THÔNG TƯ
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SỐ 01-GD/ĐT NGÀY 3 THÁNG 2 NĂM
1997 HƯỚNG DẪN VIỆC DẠY HỌC TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ngày 22-02-1980 Hội đồng Chính
phủ (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 53/CP về "Chủ
trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số".
Ngày 16-8-1991 Nhà nước ban hành
Luật phổ cập giáo dục tiểu học, tại điều 4 có ghi: Giáo dục tiểu học được thực
hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết
của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học".
Để thực hiện có kết quả các chủ
trưởng nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn một số điểm cụ thể sau đây:
1.Một số
nguyên tắc chung:
- Thực hiện Luật phổ cập giáo dục
tiểu học, trước hết triển khai dạy học môn tiếng dân tộc (bao gồm tiếng nói, chữ
viết) trong các trường lớp mẫu giáo, các trường tiểu học, các lớp xoá mù chữ và
bổ túc văn hoá tại các vùng dân tộc thiểu số. Việc dạy học tiếng, chữ dân tộc cần
căn cứ vào chương trình và kế hoạch dạy học của các loại trường, lớp nói trên.
- Việc dạy học tiếng dân tộc phải
thực hiện theo những bước đi vững chắc, sau khi đã đảm bảo các điều kiện: được
HĐND, UBND tỉnh và thành phố đề nghị tiến hành giảng dạy, đã có chương trình và
tài liệu, có đủ giáo viên và cơ sở vật chất. ở những nơi đang tiến hành dạy học
tiếng dân tộc cần củng cố các điều kiện trên để việc giảng dạy được liên tục và
có chất lượng.
- Ở những cơ sở dạy tiếng dân tộc,
tiếng dân tộc được giảng dạy như một môn học, bình đẳng với các môn học khác
trong nhà trường nhằm mục đích giúp người học tiếp thu nhanh, thuận lợi các kiến
thức được truyền đạt bằng tiếng dân tộc và tiếng phổ thông, góp phần bảo tồn và
phát triển tiếng nói, chữ viết và vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu
số.
Đa dạng hoá các hình thức dạy học
tiếng dân tộc. Người học có thể lựa chọn việc học tập thích hợp: học ở trường,
học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ, học tiếng dân tộc sau khi đã học
xong bậc tiểu học... Mở các lớp học xoá mù chữ cho người lớn tuổi ở các thôn ấp,
làng bản, các lớp học tiếng dân tộc buổi chiều, buổi tối... Dù dạy học theo
hình thức nào, nhất thiết phải thực hiện theo nội dung chương trình và tài liệu
dạy học do ngành giáo dục quy định.
2. Một số việc
làm cụ thể trước mặt:
a) Xây dựng chương trình bộ môn
tiếng dân tộc, biên soạn sách giáo khoa và tài liệu dạy học cần thiệt.
Dựa vào loại hình chữ viết, cấu
tạo âm - vần và điều kiện học tập của học sinh để xây dựng chương trình, kế hoạch
dạy học, biên soạn sách tiếng dân tộc cho phù hợp với mục tiêu của môn học là dạy
cho người học biết đọc, biết viết tương đối thành thạo và vững chắc tiếng dân tộc.
- Đối với các thứ chữ theo hệ la
tinh thì bộ môn tiếng dân tộc được bắt đầu dạy từ lớp 3, sau khi học sinh đã học
xong và nắm được bộ vần quốc ngữ để tránh tình trạng học sinh nhỏ tuổi ở lớp 1
và 2 phải học hai bộ vần trong cùng một lúc.
- Đối với chữ viết cổ truyền
(Hoa, Khơ Me, Chăm, Thái) do hệ thống ký hiệu chữ viết, cách cấu tạo âm - vần
khác với chữ quốc ngữ, việc thanh toán bộ vần đòi hỏi nhiều thời gian nên có thể
triển khai dạy từ lớp 1 để sau khi học xong tiểu học, học sinh biết đọc, biết
viết tiếng mẹ đẻ tương đối thành thạo.
- Môn học tiếng dân tộc được đưa
vào kế hoạch dạy học chung: ở tiểu học, mỗi tuần dạy 4 tiết. Các trường, lớp có
dạy môn tiếng dân tộc nhất thiết phải đảm bảo yêu cầu và thực hiện theo phân phối
chương trình, học sinh được kiểm tra đánh giá, ghi kết quả học tập vào sổ điểm
và học bạ như các môn học khác.
- Tiến hành chỉnh lý, biên soạn
sách giáo khoa tiếng dân tộc cho phù hợp với nội dung chương trình và kế hoạch
dạy học theo quy định.
