NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
62-NH/TT
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 8 năm 1982
|
THÔNG TƯ
CỦA TỔNG GIÁM ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC SỐ 62-NH/TT NGÀY 30
THÁNG 8 NĂM 1982 HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 146-HĐBT NGÀY 25-8-1982 CỦA HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ VIỆC SỬA ĐỔI VÀ BỔ SUNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 25-CP NGÀY 21-1-1981 CỦA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Thi hành Quyết định số 146-HĐBT
ngày 25-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi và bổ sung Quyết định số
25-CP, Ngân hàng Nhà nước Trung ương hướng dẫn một số điểm có liên quan về tiền
tệ, tín dụng, thanh toán như sau:
I. NGÂN HÀNG
THAM GIA XÁC ĐỊNH LẠI PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ SẢN XUẤT, KINH DOANH CỦA CÁC XÍ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH CHO SÁT VỚI ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ HIỆN NAY
1. Quyết định của Hội đồng Bộ
trưởng quy định "trên cơ sở khả năng cân đối hiện thực về năng lượng, vật
tư, nguyên liệu, phụ tùng, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng với các Bộ, Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố, các liên hiệp xí nghiệp tiến hành việc sắp xếp lại
sản xuất, phân loại xí nghiệp, xác định đúng đắn với nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh của các đơn vị sản xuất cho phù hợp với điều kiện hiện tại".
Các ngân hàng chuyên nghiệp
Trung ương, ngân hàng tỉnh, thành phố và ngân hàng cơ sở theo chức năng của
mình, có trách nhiệm tham gia cùng các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phố và các xí
nghiệp sắp xếp lại cơ sở sản xuất theo 3 loại.
a) Xí nghiệp có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, được Nhà nước ưu tiên bảo đảm cung cấp đủ những
phương tiện, vật tư, nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ổn định.
b) Các xí nghiệp không được Nhà
nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu thì được quyền chủ động tìm thêm vật tư, nguyên
liệu từ những nguồn khác nhau, kể cả vay ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước để nhập
vật tư, nguyên liệu, phụ tùng.
c) Các xí nghiệp không có khả
năng tiếp tục hoạt động, hoặc hoạt động không có hiệu quả kinh tế thì cho phép
được chuyển hướng sản xuất hoặc tạm ngừng sản xuất.
Các căn cứ để sắp xếp lại cơ sở
sản xuất theo hướng dẫn tại Chỉ thị số 120- HĐBT ngày 17 tháng 7 năm 1982 của Hội
đồng Bộ trưởng và những văn bản liên quan khác của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước.
2. Trên cơ sở xác định rõ phương
hướng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, các ngân hàng cơ sở phải giúp đỡ, thúc đẩy
các xí nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất, kỹ thuật tài chính trong đó có kế hoạch
vốn lưu động định mức, xin cấp bổ sung đủ vốn lưu động tự có hoặc trích lợi nhuận
bổ sung đủ vốn lưu động tự có theo chế độ hiện hành.
Quyết định số 146-HĐBT quy định
"tuỳ điều kiện cụ thể về khả năng của Nhà nước trong việc cân đối và cung ứng
vật tư chủ yếu cho xí nghiệp, kế hoạch có thể phần do Nhà nước giao được cân đối
vật tư chủ yếu là phần do xí nghiệp chủ động tự tìm kiếm vật tư để sản xuất".
Vì vậy, kế hoạch vốn lưu động định mức phải bao gồm hai nội dung nói trên. Bên
cạnh kế hoạch sản xuất chính, các xí nghiệp còn xây dựng kế hoạch sản xuất phụ
(nếu có).
II. CÔNG TÁC
TÍN DỤNG, THANH TOÁN ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
1. Tín dụng đối với xí nghiệp
sản xuất ổn định.
Ngân hàng Nhà nước tập trung vốn
đáp ứng nhu cầu cần thiết về vốn lưu động đã được kế hoạch hoá, nhằm giúp xí
nghiệp hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Các xí nghiệp có nhu cầu vốn
phát sinh đột xuất, nếu có hiệu quả kinh tế, có thêm sản phẩm do Nhà nước, ngân
hàng xem xét và cho vay vốn theo thể lệ hiện hành.
