CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 05/2003/NQ-CP
|
Hà Nội , ngày 04
tháng 4 năm 2003
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 05/2003/NQ-CP NGÀY 04 THÁNG 4 NĂM 2003 VỀ
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 3 NĂM 2003
Trong hai ngày 31 tháng 3 và 01
tháng 4 năm 2003, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 3 năm 2003, thảo luận và
quyết nghị các vấn đề sau đây:
1. Chính phủ đã
nghe và thảo luận Chiến lược Cải cách hệ thống thuế giai đoạn từ nay đến năm
2010 do Bộ Tài chính trình.
Qua hai bước thực hiện cải cách
chính sách thuế từ năm 1990 đến năm 2000, nền kinh tế nước ta đã hình thành được
một hệ thống chính sách thuế thống nhất, bao quát được hầu hết các nguồn thu,
áp dụng cho mọi thành phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu chuyển đổi
nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính
sách thuế hiện hành đã bảo đảm động viên một phần thu nhập quốc dân, đáp ứng
yêu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước và trở thành công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến
khích đầu tư và xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bảo hộ sản xuất trong
nước, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, hệ
thống thuế hiện hành vẫn còn những hạn chế do chưa bao quát hết đối tượng chịu
thuế, nộp thuế; công tác quản lý thuế thiếu nhạy bén, chậm nắm bắt tình hình để
đề ra các chính sách phù hợp; trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực thuế chưa
nghiêm, tình trạng thất thu thuế, trốn thuế, gian lận thuế, tiêu cực trong quản
lý thuế còn khá phổ biến.
Thuế là vấn đề phức tạp, liên
quan đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, vì vậy cần được nghiên cứu kỹ để có
giải pháp đổi mới, khắc phục những tồn tại, xây dựng hệ thống thuế vừa đồng bộ
vừa hoàn thiện cả về chính sách cũng như công tác quản lý thuế.
Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Chính phủ và các Bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các
thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh đề án Chiến lược Cải cách hệ thống thuế trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Bộ Chính trị.
2. Chính phủ
nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một
số Điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày
01/9/1999 và được sửa đổi tại Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của
Chính phủ.
Kể từ năm 1994 đến nay, Nhà nước
đã ban hành 11 văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu nhằm tăng cường quản lý vốn
và tài sản nhà nước trong đầu tư, xây dựng. Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo
Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định
số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính phủ đã và đang phát huy tác dụng tích
cực và trở thành công cụ để kiểm soát việc chi tiêu, sử dụng vốn của Nhà nước một
cách có hiệu quả, bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu thầu.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, Quy chế đấu thầu đến nay đã phát sinh những
điểm không phù hợp như quy trình tổ chức đấu thầu còn phức tạp, kéo dài, không
rõ trách nhiệm, nhiệm vụ trong tổ chức đấu thầu, quản lý nhà nước về đấu thầu...
làm cho việc đấu thầu một số dự án, công trình trở nên hình thức, kém hiệu quả
và dễ phát sinh tiêu cực. Những tồn tại trên cần được khẩn trương sửa đổi nhằm
nâng cao chất lượng đấu thầu và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu thầu.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ
trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các Bộ có liên quan tiếp thu các ý kiến
tại phiên họp, hoàn chỉnh dự thảo Nghị định, gửi xin ý kiến thành viên Chính phủ
trước khi trình Thủ tướng ký ban hành.
3. Chính phủ đã
nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự án Luật Doanh nghiệp nhà nước (sửa
đổi), Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình dự án Luật Đất đai (sửa đổi),
Bộ Nội vụ trình các dự án Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa
đổi), Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi) và Luật Thi đua khen thưởng;
nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành
viên Chính phủ về các dự án Luật trên.
Chính phủ đã thảo luận, xem xét
về các vấn đề còn ý kiến khác nhau trong nội dung các dự án Luật trên.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ
trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp
thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Doanh nghiệp nhà nước
(sửa đổi); Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ
trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự án Luật.
Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường
chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan
tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Đất đai (sửa đổi),
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.
Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến
các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Thi đua khen thưởng; Bộ trưởng
Bộ Nội vụ thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự
án Luật.
Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp
với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến
các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân (sửa đổi) và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi),
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc trình Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.
4. Chính phủ
nghe Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội báo cáo một số vấn đề cấp bách
liên quan đến công tác xây dựng và phát triển thủ đô.
