BỘ
TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số: 3373/TCT-HTQT
V/v giải quyết hoàn thuế theo Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần.
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2009
|
Kính gửi: Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh.
Trả lời công
văn số 4542/CT-KTT2 ngày 11/6/2009 của Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh liên quan
đến giải quyết hồ sơ hoàn thuế theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (Hiệp định),
Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
1. Về địa
vị pháp lý các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi áp dụng Hiệp định:
Khoản
4, Điều 7, Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng
nước ngoài tại Việt Nam qui định:
“Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc ngân hàng mẹ, không có tư cách pháp
nhân theo pháp luật Việt Nam, được ngân hàng mẹ đảm bảo bằng văn bản về việc chịu
trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.”
Tại Điểm 2.1.1.2 (a), Mục II, Phần B, Thông tư số 133/2004/TT-BTC
ngày 31/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Hiệp định tránh đánh
thuế hai lần đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với
các nước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam hướng dẫn:
“Một doanh
nghiệp của một Nước ký kết sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông
qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp chủ yếu sau đây:
a) Doanh
nghiệp đó có tại Việt Nam: trụ sở điều hành, chi nhánh (như chi nhánh công ty
luật, chi nhánh văn phòng nước ngoài, chi nhánh các công ty thuốc lá, chi nhánh
ngân hàng,...”
Theo các hướng
dẫn trên, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam của các ngân hàng nước
ngoài được coi là cơ sở thường trú của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, trừ
trường hợp Hiệp định giữa Việt Nam với Nước cư trú của các ngân hàng nước ngoài
có quy định khác.
Khoản 1 và Khoản
2, Điều 5 - Cơ sở thường trú, Hiệp định Việt Nam - Pháp quy định:
“1. Theo
nghĩa trong Hiệp định này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một cơ sở
kinh doanh cố định qua đó xí nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động
kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ
“cơ sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
a) trụ
sở điều hành;
b) chi nhánh;...”
Căn cứ vào các hướng dẫn
và quy định nêu trên, chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam (Chi nhánh tại Việt Nam)
của các ngân hàng là đối tượng cư trú của Pháp (Ngân hàng mẹ) nói chung, các
Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh của Ngân hàng BNP Paribas SA và Ngân hàng
Natexis nói riêng, được coi là cơ sở thường trú của các Ngân hàng mẹ tại Việt
Nam.
2. Về việc áp dụng Hiệp
định Việt Nam - Pháp đối với thu nhập lãi tiền vay từ các khoản vay giữa Ngân
hàng mẹ là đối tượng cư trú của Pháp và các Chi nhánh tại Việt Nam:
Tại Hiệp định Việt Nam -
Pháp không có một điều khoản riêng về thu nhập lãi tiền vay, nên khoản thu nhập
này được coi là loại thu nhập khác và thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 20 -
Thu nhập khác.
Điều 20 - Thu nhập khác Hiệp
định Việt Nam - Pháp quy định:
“1. Những khoản thu nhập của
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết, bất kể phát sinh ở đâu, không được đề
cập đến tại các điều khoản trên của Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế ở Nước
này.
2. Các quy định của khoản
1 sẽ không áp dụng đối với những thu nhập khác với những thu nhập từ bất động sản
đã được quy định tại khoản 2 của điều 6, nếu đối tượng hưởng các thu nhập loại
này là đối tượng cư trú của một Nước ký kết tiến hành một hoạt động công nghiệp
hay thương mại tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú đóng tại đó,
hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông
qua một cơ sở cố định đóng tại đó, và nếu quyền hoặc tài sản làm phát sinh các khoản
thu nhập này có quan hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định này.
Trong trường hợp này, các quy định tại điều 7 hoặc điều 13, tuỳ từng trường hợp,
sẽ được áp dụng”.
Căn cứ quy định tại khoản
1 nêu trên, khoản lãi tiền vay (với tư cách là thu nhập khác) của Ngân hàng mẹ
(với tư cách là đối tượng cư trú của Pháp) sẽ chỉ bị đánh thuế tại Pháp. Nghĩa
là được miễn thuế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, căn cứ vào quy
định tại khoản 2 nêu trên, quy định của khoản 1 sẽ không được áp dụng nếu khoản
lãi tiền vay Ngân hàng mẹ (với tư cách là đối tượng thực hưởng khoản lãi tiền
vay và là đối tượng cư trú của Pháp) tiến hành hoạt động công nghiệp hay thương
mại tại Việt Nam thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam và nếu quyền hoặc
tài sản làm phát sinh các khoản thu nhập này có quan hệ thực tế với cơ sở thường
trú này. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 - Lợi tức doanh nghiệp sẽ
được áp dụng.
