BỘ
TƯ PHÁP-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
981/TTLN
|
Hà
Nội , ngày 21 tháng 9 năm 1993
|
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
CỦA BỘ TƯ PHÁP, TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO SỐ 981/1997/TTLN-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 21 THÁNG 9 NĂM 1993 HƯỚNG DẪN
THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Để thi hành thống nhất một số
quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:
I- VIỆC CẤP,
CHUYỂN GIAO BẢN SAO BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
1. Đối với bản án, quyết định
tuy chưa có hiệu lực nhưng được thi hành theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều
4 của Pháp lệnh thì Toà án có trách nhiệm chuyển giao bản sao bản án, quyết định
trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó cho cơ quan thi
hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm, mà không phân biệt bản án, quyết
định đó có bị kháng cáo, kháng nghị hay không.
Khi người được thi hành án, người
có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án yêu cầu, thì Toà án cấp cho họ
bản sao bản án, quyết định đó.
2. Trong các bản án, quyết định
của Toà án đều có phần quyết định về án phí. Do đó, Toà án phải chuyển giao đầy
đủ bản sao bản án, quyết định được thi hành cùng với bản sao biên bản kê biên,
tạm giữ tài sản kèm theo tang vật, (nếu có) cho cơ quan thi hành án. Trong trường
hợp Toà án chưa chuyển giao đầy đủ các loại giấy tờ và tang vật nói trên, thì
cơ quan thi hành án yêu cầu Toà án chuyển giao đủ. Trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án phải thực hiện yêu cầu đó.
3. Trong trường hợp bản án, quyết
định sơ thẩm của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà
án chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ
tài sản, mỗi loại hai bản, kèm theo tang vật (nếu có) cho Toà án đã xét xử sơ
thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã
xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định phúc
thẩm, một bản sao bản án, quyết định sơ thẩm cùng với bản sao biên bản kê biên,
tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho cơ quan thi hành án.
4. Trong trường hợp bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm, Toà án đã xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chuyển giao bản sao bản án,
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, mỗi loại hai bản, cho Toà án đã xét xử sơ
thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã
xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm cho cơ quan thi hành án.
5. Đối với bản án, quyết định sơ
thẩm đồng thời là chung thẩm, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra bản
án, quyết định, Toà hình sự hoặc Toà dân sự của Toà án nhân dân tối cao đã xét
xử vụ án chuyển giao bản sao bản án, quyết định đó cùng với bản sao biên bản kê
biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành án tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi mở phiên toà sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.
Đối với bản án hình sự sở thẩm đồng
thời là chung thẩm của Toà án quân sự Trung ương có phần quyết định về tài sản
thì Toà án quân sự Trung ương chuyển giao bản sao bản án đó cùng với bản sao
biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành
án quân khu và tương đương nơi mở phiên toà sở thẩm đồng thời là chung thẩm.
6. Sau khi nhận được bản sao bản
án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận bản
án, quyết định và phân loại để xử lý như sau:
a) Đối với phần quyết định của bản
án, quyết định thuộc trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi
hành, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành hoặc uỷ thác
cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành;
b) Đối với phần quyết định của bản
án, quyết định được thi hành theo đơn yêu cầu, thì cơ quan thi hành án vào sổ
theo dõi; khi có đơn yêu cầu thi hành án thì ra quyết định thi hành hoặc uỷ
thác cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành.
7. Khi cấp bản sao bản án, quyết
định cho các đương sự, Toà án không được thu lệ phí giấy tờ đối với bản sao đầu
tiên; từ bản sao thứ hai, Toà án được thu lệ phí giấy tờ theo mức quy định của
Chính phủ.
II- VIỆC THI
HÀNH VỀ ÁN PHÍ
1. Đối với khoản án phí mà đương
sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì cơ quan thi hành án căn cứ vào bản án, quyết
định của Toà án được thi hành có liên quan đến số tiền đó để thi hành án.
2. Đối với khoản án phí và đương
sự chưa nộp tiền tạm ứng án phí, thì cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện
pháp để thu án phí.
3. Đối với khoản án phí chưa thể
thu được thì cơ quan thi hành án lập sổ theo dõi riêng, ghi rõ lý do từng trường
hợp; khi có điều kiện thi hành án thì phải thu ngay án phí.
III- VIỆC NHẬN
TIỀN, TÀI SẢN ĐƯỢC NỘP TRƯỚC KHI TOÀ ÁN THỤ LÝ, XÉT XỬ VỤ ÁN
Việc nhận tiền, tài sản do đương
sự, bị cáo hoặc người khác nộp trước khi Toà án thụ lý, xét xử vụ án được thực
hiện như sau:
1. Trong trường hợp pháp luật
quy định các đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án dự tính, ghi số
tiền phải nộp và hướng dẫn họ đến nộp cho cơ quan thi hành án cùng cấp. Cơ quan
thi hành án nhận tiền và cấp hai biên lại nhận tiền để họ giữ một biên lai và nộp
cho Toà án một biên lại đưa vào hồ sơ.
