UỶ
BAN BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM VIỆT NAM
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
322-UB/TT
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 7 năm 1994
|
THÔNG TƯ
UỶ BAN BẢO VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM VIỆT NAM SỐ 322/TT-UB NGÀY
4 THÁNG 7 NĂM 1994 VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 38 CT/TW CỦA BAN BÍ THƯ TRUNG
ƯƠNG ĐẢNG
Ngày 30-5-1994, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị số 38 CT/TW về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em. Đây là điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh công tác bảo vệ và chăm sóc
trẻ em.
I. UỶ BAN BẢO
VỆ VÀ CHĂM SÓC TRẺ EM CÁC CẤP CẦN QUÁN TRIỆT YÊU CẦU:
+ Làm cho mọi ngành, mọi cấp, xã
hội, gia đình biết được và thấm nhuần ý nghĩa, yêu cầu, nội dung Chỉ thị 38
CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng đối với vấn đề của trẻ em. Tăng cường sự liên kết phối hợp hành động giữa
các cấp chính quyền, đoàn thể, nhân dân và gia đình, tạo ra được môi trường
chăm sóc giáo dục trẻ em từ cơ sở nhằm đạt được các kết quả cụ thể theo yêu cầu
của Ban Bí thư:
1- Giảm tỷ lệ tử
vong của trẻ sơ sinh xuống 1/3.
2- Giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng của trẻ xuống 1/3 vào năm 1995 và 1/2 vào năm 2000.
3- Thực hiện
80% trẻ em trong độ tuổi phổ cập giáo dục tiểu học, 20% phổ cập giáo dục tối
thiểu (hết lớp 3) vào năm 1995 và 90% phổ cập giáo dục tiểu học và 10% phổ cập
giáo dục tối thiểu vào năm 2000.
4- 30% cấp huyện,
quận có điểm vui chơi vào năm 1995, 50% cấp huyện, quận có điểm vui chơi vào năm
2000.
5- Giảm những
tác động xấu của văn hoá, nếp sống không lành mạnh đến trẻ em. Giảm số trẻ em
làm trái pháp luật và có nguy cơ phạm pháp.
6- 30% trẻ em đặc
biệt khó khăn được chăm sóc vào năm 1995, 70% vào năm 2000.
2. Để thi
hành Chỉ thị của Ban Bí thư, Uỷ ban và các cơ quan thành viên của Uỷ ban tiến
hành một số việc như sau:
2.1. Tổ chức nghiên cứu, tuyên
truyền hướng dẫn, tập huấn cán bộ dưới nhiều hình thức để quán triệt chỉ thị.
Làm rõ vai trò lãnh đạo của các
cấp uỷ Đảng, việc tổ chức phối hợp hành động của các ngành, các đoàn thể và
trách nhiệm, sự nỗ lực của mọi lực lượng xã hội, của từng gia đình để tăng thêm
nguồn cho sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Có kế hoạch tuyên truyền thường
xuyên về chỉ thị, kết quả thực hiện chỉ thị, Công ước quốc tế về quyền trẻ em,
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật phổ cập giáo dục tiểu học và các
luật khác có liên quan đến trẻ em. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của
các phương tiện truyền thông hiện có thuộc hệ thống Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em (các báo, tạp chí, các chương trình phát thanh và truyền hình vì trẻ em)
của trung ương và một số địa phương; đồng thời có các trang và bài dành cho
chuyên mục vì trẻ em trên các phương tiện truyền thông của trung ương và các địa
phương. Khuyến khích nhiều hình thức giáo dục kiến thức nuôi dạy con thể hiện bằng
tranh, ảnh, sách bỏ túi, băng hình, tiếng nói, chữ viết bằng tiếng dân tộc cho
các bậc cha mẹ. Biểu dương kịp thời thường xuyên người tốt, việc tốt (kể cả trẻ
em) trong công tác chăm sóc trẻ em.