Căn cứ vào các nội dung
trên, nếu trong quá trình đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng vay giữa Ngân
hàng mẹ với Chi nhánh không tạo thành cơ sở thường trú hoặc không thông qua một
cơ sở thường trú của Ngân hàng mẹ tại Việt Nam thì lãi tiền vay thu được từ hoạt
động cho vay tại Việt Nam sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.
Trong trường hợp cụ thể này là Ngân hàng BNP Parisbas với Ngân hàng BNP Paribas
- chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng Natexis với Ngân hàng Natexis
- chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp trong quá trình
đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng vay giữa Ngân hàng mẹ và Chi nhánh có tạo
thành cơ sở thường trú hoặc thông qua một cơ sở thường trú của Ngân hàng mẹ tại
Việt Nam và nếu quyền hoặc tài sản làm phát sinh các khoản thu nhập này có quan
hệ thực tế với cơ sở thường trú này thì Ngân hàng mẹ phải nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với thu nhập thu được từ hoạt động cho vay tại Việt Nam theo
quy định tại Khoản 1, Điều 7 - Lợi tức doanh nghiệp của Hiệp định Việt Nam –
Pháp.
Khoản 1, Điều 7 - Lợi tức
doanh nghiệp Hiệp định Việt Nam – Pháp quy định:
“Lợi tức của một xí nghiệp
của một Nước ký kết chỉ chịu thuế tại Nước đó, trừ trường hợp xí nghiệp có tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại
Nước kia. Nếu xí nghiệp có hoạt động kinh doanh theo cách trên, thì các khoản lợi
tức của xí nghiệp có thể bị đánh thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi tức
phân bổ cho cơ sở thường trú đó.”
Để áp dụng Hiệp định theo
tinh thần trên, cần lưu ý một số điểm dưới đây:
Thứ nhất, mặc dù các Chi
nhánh là các cơ sở thường trú tại Việt Nam của các Ngân hàng mẹ, nhưng trên
phương diện quan hệ hợp đồng, quan hệ giữa Ngân hàng mẹ và Chi nhánh là quan hệ
của hai đối tác trong hợp đồng nên khi thực hiện hợp đồng này thì Ngân hàng mẹ
tiến hành giao dịch cho vay với Chi nhánh, không phải tiến hành giao dịch cho
vay thông qua Chi nhánh. Do đó, nếu quá trình đàm phán ký kết và thực hiện hợp
đồng vay giữa Ngân hàng mẹ và Chi nhánh được tiến hành trực tiếp giữa Ngân hàng
mẹ tại Pháp và Chi nhánh tại Việt Nam không thông qua một đối tượng thứ ba nào tại
Việt Nam (đối tượng thứ ba có thể là một đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng mẹ tại
Việt Nam hoặc một đối tượng không phải một đại lý độc lập tại Việt Nam - các đối
tượng này được minh hoạ trong các thí dụ dưới đây) thì khoản lãi tiền vay sẽ
không bị chịu thuế tại Việt Nam.
Thứ hai, khoản lãi tiền
vay phát sinh từ các hợp đồng vay là thu nhập của Ngân hàng mẹ và là chi phí của
Chi nhánh, không phải là thu nhập của Chi nhánh nên khoản lãi tiền vay này
không thể phân bổ với tư cách là thu nhập của Chi nhánh, trái lại phải được
phân bổ như chi phí của Chi nhánh theo quy định của Khoản 3, Điều 7 - Lợi tức
doanh nghiệp của Hiệp định Việt Nam – Pháp.
Khoản 3, Điều 7 - Lợi tức
doanh nghiệp Hiệp định Việt Nam – Pháp quy định:
“Để xác định lợi tức của một
cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép trừ các khoản chi phí phát sinh phục vụ
cho các hoạt động kinh doanh của cơ sở thường trú đó, bao gồm chi phí điều hành
và chi phí quản lý chung phát sinh tại Nước mà cơ sở thường trú này đóng hoặc bất
cứ nơi nào khác.”