Đối với xây dựng cơ bản, tín dụng,
ngân hàng tham gia đầu tư vào các công trình thuộc kế hoạch Nhà nước và chú trọng
đầu tư theo chiều sâu, thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, cải tiến, mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất và cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện có, với số vốn đầu tư ít nhưng đạt hiệu quả kinh tế cao và nhanh.
2. Tín dụng đối với trường hợp
xí nghiệp phải tự tìm vật tư để sản xuất.
a) Đối với những xí nghiệp không
được Nhà nước cung ứng đủ vật tư chủ yếu mà phải tự tìm thêm vật tư từ những
nguồn khác thì ngoài việc cho vay vốn lưu động thông thường để mua vật tư được
phân phối và chi phí sản xuất, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao, xí
nghiệp còn được vay vốn để thực hiện kế hoạch bổ sung.
Để có thể vay vốn lưu động cần
thiết đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất kinh doanh, xí nghiệp cần:
- Có kế hoạch bổ sung về sản xuất,
tiêu thụ, kế hoạch vốn lưu động định mức được cơ quan chủ quản xét duyệt đồng
thời với kế hoạch Nhà nước giao đã được cân đối vật tư, được cơ quan chủ quản,
cơ quan tài chính cấp vốn bổ sung hoặc có kế hoạch trích lợi nhuận để tự bổ
sung đủ vốn lưu động tự có theo tỷ lệ quy định. Trong quá trình sản xuất, xí
nghiệp tìm thêm được nguồn vật tư, nguyên liệu cho kế hoạch bổ sung, Ngân hàng
cũng coi đây là đối tượng xem xét cho vay, không yêu cầu phải duyệt lại định mức
vốn lưu động.
- Giải trình rõ việc sản xuất ra
sản phẩm là có lãi và có hợp đồng tiêu thụ hợp lệ.
- Bảo đảm trả nợ ngân hàng đúng
hạn.
b) Về giá cả để cho vay và thanh
toán:
- Những vật tư của Nhà nước cung
ứng theo chỉ tiêu kế hoạch, cho vay và thanh toán theo giá chỉ đạo của Nhà nước.
Những vật tư còn thừa chưa dùng
đến của xí nghiệp khác nhượng lại trên tinh thần hợp tác tương trợ, cho vay và
thanh toán theo giá bán buôn vật tư của Nhà nước cộng với chi phí bảo quản và vận
tải hợp lý do hai bên thoả thuận.
- Những vật tư kỹ thuật được phép
thanh lý, cho vay và thanh toán theo giá chỉ đạo đối với vật tư thanh lý của
Nhà nước.
- Những vật tư là nông, lâm, hải
sản thuộc diện vật tư Nhà nước thống nhất quản lý, cho vay và thanh toán theo
khung giá chỉ đạo của Nhà nước do cơ quan được phân cấp quản lý giá quy định.
Những vật tư không thuộc diện
Nhà nước thống nhất quản lý, cho vay và thanh toán theo giá thoả thuận, theo
đúng các quy định và hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố sở tại.
Các ngân hàng cơ sở không được
cho vay để xí nghiệp mua trên thị trường tự do những loại vật tư do Nhà nước độc
quyền phân phối.
c) Tài khoản cho vay, thời hạn
trả nợ được thực hiện như việc cho vay trong và trên định mức (hoặc trong và
ngoài kế hoạch) thông thường. Những xí nghiệp trước đây có vay vốn để sản xuất
theo kế hoạch tự làm, phản ánh trên tiểu khoản cho vay vốn lưu động số 30. Cho
vay sản xuất tự làm, nếu còn nợ thì nay được chuyển số dư vào tài khoản cho vay
trong và trên định mức (hoặc trong, ngoài kế hoạch) tất toán tiểu khoản 30.