Chính phủ ghi nhận những kiến
nghị, đề xuất của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Giao các Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình khẩn trương
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho xây dựng
và phát triển Hà Nội; yêu cầu các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tăng cường phối hợp
với các cơ quan của Hà Nội trong các lĩnh vực công tác liên quan, nhất là vấn đề
giải phóng mặt bằng, quản lý đất đai, quản lý đô thị... theo đúng quy định của
pháp luật.
5. Chính phủ đã
nghe Phó Thủ tướng Vũ Khoan báo cáo một số vấn đề về tình hình chiến sự tại I-rắc
và những ảnh hưởng, tác động đến kinh tế nước ta; nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I năm 2003; Bộ trưởng
Bộ Y tế báo cáo tình hình dịch viêm đường hô hấp cấp do vi rút; Bộ trưởng Bộ
Thương mại báo cáo về tình hình xuất khẩu và giải pháp ổn định, đẩy mạnh xuất khẩu.
Quý I năm 2003, nước ta phải
đương đầu với nhiều khó khăn do thời tiết khô hạn trên diện rộng, đặc biệt ở một
số tỉnh Tây Nguyên và miền Trung, nguy cơ cháy rừng cao; giá cả hàng hoá thị
trường thế giới biến động, một số nguyên, nhiên, vật liệu tăng giá; chiến tranh
tại I-rắc gây tác động tiêu cực đến kinh tế nước ta, nhất là hoạt động xuất khẩu,
du lịch.
Dự báo được tình hình, ngay từ đầu
năm, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện nhiệm
vụ kế hoạch năm 2003 và các giải pháp ứng phó. Vì vậy, nhìn chung, các hoạt động
kinh tế đến nay vẫn duy trì được đà tăng trưởng của năm 2002. Sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, nhất là khu vực ngoài
quốc doanh. Hoạt động dịch vụ đa dạng, thị trường trong nước sôi động. Kim ngạch
xuất khẩu bằng 26% kế hoạch năm và tăng 43,1% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu
tư toàn xã hội đạt khá, nhất là đầu tư của dân cư, tiến độ xây dựng các công
trình trọng điểm được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước có chuyển biến tích cực.
Hoạt động tiền tệ có một số tiến bộ. Nhiều hoạt động xã hội được triển khai tốt,
quyết liệt, kịp thời và có hiệu quả, đặc biệt trong việc phòng chống dịch bệnh
viêm đường hô hấp cấp, bảo đảm trật tự an toàn, chống ùn tắc và tai nạn giao
thông. Công tác chuẩn bị cho Seagames 22 tiếp tục được đẩy mạnh. Quốc phòng, an
ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
kinh tế vẫn còn thấp hơn so với kế hoạch đề ra. Khó khăn về thời tiết còn tiếp
tục tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp ở miền Trung và Tây Nguyên. Giá cả một
số nguyên vật liệu đầu vào tăng cao ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư.
Đặc biệt, cuộc chiến tranh tại I-rắc nếu kéo dài sẽ gây tác động không thuận
cho xuất khẩu, thương mại, đầu tư và du lịch nước ta.
Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương:
1) Theo dõi, bám sát tình hình
trong nước và quốc tế, đề ra và triển khai thực hiện tốt các giải pháp hạn chế
tối đa ảnh hưởng đối với sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của nền
kinh tế nước ta, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
2) Chỉ đạo sát sao việc thực hiện
các giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu. Giao Bộ Thương mại chủ trì cùng các Bộ, cơ
quan liên quan nghiên cứu xây dựng phương án bảo đảm thị trường xuất khẩu, nhất
là đối với các mặt hàng như gạo, chè, sữa, dầu ăn...
3) Tập trung chỉ đạo công tác đầu
tư xây dựng cơ bản, chú trọng đẩy mạnh tiến độ thi công của các dự án quan trọng,
các dự án có thể hoàn thành trong năm; đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn
ODA, huy động đa dạng nguồn vốn, bảo đảm đủ vốn cho đầu tư phát triển.
4) Tìm các giải pháp hữu hiệu
phòng chống thiên tai, khắc phục hậu quả hạn hán và những khó khăn trong sản xuất
nông nghiệp.
5) Tăng cường các biện pháp về
hành chính và kinh tế để quản lý tốt thị trường, quản lý xã hội. Đặc biệt chú
trọng phòng ngừa và xử lý hiệu quả dịch viêm đường hô hấp cấp; tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông; kiềm chế và đầy lùi
tệ nạn xã hội.