 có thể đạt diện
tích 500.000 ha.
- Mở rộng quy mô chế biến dầu
diesel sinh học và các sản phẩm phụ phù hợp với phát triển vùng nguyên liệu, đến
năm 2015 tổng công suất chế biến đạt khoảng 300.000 tấn/năm và định hướng tiềm
năng đến 2025 tổng công suất chế biến có thể đạt 1 triệu tấn dầu thô/năm, đảm bảo
thay thế khoảng 10-15% lượng dầu diesel nhập khẩu.
- Góp phần vào kim ngạch xuất khẩu
và tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, ổn
định đời sống cho người dân và giảm sức ép vào rừng tự nhiên.
- Góp phần phòng hộ đất đai và bảo
vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu ô nhiễm.
3. Căn cứ để xây dựng đề án
- Luật bảo vệ môi trường đã được
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005.
- Căn cứ vào Quyết định số
47/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Kế hoạch tổ chức thực
hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí
hậu giai đoạn 2007 - 2010
- Căn cứ kết quả kiểm kê đất đai
năm 2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007 .
- Căn cứ vào “Đề án phát triển
nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg ngày 20/11/2007.
II. KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN CÂY CỌC RÀO Ở VIỆT NAM TỚI NĂM 2025
Lộ trình cho nghiên cứu, phát
triển và sử dụng sản phẩm cây Cọc rào ở Việt Nam đến năm 2025 được xác định làm
2 giai đoạn
1- Giai đoạn 1 (từ 2008-2010)
- Tập trung nghiên cứu toàn diện
về cây Jatropha từ chọn tạo giống, kỹ thuật gây trồng đến chế biến và sử dụng
các sản phẩm của cây Cọc rào. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu sẽ hoàn thiện
các quy trình kỹ thuật gây trồng và chế biến cây Cọc rào.
- Trồng khảo nghiệm trên diện rộng
ở các vùng sinh thái trong cả nước, sản xuất thử ở quy mô nhỏ dự kiến tổng diện
tích trồng trong giai đoạn này khoảng 30.000 ha.
- Khảo nghiệm, lựa chọn công nghệ
tinh lọc dầu diesel sinh học tiên tiến và có hiệu quả nhất.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
văn bản chính sách và quản lý đối với ngành hàng dầu diesel sinh học.
Định hướng cho nghiên cứu:
Tiến tới hình thành một đơn vị
nghiên cứu chuyên sâu về cây Cọc rào làm nòng cốt tập hợp lực lượng đông đảo
các đơn vị và cá nhân trong cả nước cùng thực hiện một chương trình nghiên cứu
tổng thể cấp nhà nước về cây Cọc rào. Chương trình này sẽ bao gồm toàn diện các
vấn đề kinh tế -kỹ thuật nhằm đảm bảo đưa cây Cọc rào trở thành một ngành hàng
mũi nhọn, có thể là những vấn đề sau:
- Thu thập các xuất xứ của giống
nội địa, nhập khẩu các giống ngoại tốt nhất, tiến hành khảo nghiệm giống ở các
vùng sinh thái khác nhau để xác định các giống phù hợp cho từng vùng.
- Nghiên cứu lai tạo giống mới
có hàm lượng dầu trong hạt >40% và năng suất hạt đạt hơn 10 tấn/ha/năm, cùng
với kỹ thuật nhân giống hoàn thiện. Đồng thời tiến hành nghiên cứu tạo các giống
mới bằng công nghệ sinh học (ưu tiên công nghệ gen).
- Nghiên cứu sử dụng các chế phẩm
sinh học tác động đến quá trình hình thành hoa cái và tỷ lệ đậu quả .
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ
thuật thâm canh (chú ý đến loại phân bón và liều lượng bón vì có thông tin nếu
bón phân có gốc Sunphat sẽ làm tăng năng suất khoảng 10%, ngoài ra cần quan tâm
đến các biện pháp điều chỉnh mật độ và tạo tán, tạo ngọn vì đây là loài ra hoa
quả ở đầu cành…) và vấn đề bảo quản hạt sau thu hoạch.
- Nghiên cứu xây dựng và hoàn
thiện quy trình công nghệ chế biến chiết xuất dầu diesel sinh học; thử nghiệm tỷ
lệ dầu diesel sinh học trên các động cơ đốt trong và các loại động cơ khác.