2. Trong trường hợp trước khi
xét xử, đương sự, bị cáo hoặc người khác nộp tiền bồi thường thiệt hai, tiền
thu lợi bất chính... thì Toà án hướng dẫn họ đến nộp cho cơ quan thi hành án
cùng cấp. Cơ quan thi hành án nhận tiền và cấp hai biên lai nhận tiền để họ giữ
một biên lai và nộp cho Toà án một biên lại đưa vào hồ sơ.
Trong trường hợp nhận tài sản
không phải là tiền, thì cơ quan thi hành án lập biên bản ghi tình trạng, chất
lượng tài sản và cấp hai bản sao biên bản đó để họ giữ một bản sao và nộp cho
Toà án một bản sao đưa vào hồ sơ.
3. Cơ quan thi hành án phải lập
sổ riêng theo dõi việc nhận tiền, tài sản do đương sự, bị cáo hoặc người khác nộp
trước khi Toà án thụ lý, xét xử. Việc gửi, quản lý tiền, tài sản đó phải thực
hiện theo quy định của Nhà nước.
4. Khi bản án, quyết định của
Toà án được thi hành. Việc xét xử số tiền, tài sản đã nộp trước khi Toà án thụ
lý, xét xử vụ án được thực hiện theo phần quyết định của bản án, quyết định có
liên quan đến số tiền, tài sản đó.
IV- GIẢI
THÍCH NHỮNG ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ VIỆC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI BẢN
ÁN, QUYẾT ĐỊNH CÓ SAI LẦM
1. Khi cấp bản sao bản án, quyết
định cho đương sự, Toà án phải giải thích cho người được thi hành án biết quyền
làm đơn yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án và các vấn đề khác có liên
quan đến việc thi hành án.
2. Khi ra quyết định thi hành án
hoặc trong quá trình thi hành án, nếu cơ quan thi hành án thấy trong bản án,
quyết định có những điểm chưa rõ, có sai sót về số liệu do tính toán không
đúng, thì cơ quan thi hành án gửi văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định
đó giải thích những điểm chưa rõ, đính chính sai, sót.
Toà án đã ra bản án, quyết định
có trách nhiệm giải thích những điểm chưa rõ, đính chính sai, sót và trả lời bằng
văn bản cho cơ quan thi hành án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được văn bản yêu cầu.
Khi giải thích những điểm chưa
rõ, đình chính sai, sót về số liệu, Toà án không được sửa đổi, bổ sung bản án,
quyết định.
3. Khi ra quyết định thi hành án
hoặc trong quá trình thi hành án, nếu cơ quan thi hành án phát hiện thấy bản
án, quyết định được thi hành có sai lầm, thì có quyền kiến nghị với người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tố tụng xét xử lại bản án, quyết định đó.
V- VIỆC XỬ LÝ
CÁC KHOẢN TIỀN, TÀI SẢN TỒN ĐỌNG
Việc xử lý các khoản tiền, tài sản
tồn đọng được thực hiện như sau:
a) Đối với các khoản tiền, tài sản
của các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng đang do cơ
quan, tổ chức khác giữ thì cơ quan thi hành án chủ động thu hồi hoặc phối hợp với
Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan hữu quan thực hiện các biện pháp cần thiết để
thu hồi khoản tiền, tài sản đó.
b) Đối với các khoản tiền, tài sản
tồn động mà đã xác định được người thi hành án, thì cơ quan thi hành án thông
báo và định thời hạn để họ đến nhận. Trong trường hợp họ chưa nhận khoản tiền,
tài sản đó, thì cơ quan thi hành án lập biên bản ghi rõ lý do và tạm gửi tiền
vào kho bạc Nhà nước, giữ tài sản đó ở cơ quan thi hành án. Hết thời hạn ba năm
đối với người được thi hành án là cá nhân, một năm đối với người được thi hành
án là cơ quan, tổ chức, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, mà
người được thi hành án vẫn không nhận số tiền, tài sản được hưởng, thì cơ quan
thi hành án làm thủ tục nộp tiền, tổ chức bán đấu giá tài sản đó và nộp tiền
vào ngân sách Nhà nước.
c) Đối với các khoản tiền, tài sản
tồn đọng mà chưa xác định được người được thi hành án, thì cơ quan thi hành án
phải thông báo, miêm yết công khai về từng khoản tiền, tài sản tồn đọng. Hết thời
hạn ba tháng, kể từ ngày thông báo công khai, mà không có người đến nhận, thì
cơ quan thi hành án làm thủ tục tạm gửi tiền vào kho bạc Nhà nước, giữ tài sản
đó ở cơ quan thi hành án.
Trong trường hợp người được thi
hành án có yêu cầu và chứng minh được quyền hưởng khoản tiền đã tạm nộp vào
ngân sách nhà nước, mà thời hiệu thi hành án chưa hết hoặc thời hiệu thi hành
án được khôi phục, thì cơ quan thi hành án làm thủ tục rút lại khoản tiền đó từ
kho bạc để thi hành án;
d) Đối với các khoản tiền, tài sản
đang tồn đọng thuộc diện tiêu huỷ theo quyết định của bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật hoặc đã mục nát, hư hỏng nặng không còn giá trị sử dụng, thì
cơ quan thi hành án lập Hội đồng tiêu huỷ tang vật gồm đại diện cơ quan tài
chính cùng cấp, cơ quan chuyên môn khác có liên quan, do Thủ trưởng cơ quan thi
hành án làm chủ tịch. Viện kiểm sát giám sát việc tiêu huỷ. Biên bản tiêu huỷ
phải có chữ ký của Chủ tịch, các thành viên Hội đồng tiêu huỷ và được sao gửi
cho Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan tài chính cùng cấp và lưu vào hồ sơ thi hành
án.