3. Đối với các xí nghiệp chuyển
hướng sản xuất hoặc tạm ngừng sản xuất.
a) Đối với những xí nghiệp gặp
khó khăn, không thể tiếp tục sản xuất theo nhiệm vụ đã duyệt mà phải chuyển hướng
sản xuất sang ngành, nghề hoặc loại sản phẩm khác, ngân hàng cơ sở cần giúp đỡ
và thúc đẩy xí nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính theo
yêu cầu của nhiệm vụ mới, trình cấp có thẩm quyền xét duyệt, ngân hàng thực hiện
cho vay vốn lưu động đối với xí nghiệp theo thể lệ hiện hành.
b) Đối với những xí nghiệp tạm
ngừng sản xuất, ngân hàng cơ sở cần phối hợp với cơ quan chủ quản xí nghiệp và
các cơ quan liên quan giúp xí nghiệp kiểm kê, bảo quản tài sản cố định, tiêu thụ
sản phẩm, chuyển nhượng số vật tư tồn kho, giải quyết những khoản phải thu, phải
trả, xử lý tài sản tổn thất theo chế độ, thu hồi các khoản phải thu (kể cả nguồn
bù lỗ). Kể từ ngày có quyết định tạm ngừng sản xuất , ngân hàng ngừng mọi khoản
cho vay, tiếp tục thu hồi nợ từ tài khoản tiền gửi và từ các khoản thu nhập bằng
tiền do kết quả thanh lý của xí nghiệp. Giám đốc ngân hàng tỉnh, thành phố có
thể xét quyết định miễn thu lãi cho số dư nợ kể từ ngày có quyết định ngừng sản
xuất .
4. Tín dụng đối với sản xuất
phụ.
a) Ngân hàng Nhà nước cho xí
nghiệp vay vốn để thực hiện sản xuất phụ nhằm mục đích giúp xí nghiệp tận dụng
sức lao động dôi thừa, tận dụng thiết bị, nhà xưởng, phế liệu, phế phẩm để làm
thêm sản phẩm, cung cấp cho nhu cầu thị trường.
Muốn được vay vốn, xí nghiệp cần:
- Gửi tới Ngân hàng kế hoạch sản
xuất phụ đã được cơ quan quản lý cấp trên duyệt về mặt hàng, giá thành và giá
bán sản phẩm.
- Giải trình rõ việc sản xuất ra
sản phẩm là có lãi và có hợp đồng tiêu thụ, hoặc có kế hoạch tự tiêu thụ (nếu
thương nghiệp quốc doanh không thu mua).
- Có một số vốn lưu động tự có bỏ
vào sản xuất.
b) Đối tượng cho vay vốn là những
vật tư xí nghiệp phải mua để sản xuất. Những phế liệu, phế phẩm xí nghiệp tận dụng
từ sản xuất chính sẽ được hoàn lại giá trị khi xí nghiệp tiêu thụ sản phẩm phụ,
không là đối tượng cho vay của ngân hàng.
Những xí nghiệp cần mua thêm thiết
bị, xây dựng thêm nhà xưởng để thực hiện sản xuất phụ, ngân hàng sẽ xem xét và
giải quyết cho vay theo thể lệ cho vay vốn cố định hiện hành.
c) Về giá cả, ngân hàng cho vay
và thanh toán những vật tư mua ngoài theo quy định ở tiết b, điểm 2, mục II .
d) Cho vay vốn lưu động để sản
xuất phụ theo tài khoản đơn giản. Tiền vay được hạch toán vào tiểu khoản cho
vay số 29 cho vay vốn lưu động để sản xuất phụ. Thời hạn tối đa của mỗi món vay
là 3 tháng, trường hợp đặc biệt, theo đề nghị của giám đốc xí nghiệp, trưởng
ngân hàng có thể quy định dài hơn nhưng không quá 6 tháng. Lãi suất tiền vay
theo biểu lãi suất hiện hành.
5. Công tác thanh toán.
Việc thanh toán tiền mua nguyên
vật liệu và cung ứng lao vụ giữa các xí nghiệp có tài khoản tại ngân hàng thực
hiện bẳng chuyển khoản. Nghiêm cấm việc đòi thanh toán bằng tiền mặt, đòi ứng
trước hoặc nhận ứng trước bằng tiền mặt.