- Nghiên cứu và hoàn thiện quy
trình công nghệ chế biến các loại sản phẩm phụ của cây Cọc rào (như khử độc tố
trong bã hạt làm thức ăn gia súc, sử dụng thân cây làm nút lie hoặc làm nguyên
liệu giấy, giá thể nuôi nấm...).
- Nghiên cứu về cơ chế chính
sách và dự báo thị trường đối với các sản phẩm của cây Cọc rào.
2- Giai đoạn 2 (từ 2011-2025):
Trong giai đoạn này có thể chia
làm 2 bước:
- Từ 2011 đến 2015: Trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu được khẳng định và nhu cầu của các nhà đầu tư sẽ tiến
hành quy hoạch chi tiết các vùng trồng tập trung gắn với các nhà máy chế biến dầu
diesel sinh học. Trong giai đoạn này dự kiến mở rộng trồng khoảng 300.000 ha.
- Từ 2015 trở đi: Trồng đại trà
để đạt diện tích khoảng 500.000 ha trên toàn quốc, sử dụng diesel sinh học với
tỷ lệ bắt buộc trong diesel dầu mỏ, quảng bá sử dụng các sản phẩm phụ từ cây Cọc
rào.
Định hướng phát triển sản xuất:
Từ những bài học kinh nghiệm đã
có trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta đối với chỉ đạo phát
triển nông lâm nghiệp, ngành sản xuất diesel sinh học từ cây Cọc rào phải dựa
chủ yếu vào các doanh nghiệp và kinh tế hộ nông dân, dứt khoát không làm theo
kiểu phong trào và mệnh lệnh hành chính, mà phát triển theo hướng tạo điều kiện
cho dân và doanh nghiệp làm, dân và doanh nghiệp hưởng lợi, Nhà nước đảm bảo có
đủ các chính sách vĩ mô để tạo chỗ dựa và xóa bỏ mọi rào cản gây khó khăn cho
dân và doanh nghiệp. Cách làm là từng bước, trước hết phải nhanh chóng tiến
hành nghiên cứu, sản xuất thử, sau khi có kết quả mới tổng kết rút kinh nghiệm
để quyết định mở rộng quy mô và dựa vào các doanh nghiệp hỗ trợ cho dân làm, đảm
bảo đầu ra. Quy mô 500.000 ha chỉ mang tính định hướng tiềm năng, việc thực hiện
cụ thể sẽ do hiệu quả sản xuất và thị trường quyết định.
Trong giai đoạn 1 trồng khoảng
30.000 ha và xây dựng các cơ sở chế biến nhỏ chiết xuất dầu diesel sinh học từ
hạt cây Cọc rào có công suất 3.000 - 5.000 tấn dầu thô/năm, dựa vào các dự án
đã được chuẩn bị của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Sau đó, tổng kết rút
kinh nghiệm để phát triển trồng và sản xuất dầu ở các giai đoạn sau với quy mô
lớn.
Phương thức trồng cây Cọc rào
nên theo 2 hướng. Thứ nhất là trồng thâm canh, lấy mục tiêu kinh tế là chính,
năng suất hạt phải đạt từ 10tấn/ha/năm, năng suất dầu thô phải đạt 2-3 tấn/ha/năm.
Thứ hai là trồng ở một số nơi khó khăn lấy mục tiêu phục hồi sinh thái là chính
(bao gồm chống sa mạc hóa, các đường băng cản lửa để phòng chống lửa rừng) yêu
cầu năng suất hạt khoảng 1 tấn/ha/năm. Ngoài ra có thể khuyến khích trồng phân
tán quanh nhà, ven đường... kể cả ở vùng đồng bằng cũng sẽ tạo ra một lượng
đáng kể nếu làm tốt.
- Trong một vài năm đầu có thể
phải chấp nhận việc bán nguyên liệu thô để tạo thị trường cạnh tranh. Đồng thời
ưu tiên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nhỏ
công suất 3.000 – 5.000 tấn dầu thô/năm ở các vùng nguyên liệu trong cả nước.
Nhưng cũng cho phép các doanh nghiệp lớn đầu tư các nhà máy tinh luyện dầu với
công suất lớn hàng 100 ngàn tấn/năm.