2.2. Tham mưu đề xuất để cấp uỷ
quyết định một số chủ trương biện pháp về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em phù
hợp với điều kiện của địa phương. Soát lại các mục tiêu, các biện pháp, các
chính sách nhằm thực hiện chương trình hành động vì trẻ em của địa phương, đề
nghị Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân ra nghị quyết về việc thực hiện
chương trình hành động vì trẻ em. Phối hợp chặt chẽ với Ban Khoa giáo, Tuyên
giáo và một số ngành, đoàn thể liên quan như Y tế, Giáo dục - Đào tạo, Văn hoá
- Thông tin, Lao động-Thương binh - Xã hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... trong quá trình tiến hành. Xây dựng
kế hoạch hành động và cân đối ngân sách cho chương trình trẻ em ở từng ngành, từng
địa phương, cơ sở năm 1994, năm 1995 và đến năm 2000, trên cơ sở phân định rõ
trách nhiệm của các ngành thành viên chủ chốt trong Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em. Trên cơ sở đó ký kết liên tịch hành động giữa Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc
trẻ em với từng sở, từng đoàn thể hoặc với nhiều sở, nhiều đoàn thể nhằm từng
bước đạt được mục tiêu trước mắt trong yêu cầu của Chỉ thị. Cụ thể:
- Ngành Y tế có trách nhiệm
chính trong việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
của bà mẹ và trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, chăm lo việc phục hồi chức
năng cho trẻ khuyết tật. Phối hợp với Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em và ngành
giáo dục, các đoàn thể bồi dưỡng rộng rãi kiến thức chăm sóc sức khoẻ trẻ em
cho các thành viên trong gia đình và lực lượng công tác xã hội, tình nguyện vì
trẻ em ở cơ sở.
- Ngành Giáo dục và Đào tạo có
trách nhiệm chính trong việc tổ chức các hình thức đa dạng hoá các loại trường
lớp để phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục tối thiểu (hết lớp 3) cho trẻ em trong
độ tuổi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; phối hợp với ngành Văn hoá,
Đoàn thanh niên và gia đình tăng cường công tác giáo dục đạo đức, nếp sống cho
học sinh; phối hợp với ngành Y tế, Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, các đoàn
thể để mở rộng nhiều hình thức tập huấn ngắn ngày cho giáo viên, cán bộ, lực lượng
tình nguyện tại thôn bản tham gia xoá mù chữ và phục hồi chức năng cho trẻ em.
- Ngành Văn hoá - thông tin, các
Hội Văn học nghệ thuật phối hợp với Đoàn thanh niên xây dựng các điểm văn hoá
vui chơi cho trẻ em. Đối với những nơi chưa có điều kiện xây dựng mới cần có cơ
chế sử dụng các nhà văn hoá sẵn có để phục vụ cho yêu cầu sinh hoạt văn hoá của
trẻ em hiện nay. Có biện pháp, chính sách khuyến khích các cuộc thi sáng tác,
xuất bản các tác phẩm hay, sản xuất các đồ chơi cho trẻ em. Phối hợp với các lực
lượng, gia đình chủ động ngăn ngừa, đấu tranh chống ảnh hưởng của văn hoá phẩm
độc hại xâm nhập vào trẻ em.
- Ngành Thể dục - thể thao có kế
hoạch chủ động phối hợp với Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em và Hội đồng Đội
thiếu niên tiền phong các cấp tổ chức nhiều hình thức thể dục thể thao quần
chúng từ cơ sở để thu hút trẻ em vào hoạt động thường xuyên, rèn luyện thân thể
khoẻ mạnh, nhất là vào dịp hè và các ngày kỷ niệm lịch sử.
- Ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội xây dựng và thực hiện chính sách chăm sóc các trẻ em đặc biệt khó
khăn. Phối hợp với Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em và đoàn thể các cấp để có kế
hoạch giải quyết tình trạng trẻ em lang thang kiếm sống, trước mắt ưu tiên tập
trung giải quyết ở những địa bàn trọng điểm, các nơi du lịch, bến phà, bến
xe... từng bước chăm sóc các đối tượng trẻ em bị thiệt thòi, khuyết tật ở từng
địa phương, cơ sở.
- Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông
dân, Liên đoàn lao động, Hội đồng Đội Trung ương phát huy, nhân rộng các biện
pháp, các điển hình tiên tiến của gia đình trong việc giáo dục "nuôi con
khoẻ, dạy con ngoan", xây dựng các tập quán, nếp sống lành mạnh.
Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em
Việt Nam sẽ cùng các ngành, đoàn thể bàn bạc thống nhất biện pháp thực hiện sự
liên kết phối hợp, ban hành thông tư liên tịch, cam kết hợp đồng trách nhiệm để
thực hiện tốt hơn các nội dung công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phối hợp với
các ngành nội chính nghiên cứu, đề nghị bổ sung sửa đổi các điểu khoản luật pháp,
các chính sách liên quan đến trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em vị thành niên;
xử lý ngay các vụ tồn đọng đối với các hành vi vi phạm quyền trẻ em hoặc lợi dụng,
lôi kéo, xúi giục trẻ em làm trái pháp luật.
2.3. Chỉ đạo thực hiện
"Tháng hành động vì trẻ em" hàng năm từ 15-5 đến 30-6. Tập trung vào
công tác truyền thông vận động xã hội. Tổ chức các hoạt động thiết thực để tạo
ra phong trào "Toàn dân chăm sóc, giáo dục trẻ em" phù hợp với tình
hình cụ thể của từng địa phương, cơ sở. Tổ chức gây quỹ để hỗ trợ cho các đối
tượng trẻ em khó khăn và các vùng khó khăn.
2.4. Trình Chính phủ quyết định
việc ban hành nghị định mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của
Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam. Kiện toàn tổ chức Uỷ ban các cấp, rà
soát lại số lượng và chất lượng của các thành viên uỷ ban, tiếp tục hình thành
Ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở cấp cơ sở. Kiện toàn đủ số lượng, đủ chức danh
của bộ máy chuyên trách Uỷ ban cấp tỉnh theo hướng tinh gọn, bảo đảm cán bộ có
nghiệp vụ cần thiết để quản lý điều phối các lĩnh vực công tác trẻ em.
Xây dựng chương trình, nội dung
và có kế hoạch tập huấn hàng năm để nâng cao năng lực cho hệ thống cán bộ Uỷ
ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Trong khi Chính phủ chưa ban
hành nghị định mới, Nghị định 362/HĐBT vẫn có giá trị thực hiện. Vì vậy, các tỉnh
cần làm việc với chính quyền để thống nhất việc bố trí cán bộ chuyên trách công
tác Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em cấp huyện, xoá "huyện trắng" về
cán bộ chuyên trách công tác uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em trong năm 1994.
Phấn đấu để có Ban Bảo vệ và chăm sóc, trẻ em ở 100% xã, phường và cuối năm
1995 đạt 50% số xã, phường có người chuyên trách công tác trẻ em.
Mỗi cấp có một điểm chỉ đạo việc
thực hiện các mục tiêu vì trẻ em và xây dựng phong trào "Toàn dân chăm
sóc, giáo dục trẻ em". Từ đó, rút kinh nghiệm cho công tác chỉ đạo và điều
chỉnh kế hoạch từng thời gian. Các địa phương tiến hành nề nếp cuộc gặp mặt
"Những người yêu trẻ" để khuyến khích phong trào "người tốt, việc
tốt" trong mỗi cơ sở và toàn xã hội. Chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em, thường xuyên kiểm điểm kết quả thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương.
2.5. Trong phản ánh, báo cáo
tình hình định kỳ hàng quý, 6 tháng, hàng năm (vào dịp 1 tháng 6) có báo cáo kiểm
điểm sơ kết tình hình thực hiện Chỉ thị số 38/CT-TW ở Trung ương và địa phương.
|
Trần
Thị Thanh Thanh
(Đã
ký)
|