- Các loại chương trình bộ môn
tiếng dân tộc phải được Hội đồng cấp Bộ thẩm định và ban hành chính thức. Các
loại sách giáo khoa và tài liệu dạy học tiếng dân tộc được in đẹp, nhiều màu sắc
và phát miễn phí cho học sinh. Trước mắt, tiến hành xây dựng chương trình bộ môn
tiếng Chăm, tiếng Khơ Me, Thái, Tày, Nùng và các thứ tiếng Ê đê, Gia Rai, Ba
Na, Xê Đăng, K'ho ở các tỉnh Tây Nguyên; tiến hành đánh giá và thẩm định chương
trình môn tiếng Hoa đã được áp dụng từ năm học 1989-1990 tại Thành phố Hồ Chí
Minh, tiếp tục biên soạn sách giáo khoa chữ Hoa cho hoàn chỉnh từ lớp 1 đến lớp
9 như đã quy định; triển khai giảng dạy chữ H'mông theo chương trình và sách
giáo khoa mới được biên soạn tại các tỉnh có đông người Hmông cư trú; tiến hành
chỉnh lý hoặc biên soạn lại các bộ sách giáo khoa chữ dân tộc cho phù hợp với
chương trình tiểu học.
b) Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên dạy tiếng dân tộc.
- Trên cơ sở chương trình, kế hoạch
và nội dung dạy học các thứ tiếng dân tộc cụ thể, các địa phương tiến hành đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên. Trong kế hoạch đào tạo, cần tuyển chọn người địa
phương, người dân tộc thiểu số có kiến thức nhất định, hiểu biết về tiếng và chữ
dân tộc vào học ở các trường sư phạm để sau khi đào tạo, họ có thể về công tác
ngay tại địa phương. Nội dung đào tạo phải chú trọng đến năng lực giảng dạy hai
thứ tiếng: tiếng phổ thông và tiếng dân tộc. Định kỳ hàng năm có tổ chức bồi dưỡng
giáo viên để nâng cao trình độ về tiếng, chữ dân tộc, về phương pháp giảng dạy
song ngữ thông qua các hội thảo, sinh hoạt chuyên đề...
- Các Sở Giáo dục - Đào tạo phải
tiến hành quy hoạch, xây dựng kế hoạch chỉ tiêu và giao cho các trường sư phạm
mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc và dạy song ngữ.
Chương trình đào tạo của các trường sư phạm cần được bổ sung các nội dung thích
ứng như đặc điểm lịch sử, văn hoá, tiếng nói, chữ viết dân tộc và phương pháp
giảng dạy bộ môn tiếng dân tộc và song ngữ.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ từng
bước nghiên cứu hình thành các trung tâm bồi dưỡng tiếng và chữ dân tộc ở mỗi vùng
để đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo và giảng dạy tiếng, chữ
dân tộc làm lực lượng nòng cốt cho các địa phương.
- Giáo viên ở các vùng dân tộc
giảng dạy chương trình và sách giáo khoa tiếng dân tộc do Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định thì được hưởng thêm một khoản phụ cấp trách nhiệm nhằm khuyến khích
giáo viên học tập, nâng cao trình độ ngôn ngữ và năng lực sư phạm. Về mức phụ cấp
cụ thể, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ bàn bạc cùng với liên bộ. Tuỳ điều kiện cụ thể
của mỗi tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết
định khoản phụ cấp cho thích hợp.
c) Xác định mức độ dạy học tiếng
dân tộc:
- Trong bậc giáo dục mầm non:
Ở các lớp mẫu giáo vùng dân tộc
thiểu số, việc dạy học được tiến hành chủ yếu bằng tiếng dân tộc. Đối với các lớp
mẫu giáo lớn tuổi, thông qua chương trình dạy học, bằng các hình thức ngôn ngữ
giao tiếp, giới thiệu thơ ca dân gian bằng tiếng dân tộc cho các em; bên cạnh
đó cần chú trọng dạy tập nói tiếng Việt để giúp các em chuyển sang học lớp 1 được
thuận lợi.
- Trong bậc giáo dục phổ thông:
Ở bậc tiểu học, dạy cho học sinh
biết đọc, biết viết tương đối thành thạo và vững chắc chữ viết dân tộc nhằm
giúp các em có cơ sở ban đầu để tự học, tự nâng cao trình độ về tiếng nói, chữ
viết mẹ đẻ sau này.
- Trong ngành học giáo dục thường
xuyên:
Ngành học giáo dục thường xuyên
cần nhanh chóng tạo ra các điều kiện cần thiết để đưa tiếng dân tộc vào việc
xoá mù chữ cho người dân tộc thiểu số. Trước hết tiến hành xoá mù chữ dân tộc
cho các đối tượng lớn tuổi không có điều kiện xoá mù chữ bằng chữ quốc ngữ. Sau
xoá mù chữ cần có các tài liệu đọc thêm bằng chữ dân tộc để củng cố và nâng cao
thêm vốn hiểu biết tiếng và chữ mẹ đẻ cho họ.
Với các đối tượng là cán bộ xã, bản,
thôn ấp và thanh niên từ 15 - 25 tuổi sau khi được xoá mù chữ và bổ túc văn hoá
bằng tiếng và chữ phổ thông, khuyến khích họ học thêm chữ dân tộc để sử dụng
trong công tác và trong đời sống tại địa phương.