Chu trình sản xuất và kinh doanh
diesel sinh học từ cây Cọc rào có thể tóm tắt như sau: các hộ nông dân được sự
hỗ trợ của Nhà nước (hoặc doanh nghiệp) thực hiện việc gây trồng và thu hoạch hạt;
các doanh nghiệp hoặc đại lý thu mua nguyên liệu thô để sơ chế ngay tại chỗ bằng
máy ép loại nhỏ (lúc này sản phẩm là dầu thô và bã); dầu thô sẽ được bán cho
các dây chuyền chế biến nhỏ ở từng vùng hoặc nhà máy công suất lớn để tinh chế
(lúc này sản phẩm gồm diesel sinh học và Glyxeryl); bã sẽ được trực tiếp chế biến
thành phân bón hữu cơ chất lượng cao hoặc nếu nghiên cứu thành công việc khử
Phytoxis sẽ chế biến thành thức ăn gia súc.
III. CÁC GIẢI
PHÁP THỰC HIỆN
1. Giải pháp về đất đai
Số liệu thống kê trên sổ sách về
diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn, nhưng trên thực tế việc đưa những diện
tích này vào sử dụng lại không hề đơn giản, đây chính là yếu tố hạn chế hiện
nay cần phải được giải quyết theo hướng tạo điều kiện cho dân và doanh nghiệp
có đất để trồng trên diện tích lớn và tập trung, không áp dụng cứng nhắc quy định
về mức hạn điền. Có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Hoàn thành giao đất trống đồi
trọc cho hộ gia đình, cá nhân;
- Những nơi còn quỹ đất trống lớn
tập trung chưa giao thì chính quyền lập các dự án cho thuê đất;
- Khuyến khích liên doanh, liên
kết giữa nhà đầu tư và nông dân có đất, hai bên cùng có lợi
- Thông thoáng về thủ tục chuyển
nhượng đất, khuyến khích tích tụ đất, không hạn chế với diện tích đất trống đồi
trọc.
- Đối với các doanh nghiệp đầu
tư xây dựng nhà máy chế biến dầu diesel sinh học được ưu tiên bố trí đất trong
các khu công nghiệp hoặc khu vực do doanh nghiệp đề nghị phù hợp với quy hoạch
của tỉnh.
2. Giải pháp về Chính sách
- Chính sách hỗ trợ đầu tư:
Hỗ trợ hạt giống hoặc cây giống
cho tất cả các hộ dân có đất đai phù hợp và tự nguyện tham gia trồng cây Cọc
rào trong giai đoạn đầu tiên đến năm 2010.
Ưu đãi về vốn vay cho mọi tổ chức,
cá nhân đầu tư vào hoạt động gây trồng và chế biến các sản phẩm sinh học từ cây
Cọc rào.
- Chính sách thuế: thực hiện
theo Luật đầu tư, các Luật thuế hoặc có thể áp dụng một trong 2 cách sau để
khuyến khích các doanh nghiệp.
Thứ nhất, Nhà nước sẽ hỗ trợ cho
một khoản gọi là thưởng môi trường theo đầu tấn sản phẩm dầu diesel sinh học được
sản xuất ra, khoản này bằng tiền chênh lệch giữa giá bán diesel dầu mỏ với giá
bán diesel sinh học (trong trường hợp giá bán diesel sinh học thấp hơn, coi đây
là khoản trợ cấp ưu đãi để khuyến khích).
Thứ hai, Nhà nước miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp sản xuất diesel sinh học trong thời gian đầu khi giá thành
diesel sinh học còn cao hơn giá thành diesel dầu mỏ.
3. Giải pháp về khoa học công
nghệ và khuyến nông
Với lợi thế là thời gian ra hoa
kết quả chỉ sau khi trồng 6 tháng nên việc nghiên cứu cây Cọc rào sẽ nhanh cho
những kết quả phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, để giải quyết một cách toàn diện và
triệt để mọi vấn đề cho phát triển năng lượng diesel sinh học, Nhà nước cần đầu
tư một Chương trình nghiên cứu phát triển sản phẩm diesel sinh học mang tính
lâu dài (có thể trong khoảng thời gian 10-15 năm), trong đó đối tượng có thể
không chỉ là cây Jatropha. Đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng công nghệ sinh học, nhất
là công nghệ gen để tạo ra giống Jatropha đột biến có năng suất cao và hàm lượng
dầu cao hơn hẳn những giống hiện có.