VI. VIỆC KÊ
BIÊN TÀI SẢN
1. Trong trường hợp người phải thi
hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn mức phải thi hành án và
tài sản đó là một vật thể thống nhất, nếu tách ra từng phần thì mất hoặc giảm một
cách đáng kể giá trị sử dụng của tài sản, chấp hành viên phải có quyền kê biên
tài sản đó. Sau khi bán đấu giá tài sản và thanh toán các chi phí về thi hành
án, số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.
2. Khi kê biên tài sản, nếu có
tranh chấp về tài sản bị kê biên, thì chấp hành viên giải thích cho người được
thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến tài
sản tranh chấp về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý
đơn khới kiện. Toà án phải khẩn trương giải quyết về tài sản để việc thi hành
án được tiếp tục, bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.
Hết thời hạn ba tháng, kể từ
ngày kê biên tài sản, mà không có người khởi kiện, thì tài sản bị kê biên được
xử lý để thi hành án.
VII. KIỂM SÁT
VIỆC THI HÀNH ÁN
1. Trong phạm vi chức năng, quyền
hạn của mình, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiến hành kiểm sát công tác thi hành
án, cụ thể là:
a) Kiểm sát hoạt động của Toà án
trong việc chấp hành các quy định của pháp luật thi hành án dân sự về:
- Thời hạn và thủ tục chuyển
giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản, tang
vật chuyển giao tài sản tang vật.
- Việc cấp bản sao bản án, quyết
định cho các đương sự.
b) Kiểm sát việc các cơ quan thi
hành án, chấp hành viên tuân theo các quy định của pháp luật thi hành án dân sự
về:
- Việc ra các quyết định về thi
hành án và quyết định uỷ thác thi hành án;
- Thủ tục thi hành án, thực hiện
biện pháp cưỡng chế thi hành án; - Việc giải quyết khiếu nại hành vi trái pháp
luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, của chấp hành viên.
c) Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của lực lượng cảnh sát nhân dân trong việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.
2. Khi tiến hành kiểm sát việc
thi hành án, Viện kiểm sát có quyền:
a) Yêu cầu các cơ quan, tổ chức,
cá nhân nói trên tự kiểm tra và thông báo cho Viện kiểm sát biết kết quả tự kiểm
tra; yêu cầu cung cấp tài liệu, vật chứng liên quan đến việc thi hành án. Văn bản
yêu cầu của Viện kiểm sát phải xác định rõ đối tượng, nội dung tự kiểm tra hoặc
cung cấp tài liệu, thời hạn trả lời kết quả tự kiểm tra hoặc cung cấp tài liệu,
vật chứng. Các yêu cầu của Viện kiểm sát phải được thực hiện trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
b) Trực tiếp kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. Khi thực hiện quyền này, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải
ra quyết định xác định rõ đối tượng, nội dung, phạm vi các vấn đề kiểm sát, thời
điểm và thời gian tiến hành, kết thúc việc kiểm sát; phân công kiểm sát viên,
cán bộ thực hiện và lập văn bản kết luận cuộc kiểm sát trực tiếp;
c) Kháng nghị với Toà án cơ quan
thi hành án cùng cấp và cấp dưới, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân có trách nhiệm thi hành án, nếu có vi phạm pháp luật; kháng nghị các quyết
định thi hành án trái pháp luật.
Khi nhận được kháng nghị của Viện
kiểm sát, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nói trên có trách nhiệm trả lời
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị;
d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính người vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu của
tội phạm thì khởi tố về hình sự; khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của
pháp luật. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan cấp trên nhận được
kháng nghị của Viện kiểm sát đối với cấp dưới của mình thì thời hạn trả lời là
ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân hữu quan không nhất trí với nội dung kháng nghị, thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân đó có quyền đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem
xét lại kháng nghị hoặc quyết định đó. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải
xem xét và trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ thi
hành án. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.
VIII. HIỆU LỰC
THI HÀNH
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày ký và thay thế các văn bản của Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành trước đây hướng dẫn về việc thi hành án
dân sự.
Đối với các bản án, quyết định
dân sự có hiệu lực pháp luật trước ngày 1-6-1993, nhưng chưa được thi hành, thì
việc thi hành án được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự
và Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có gì vướng mắc, các cơ quan hữu quan phản ánh về Toà án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có hướng dẫn giải quyết.
Nguyễn
Ngọc Hiến
(Đã
ký)
|
Nguyễn
Thị Tuyết
(Đã
ký)
|
Trịnh
Hồng Dương
(Đã
ký)
|