- Ngoài việc giảng dạy trong nhà
trường, tiếng và chữ dân tộc cần được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội địa
phương vùng dân tộc thiểu số thông qua các phương tiện truyền thanh, truyền
hình, xuất bản các loại sách báo địa phương...
3. Tổ chức
thực hiện:
Việc tổ chức dạy học tiếng dân tộc
cùng với tiếng phổ thông trong nhà trường là một chủ trương lớn. Bộ sẽ tăng cường
công tác nghiên cứu và chỉ đạo việc dạy học cũng như việc biên soạn chương
trình, sách giáo khoa, tài liệu, đồ dùng giảng dạy và đào tạo giáo viên. Để thực
hiện có kết quả công tác này, Bộ giao cho:
- Viện Khoa học giáo dục (Trung
tâm Giáo dục dân tộc) chủ trì phối hợp cùng các cơ quan chức năng của Bộ và các
tỉnh tổ chức xây dựng chương trình bộ môn tiếng dân tộc dùng trong các trường
tiểu học, các lớp xoá mù chữ vùng dân tộc thiểu số. Bộ sẽ tiến hành xét duyệt để
ban hành chính thức.
- Nhà Xuất bản Giáo dục phối hợp
với Viện Khoa học Giáo dục, Vụ Giáo dục Tiểu học, Vụ Giáo viên và các địa
phương tổ chức biên soạn sách giáo khoa tiếng dân tộc, sách hướng dẫn giảng dạy
và các tài liệu dạy học cần thiết theo thể thức quy định về sách giáo khoa
chung; phối hợp với các cơ quan khác như Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển...
để xây dựng từ điển, sách ngữ pháp cho các tiếng dân tộc dùng trong trường học.
- Vụ Giáo dục tiểu học tiến hành
việc chỉ đạo, hướng dẫn các tỉnh, thành phố thực hiện chương trình dạy học tiếng
dân tộc trong các trường tiểu học, bổ sung vào sổ điểm và học bạ phần bộ môn tiếng
dân tộc.
- Vụ Giáo dục Mần non phối hợp với
Viện Khoa học Giáo dục xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu dạy học tiếng
dân tộc, hàng năm tiến hành chỉ đạo việc thực hiện chương trình trong các trường,
lớp mẫu giáo vùng dân tộc.
- Vụ Giáo dục thường xuyên tiến
hành việc chỉ đạo và hướng dẫn các tỉnh, thành phố xây dựng và thực hiện kế hoạch
xoá mù chữ và bổ túc văn hoá bằng tiếng dân tộc cho các đối tượng như đã hướng
dẫn.
- Vụ Giáo viên phối hợp với các
tỉnh để tiến hành xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo giáo viên dạy tiếng
dân tộc và dạy song ngữ trong các trường sư phạm vùng dân tộc; cùng các Vụ Kế
hoạch Tài chính và Tổ chức Cán bộ xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng giáo viên
dạy tiếng dân tộc hàng năm; tiến hành nghiên cứu chế độ chính sách đối với giáo
viên dạy tiếng dân tộc và song ngữ phù hợp.
- Sở Giáo dục - Đào tạo các tỉnh,
thành phố có đồng bào dân tộc thiểu số chịu trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan chức năng của Bộ để cụ thể hoá xây dựng chương trình cho phù hợp với từng
thứ tiếng và biên soạn tài liệu, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc;
xây dựng kế hoạch hàng năm về việc dạy tiếng dân tộc đối với các ngành học
trong tỉnh và thành phố, tính toán các nhu cầu kinh phí; phối hợp với các cơ
quan liên quan khác (Văn hoá, Thông tin, Khoa học Kỹ thuật...) để tăng cường sử
dụng tiếng dân tộc trong đời sống. Mỗi tỉnh, thành phố cần có tổ chức theo dõi,
chỉ đạo (Phòng Chữ dân tộc, hoặc tổ, nhóm...) giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo
được kết quả.
Để việc sử dụng tiếng nói và chữ
viết các dân tộc thiểu số được phát triển rộng rãi và vững chắc, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đề nghị các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và các tỉnh, thành phố
tăng cường việc tuyên truyền và sử dụng tiếng dân tộc trong đời sống, tăng cường
việc giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, làm phong phú thêm nền văn hoá của cả
nước; đề nghị các cấp chính quyền, các cơ quan giáo dục, các trường học thực hiện
tốt Thông tư này.
Thông tư này thay thế cho Thông
tư 14/TT ngày 12/4/1962 của Bộ Giáo dục hướng dẫn thực hiện Nghị định 206/CP của
Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong các trường lớp phổ thông và xoá mù trữ; Thông
tư 19/TT ngày 18/2/1972 của Bộ Giáo dục hướng dẫn thực hiện Quyết định 153/CP của
Chính phủ về dạy chữ dân tộc trong ngành giáo dục.