Trước mắt giao cho một đơn vị
nghiên cứu khoa học của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (có thể là Trung
tâm công nghệ sinh học lâm nghiệp thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam hiện
nay) đứng làm đầu mối để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Dần dần tùy theo sự
phát triển của khoa học và yêu cầu của sản xuất có thể hình thành một Trung tâm
(hoặc Viện) nghiên cứu chuyên đề về cây Jatropha và diesel sinh học, đơn vị này
có thể do Nhà nước thành lập, cũng có thể do doanh nghiệp thành lập, nhất là
doanh nghiệp nước ngoài.
Nhà nước có chính sách khuyến
khích các nhà khoa học, các tổ chức khoa học và các doanh nghiệp tư nhân trong
và ngoài nước bỏ vốn nghiên cứu khoa học về nhiên liệu sinh học.
- Xây dựng một chương trình khuyến
nông về cây Jatropha thực hiện trong giai đoạn 2009 – 2015.
- Nhà nước đầu tư cho việc đào tạo
nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu về lĩnh vực cây trồng
các sản phẩm sinh học.
4. Giải pháp về thị trường
Nhà nước có quy định về tỷ lệ bắt
buộc diesel sinh học pha trong diesel dầu mỏ được tiêu thụ trên thị trường, như
một số nước đã thực hiện, có thể theo lộ trình từ 2010-2015 phải sử dụng từ B1
đến B5 (tức từ 1-5% diesel sinh học pha với 99-95% diesel dầu mỏ), sau đó là
B10 tiến tới B20 tùy theo tình hình phát triển của sản xuất trong nước và sức
ép về năng lượng dầu mỏ trên trường quốc tế.
Nước ta đã tham gia Nghị định thư
Kyoto về biến đổi khí hậu toàn cầu, cho nên việc thực hiện quy định bắt buộc sử
dụng diesel sinh học là một hành động chứng minh với thế giới việc thực thi
nghiêm chỉnh những công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời tạo ra
khung pháp lý bắt buộc các nhà kinh doanh buôn bán sản phẩm dầu diesel phải thực
hiện sẽ làm cho các doanh nghiệp sản xuất diesel sinh học yên tâm về thị trường
trong nước và khuyến khích được quan hệ cung-cầu phát triển.
IV. NHU CẦU
VỀ VỐN ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN:
Tổng nhu cầu vốn cho thực hiện đề
án ước tính khoảng 2.320 tỷ đồng Việt Nam, trong đó: Nguồn vốn ngân sách nhà nước
khoảng 220 tỷ đồng Việt Nam; còn lại 2.100 tỷ đồng Việt Nam sẽ là nguồn đầu tư
của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước.
1- Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
Nhà nước đầu tư cho các công việc:
nghiên cứu khoa học, khuyến lâm, đào tạo và hỗ trợ cây giống cho hộ dân trồng
trong thời kỳ đầu khi chưa có thị trường.
Nguồn vốn được lấy từ vốn sự
nghiệp khoa học, vốn khuyến lâm, vốn sự nghiệp đào tạo và hàng năm bố trí một
khoản vốn ngân sách riêng cho chương trình này.
2- Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà
nước:
- Các doanh nghiệp, cá nhân đầu
tư cho các dự án gây trồng, chế biến và phát triển các sản phẩm sinh học.
- Tính trung bình suất đầu tư
cho trồng 1 ha cây Cọc rào là 4 triệu đồng thì để đạt được 500.000 ha cần 2.000
tỷ đồng. Một dây chuyền thiết bị chế biến diesel sinh học có công suất 3.000 tấn
dầu thô/năm giá là 120.000 USD, như vậy suất đầu tư cho chế biến diesel sinh học
khoảng 40 USD/tấn.
- Nguồn vốn lấy từ vốn tự có của
các doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng thương mại và vốn tài trợ của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước.