Áp dụng rộng rãi hình thức séc
chuyển tiền cầm tay trong việc chuyển tiền từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh,
thành phố khác để rút ngắn thời gian thanh toán.
Những khoản dưới mức quy định
thanh toán chuyển khoản, hoặc những trường hợp đặc biệt, xí nghiệp có trao đổi
trước với ngân hàng, thì được thanh toán bằng tiền mặt.
Trong quan hệ mua bán nguyên vật
liệu giữa xí nghiệp với những cá nhân, không có tài khoản tại ngân hàng, xí
nghiệp được trả hàng bằng tiền mặt.
III. TÍN DỤNG
BẰNG NGOẠI TỆ
Quyết định số 146-HĐBT quy định:
"Nếu cần vay ngoại tệ để nhập vật tư, phụ tùng cho sản xuất, xí nghiệp phải
lập phương án sản xuất kinh doanh cụ thể, kể cả việc tiêu thụ, xuất khẩu và
thanh toán ngoại tệ trình bộ trưởng Bộ chủ quản hoặc chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố duyệt và giao chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh.
Trong việc vay và sử dụng ngoại
tệ, xí nghiệp phải theo các chế độ của Nhà nước về quản lý ngoại tệ, về tín dụng
ngân hàng và xuất nhập khẩu; xí nghiệp phải bảo đảm sản xuất và kinh doanh có
lãi bằng ngoại tệ, thanh toán được số ngoại tệ đã vay (cả gốc lẫn lãi) và nộp
tích luỹ bằng ngoại tệ cho Nhà nước. Trường hợp bị lỗ, bộ trưởng Bộ chủ quản hoặc
chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch
Hội đồng bộ trưởng và phải tìm biện pháp điều tiết trong nội bộ của ngành hoặc
địa phương để hoàn lại số ngoại tệ đã vay, kể cả lãi cho ngân hàng".
Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ
thể thêm như sau:
1. Ngân hàng cho xí nghiệp vay
ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng , thiết bị lẻ để sản
xuất hàng hoá.
2. Muốn vay ngoại tệ, xí nghiệp
cần:
- Gửi đến Ngân hàng ngoại thương
phục vụ mình phương án sản xuất, tiêu thụ được cơ quan chủ quản (Bộ, Tổng cục,
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố) duyệt và ý kiến đề nghị của ngân hàng Nhà nước
cơ sở nơi xí nghiệp mở tài khoản chính;
- Có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
hợp lệ ký với đơn vị mua hàng trong nước thanh toán bằng ngoại tệ, hoặc với tổ
chức ngoại thương uỷ thác xuất khẩu ra nước ngoài;
- Bảo đảm trả nợ ngân hàng cả gốc
và lãi bằng ngoại tệ đúng hạn.
3. Thời hạn vay ngoại tệ được ấn
định theo phương án sản xuất, kinh doanh, bảo đảm một chu kỳ sản xuất, nhưng tối
đa không quá 12 tháng.
4. Ngân hàng cho vay ngoại tệ
theo tài khoản cho vay đơn giải. Kỳ hạn nợ được ấn định cho từng tháng theo sự
thoả thuận giữa ngân hàng và xí nghiệp. Toàn bộ số ngoại tệ thu bán hàng xí
nghiệp phải nộp vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ ở ngân hàng và được hưởng lãi
tiền gửi bằng ngoại tệ. Đến hạn trả nợ, ngân hàng trích tài khoản tiền gửi ngoại
tệ đủ thu nợ, số nợ không trả được của mỗi kỳ hạn được chuyển sang nợ quá hạn.
5. Lãi suất cho vay tính theo
lãi suất thị trường quốc tế của số ngoại tệ dùng để cho vay. Lãi nợ quá hạn
tính theo chế độ lãi suất vay ngoại tệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam .
6. Quyền sử dụng số ngoại tệ được
lãi trong quá trình kinh doanh của xí nghiệp được vận dụng theo điều 6 quyết định
số 113-HĐBT ngày 10-7-1982 của Hội đồng bộ trưởng: nộp tích luỹ ngoại tệ cho
Nhà nước 30% , còn 70% làm ngoại tệ tự có. Số ngoại tệ này (quyền sử dụng ngoại
tệ) được Ngân hàng ngoại thương mở cho xí nghiệp một tài khoản ngoại bảng để
theo dõi riêng. Việc sử dụng ngoại tệ chỉ nhằm phục vụ phát triển sản xuất,
không được dùng vào các mục đích khác.
7. Việc cho vay ngoại tệ do Ngân
hàng ngoại thương trung ương và các chi nhánh ngân hàng ngoại thương tại các tỉnh,
thành phố, đặc khu thực hiện theo kế hoạch Ngân hàng Nhà nước trung ương xét
duyệt và thông báo trên cơ sở kế hoạch cho vay do Ngân hàng ngoại thương xây dựng.
Các xí nghiệp được mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ và vay ngoại tệ ở một cơ sở
Ngân hàng ngoại thương thuộc khu vực được phân công.
IV. QUẢN LÝ
TIỀN MẶT VÀ KIỂM SOÁT QUỸ TIỀN LƯƠNG
1. Ngân hàng bảo đảm cung ứng đủ
tiền mặt cho xí nghiệp chi tiêu theo đúng mục đích, kế hoạch và phạm vi được sử
dụng tiền mặt đã được xác định và thoả thuận giữa xí nghiệp và và ngân hàng.
2. Xí nghiệp không được đem tiền
mặt từ tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác để chi tiêu, mà phải chuyển
tiền qua ngân hàng . Ngân hàng cơ sở nơi xí nghiệp chuyển tiền đến có trách nhiệm
cung ứng đủ, kịp thời tiền mặt cho xí nghiệp sử dụng phù hợp với quy định về quản
lý tiền mặt, thị trường và giá cả của Nhà nước.
3. Xí nghiệp phải nộp toàn bộ số
tiền mặt thu bán hàng vào Ngân hàng Nhà nước - những đơn vị có nhu cầu chi thu
mua thường xuyên, được phép để lại một số tiền mặt thu bán hàng để chi tại chỗ,
theo sự thoả thuận của ngân hàng.
Ngân hàng cơ sở giúp xí nghiệp
tính toán và quy định lại mức tồn quỹ tiền mặt cho phù hợp với tình hình thực tế,
theo đúng công văn hướng dẫn số 235-NH/CV ngày 14-11-1981 của Ngân hàng Nhà nước
trung ương.
4. Xí nghiệp đăng ký kế hoạch sản
xuất, kế hoạch lao động , tiền lương tại ngân hàng theo chế độ quy định.
Ngân hàng kiểm soát việc sử dụng
quỹ tiền lương theo mức thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản;
ngân hàng cung ứng tiền mặt để xí nghiệp chi tiền lương, tiền thưởng kịp thời
và tương ứng với khối lượng sản phẩm xí nghiệp hoàn thành. Ngân hàng từ chối
chi trả tiền lương, tiền thưởng nếu xí nghiệp chi vượt tỷ lệ hoàn thành kế hoạch
sản xuất, hoặc thưởng sai với Quyết định số 146-HĐBT và hướng dẫn của Bộ Lao động.
V. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN.
Thông tư này được áp dụng đối với
các xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc doanh (và công tư hợp doanh) thuộc các
ngành, các cấp (từ huyện, quận trở lên) quản lý theo đúng điểm 7 của Quyết định
số 146-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Những điểm quy định trong các
văn bản trước đây của Ngân hàng Nhà nước trái với văn bản này đều hết hiệu lực.
Trong quá trình thực hiện, có ý
kiến đề nghị bổ sung, hoặc sửa đổi, các Ngân hàng tỉnh, thành phố báo cáo về
Ngân hàng Trung ương kèm theo kiến nghị cụ thể để nghiên cứu giải quyết.
|
Nguyễn
Văn Trường
(Đã
ký)
|