Thứ ba, các giao dịch cho
vay giữa Ngân hàng mẹ và Chi nhánh sẽ được coi là tạo ra cơ sở thường trú hoặc
được thực hiện thông qua một cơ sở thường trú để từ đó khoản thu nhập lãi tiền
vay sẽ được phân bổ cho cơ sở thường trú đó và chịu thuế tại Việt Nam theo quy
định của Khoản 1, Điều 7 - Lợi tức doanh nghiệp của Hiệp định Việt Nam – Pháp
được minh hoạ qua các ví dụ dưới đây:
Ví dụ 1: Ngân hàng P là đối
tượng cư trú của Pháp và lập Chi nhánh PC tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu Ngân
hàng P thuê một luật sư cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh để đàm phán và ký kết
hợp đồng vay với Chi nhánh PC dưới tên của Ngân hàng P. Luật sư này dành toàn bộ
thời gian làm việc của mình để làm việc cho Ngân hàng P. Trong trường hợp này,
theo quy định của Khoản 5, Điều 5 - Cơ sở thường trú của Hiệp định Việt Nam –
Pháp, Ngân hàng P đã được coi là tạo ra một cơ sở thường trú tại Việt Nam trong
quá trình đàm phán hợp đồng vay với Chi nhánh PC. Do đó, theo quy định tại Khoản
1, Điều 7 - Lợi tức doanh nghiệp của Hiệp định Việt Nam – Pháp khoản lãi tiền
vay phát sinh từ hợp đồng vay giữa Ngân hàng P và Chi nhánh PC sẽ chịu thuế tại
Việt Nam trên phần lợi tức phân bổ cho cơ sở thường trú tại Việt Nam mà Ngân
hàng P được coi là đã tạo ra do tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng vay theo
cách thức trên. Cơ sở thường trú được coi là tạo ra này không phải là Chi nhánh
PC.
Ví dụ 2: Ngân hàng P là đối
tượng cư trú của Pháp và lập Chi nhánh PC tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời
mở một Văn phòng đại diện PV tại Hà Nội. Trong quá trình triển khai hợp đồng
vay ký kết giữa Ngân hàng P và Chi nhánh PC, Ngân hàng P đã giao cho Văn phòng
đại diện PV kiểm soát toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng vay (giải ngân,
thanh toán nợ và lãi tiền vay, ...). Trong trường hợp này, theo quy định của Khoản
1, Điều 5 - Cơ sở thường trú của Hiệp định Việt Nam – Pháp Ngân hàng P đã được
coi là tiến hành thực hiện hợp đồng vay qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam
(Văn phòng đại diện PV). Do đó, theo quy định tại Khoản 1, Điều 7 - Lợi tức
doanh nghiệp của Hiệp định Việt Nam – Pháp khoản lãi tiền vay phát sinh từ hợp
đồng vay giữa Ngân hàng P và Chi nhánh PC sẽ chịu thuế tại Việt Nam trên phần lợi
tức phân bổ cho cơ sở thường trú của Ngân hàng P (Văn phòng đại diện PV) có tại
Việt Nam.
3. Về mẫu đề nghị hoàn
thuế:
Theo hướng dẫn tại điểm 7, mục I, phần G, Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày
14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế
và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế (Thông tư số
60/2007/TT-BTC) thì:
“Hồ sơ hoàn thuế theo Hiệp
định gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế
theo Hiệp định theo Mẫu số 02/HTBT ban hành kèm theo Thông tư này đối với tổ chức,
cá nhân là đối tượng cư trú của nước ngoài hoặc theo Mẫu số 03/HTBT ban hành
kèm theo Thông tư này đối với tổ chức, cá nhân là đối tượng cư trú của Việt
Nam.”
Theo hướng dẫn tại Phần C,
Thông tư số 128/2008/TT-BTC ngày 24/12/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thu và
quản lý các khoản thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước (Thông tư số
128/2008/TT-BTC) thì:
“thay thế mẫu giấy đề nghị
hoàn thuế, phí (mẫu số 01/HTBT), Quyết định hoàn thuế (mẫu số 04/HTBT) ban hành
theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính.”
Căn cứ vào quy định nêu
trên của Thông tư số 128/2008/TT-BTC thì Mẫu số 02/HTBT và Mẫu số 03/HTBT ban
hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC không bị thay thế.
Do đó, trường hợp người nộp
thuế đề nghị hoàn thuế theo Hiệp định thì trong hồ sơ hoàn thuế gửi cơ quan thuế
vẫn bao gồm văn bản đề nghị hoàn thuế theo Hiệp định theo Mẫu số 02/HTBT hoặc Mẫu
số 03/HTBT ban hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC.
Tổng cục Thuế thông báo để
Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh biết và thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu
có phát sinh vướng mắc, đề nghị Cục Thuế liên hệ với Tổng cục Thuế (Ban Hợp tác
quốc tế, ĐT: (04) 39712287) để được hướng dẫn chi tiết.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Các Ban: PC, CS, HT, TTTĐ, KK;
- Lưu: VT, HTQT (3b).
|
KT.
TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG
Lê Hồng Hải
|