Biểu 1- Nhu cầu vốn cho cả thời
kỳ 2008 – 2025
Đơn
vị tính: tỷ đồng
Nội
dung
|
Tổng
số
|
Vốn
NS
|
Vốn
ngoài NS
|
Chương trình nghiên cứu tổng
thể
|
100
|
100
|
|
Chương trình khuyến nông
|
20
|
20
|
|
Đầu tư gây trồng nguyên liệu
|
2.000
|
100
|
1.900
|
Đầu tư chế biến dầu diesel
sinh học
|
200
|
|
200
|
Tổng cộng
|
2.320
|
220
|
2.100
|
V. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Nghiên cứu, phát triển và sử dụng
sản phẩm cây Cọc rào (Jatropha curcas L.)ở Việt Nam là một lĩnh vực mới có nhiều
tiềm năng, thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Do đó để thực hiện
thành công đề án cần phải có tổ chức chặt chẽ và phân công rõ ràng trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước như sau:
- Bộ Nông nghiệp và PTNT là cơ
quan đầu mối chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát, phối hợp với các ngành liên
quan và UBND các tỉnh trong quá trình thực hiện Đề án về nghiên cứu, gây trồng,
chế biến, thử nghiệm và công bố tiêu chuẩn kỹ thuật của cây Cọc rào thuộc lĩnh
vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và phát triển vùng nguyên liệu. Giao
cho các cơ quan thuộc Bộ thực hiện ngay các công việc cụ thể từ năm 2008 như
sau:
+ Vụ Khoa học công nghệ xây dựng
chương trình nghiên cứu tổng thể về cây Jatropha và các đề tài chi tiết phục vụ
chương trình này.
+ Cục Lâm nghiệp phối hợp với Sở
Nông nghiệp và PTNT các tỉnh giải quyết vấn đề đất đai cho trồng nguyên liệu và
xây dựng các chính sách phát triển trồng cây Jatropha. Đồng thời xây dựng một số
mô hình trồng cây Cọc rào ở các vùng sinh thái trọng điểm, bao gồm cả mô hình
trồng băng cản lửa bảo vệ rừng trồng.
+ Cục Chế biến nông lâm sản và
nghề muối phối hợp với các đơn vị và Bộ ngành liên quan trong việc xây dựng quy
hoạch công nghiệp chế biến và tìm hiểu thông số về công nghệ chế biến dầu
diesel sinh học.
+ Trung tâm khuyến nông Quốc gia
xây dựng chương trình khuyến lâm phát triển cây Cọc rào trên vùng đất dốc.
- Với Bộ Công Thương: quy hoạch
và chỉ đạo xây dựng cơ sở tiêu thụ diesel sinh học và tổ chức thử nghiệm, công
bố tiêu chuẩn về dầu diesel sinh học và các sản phẩm từ cây Cọc rào thuộc lĩnh
vực Bộ Công Thương.
- Với Bộ Khoa học và Công nghệ:
Xây dựng chương trình nghiên cứu tổng thể về cây trồng cho diesel sinh học để
thực hiện.
- Với Bộ Giáo dục và Đào tạo:
Xây dựng chương trình và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực các cấp phục vụ cho quản
lý, nghiên cứu và sản xuất trong lĩnh vực nhiên liệu sinh học.
- Với các Bộ, Ngành khác (Kế hoạch
và Đầu tư, Tài chính,Tài nguyên và môi trường) phối hợp, hỗ trợ thực hiện Đề án
trong các lĩnh vực liên quan thuộc Bộ, Ngành phụ trách.
- UBND các tỉnh có trách nhiệm:
Chủ động kêu gọi và tạo điều kiện
để các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến dầu
diesel sinh học trên địa bàn tỉnh, nhất là giải quyết nhanh chóng các thủ tục về
đất đai.
Chỉ đạo thực hiện hiệu quả dự án
trên địa bàn tỉnh. Phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình tổ chức thực hiện tại địa phương, kiến nghị với Chính phủ và các Bộ,
ngành liên quan về biện pháp giải quyết.
VI. HIỆU QUẢ
CỦA ĐỀ ÁN
1. Về kinh tế
Hàng năm nguồn năng lượng diesel
sinh học từ cây Cọc rào bổ sung và thay thế một lượng lớn dầu diesel truyền thống.
Cây Cọc rào có hàm lượng dầu
diesel trong hạt từ 30÷ 38%, trên 1 ha có thể cho từ 1÷ 2 tấn dầu diesel sinh học/năm.
Nếu thực hiện đề án chúng ta có thể đáp ứng cho sự thiếu hụt từ 10÷ 15% dầu
diesel nhập khẩu, giảm bớt sản lượng nhập khẩu và tiết kiệm hàng trăm triệu USD
cho nhà nước (giá dầu diesel từ cây Cọc rào tại Ấn Độ là 0,4 Đôla Mỹ / 1 lít
khoảng 6.000 đồng Việt Nam chưa có thuế thời điểm 2006, tại Thái Lan từ 20 – 25
bạt/ 1lít khoảng 8.000 đồng Việt Nam thời điểm 2006). Ngoài ra Nhà nước sẽ thu
được một khoản thuế không nhỏ (sau một vài năm miễn giảm ưu đãi) từ công nghiệp
chế biến và kinh doanh thương mại dầu diesel sinh học.
Đối với các hộ nông dân trồng
Jatropha sẽ có thu nhập ròng khoảng 6 – 7 triệu đồng/ha ngay sau khi trồng một
năm (theo cách tính: suất đầu tư 3 triệu đồng/ha, giá bán hạt 3.200 – 3.500
đ/kg, năng suất đạt 3 tấn hạt/ha). Các năm sau sẽ tăng lên nhiều nếu như năng
suất hạt tăng, thậm chí giả sử năng suất vẫn giữ nguyên thì các chi phí sản xuất
cũng giảm nhiều vì không phải trồng lại.
2. Về xã hội
Giảm đói nghèo cho người dân lao
động ở những vùng núi cao, trung du, đồng bằng và các vùng đất canh tác khó
khăn, thu hút hàng vạn lao động ở 2 khâu: trồng rừng và chế biến. Nông dân có
cơ hội tăng thu nhập từ tham gia đề án, đây là cơ sở để thực hiện chính sách
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, tạo bước chuyển dịch mới
trong cơ cấu kinh tế nông thôn (tạo công ăn việc làm cho 50 lao động thường
xuyên cho 100ha trồng cây Cọc rào).
3. Về môi trường
Cây Cọc rào là cây có khả năng
chịu hạn tốt, sinh trưởng, phát triển trên đất khô cằn, nhất là các vùng đất
cát như ở Miền Trung, đất trồng đồi núi trọc và vùng đất nghèo dinh dưỡng có điều
kiện thời tiết khắc nghiệt.
Khả năng hấp thụ CO2 của cây Cọc
rào cao, có thể hấp thụ 10 tấn khí thải CO2/ha/năm (2005, Lê Võ Định Tường).
Diesel sinh học từ cây Cọc rào
có đặc tính là khó cháy nổ, có thành phần ô xy trong phân tử và không có
sunphua nên được đốt cháy hết, giảm thiểu 40 - 80% khí gây hiệu ứng nhà kính.
Tăng độ ẩm cho môi trường, tăng
dự trữ nước và cải tạo đất tốt.
Tạo vi khí hậu cho vùng trồng
xen hoa màu, các loại cây kinh tế khác.
Góp phần nâng độ che phủ của thảm
cây xanh, tăng cường phòng hộ đồng ruộng, đê điều, bảo vệ các công trình giao
thông, thuỷ lợi và cải thiện được môi trường sinh thái.
Đây là nguồn năng lượng có khả
năng tái tạo có tính ổn định và bền vững cao.
Phần Thứ
Ba:
KẾT LUẬN
- Đây là một đề án có ý nghĩa
quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước. Với các hiệu quả về
kinh tế, xã hội và môi trường của đề án và xu thế chung của quốc tế về phát triển
nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, vì vậy sẽ nhận được sự đồng tình ủng
hộ của các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học và quần chúng nhân dân trong cả nước.
- Xây dựng và thực hiện đề án
thành công sẽ góp phần giải quyết đáng kể những bức xúc hiện nay về nhu cầu
nhiên liệu trong nước cả trước mắt và lâu dài, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng
và đóng góp vào quá trình thực hiện Nghị định thư Kyoto và Công ước chống sa mạc
hóa mà Việt Nam đã ký kết tham gia.